Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

cây ăn quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.82 MB, 126 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN





BÀI GIẢNG
CÂY ĂN QUẢ













Người biên soạn: ThS. Trần Đăng Khoa














Huế, 08/2009


1
BÀI 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY ĂN QUẢ

1. Ý NGHĨA PHÁT TRIỂN NGHỀ TRỒNG CÂY ĂN QUẢ TRONG NỀN KINH
TẾ QUỐC DÂN

Nghề trồng cây ăn quả là một bộ phận của sản xuất nông nghiệp mà đối tượng của nó
là những cây lâu năm có quả ăn được.
Khoa học về cây ăn quả nghiên cứu các đặc tính sinh học của cây ăn quả, vị trí và vai
trò của chúng trong hệ thống sinh thái, những quy luật về mối quan hệ giữa cây ăn quả với
điều kiện ngoại cảnh. Từ đó đặt cơ sở lý luận cho việc phát triển nghề trồng cây ăn quả với
những biện pháp kỹ thuật thích hợp nhằm thâm canh tăng năng suất và phẩm chất quả. Nghề
trồng cây ăn quả có lợi về nhiều mặt như sau :

Bảng 1: Giá trị dinh dưỡng của trái cây trên 100g quả tươi



2
- Các loại quả là nguồn dinh dưỡng quý của con người. Trong quả có nhiều đường dễ
tiêu, axit hữu cơ, mỡ, protein, hợp chất khoáng, pectin, tanin, chất thơm, Vitamin C, B, B1,
B2, B6, P, PP, Prôvitamin A và các chất khác. Là những chất dinh dưỡng không thể thiếu

được của cơ thể con người. Để con người hoạt động được bình thường phải cung cấp hàng
năm khoảng 100 kg quả các loại.
- Các loại quả và các bộ phận khác của cây như rễ, lá, hoa, vỏ, hạt...có khả năng chữa
bệnh (cao huyết áp, tim mạch, suy nhược thần kinh, dạ dày, đường tiêu hóa, kiết lỵ, chống
nhiễm xạ).
- Cung cấp nguyên liệu cho nhà máy để ép dầu, chế biến rượu, xi rô, đồ hộp, mứt, quả
sấy khô.
- Cây ăn quả còn có tác dụng lớn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái với các chức
năng làm sạch môi trường, giảm tiếng ồn, làm rừng phòng hộ chống xói mòn, làm đẹp cảnh
quan, là nguồn mật để nuôi ong.
- Giá trị kinh tế do trồng cây ăn quả mang lại gấp 2-3 lần thậm chí 10 lần so với trồng
lúa. Vốn đầu tư vào trồng cây ăn quả thu hồi nhanh trong một số năm sau khi cây bước vào
thời kỳ kinh doanh.
Chính vì nhữ ng ý nghĩa to lớn nói trên, ngày nay nhiều nước đang ra sức phát
triển cây ăn quả đặc sản dựa vào lợi thế về khí hậu, đất đai, nguồn lao động và kinh
nghiệm cổ truyền của mình kết hợp với việc vận dụng các thành tựu hiện đại trong
khoa học về nghề vườn để có nhiều sản phẩm xuất khẩu.

2. TÓM TẮT LỊCH SỬ NGHỀ TRỒNG CÂY ĂN QUẢ.
- Nghiên cứu nguồn gốc các loại cây trồng trên thế giới, viện sĩ Vavilop cho rằng quê
hương của nhiều loài cây ăn quả là vùng Đông Nam Á, Tiểu Á, Trung Á, Ngoại Capcaz và
ven biển Địa Trung Hải.
Vườn treo Babilon ở Axiri xuất hiện sớm nhất (Trước công nguyên 3000 năm), nghề
trồng cây ăn quả ở Trung Quốc có cách đây 2500 - 3000 năm, còn ở Ấn Độ đã có từ 1280 năm
trước công nguyên. Táo, lê, đào, mận, mơ, táo tàu, hạt dẻ...đã được trồng cách đây hơn 4.000
năm. Cam, chanh, anh đào và một số quả nạc khác thì có trên dưới 2.000 năm.
Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều có phát triển cây ăn quả. Những nước có
diện tích cây ăn quả lớn là Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ ...
- Nghề trồng cây ăn quả đã có ở Việt Nam cách đây 2.000 năm. Mặc dù có điều kiện
khí hậu đất đai rất thuận lợi cho cây ăn quả phát triển, nhưng do điều kiện xã hội, kinh tế, nghề

trồng cây ăn quả Việt Nam trước đây ở vào tình trạng kém phát triển và sản lượng hàng hóa ở
mức thấp.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 Đảng và nhà nước có những chủ trương, chính sách
phát triển nông nghiệp toàn diện, trong đó chú ý phát triển nghề trồng cây ăn quả.
Phần lớn vườn cây ăn quả thuộc sở hữu tư nhân (khoảng 89% diện tích), quốc doanh
và tập thể chỉ chiếm trên dưới 11%.
- Phương hướng phát triển nghề trồng cây ăn quả ở nước ta đến năm 2010: nước ta có
điều kiện sinh thái rất đa dạng với chế độ khí hậu nhiệt đới ẩm và á nhiệt đới cùng với sự phân
hóa của địa hình đã tạo nên những vùng khí hậu đặc thù có thể phát triển được các loài cây ăn
quả nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới.

3
Hiện nay nước ta đã hình thành nhiều vùng cây ăn quả đặc sản có năng suất cao và
chất lượng tốt như: xoài cát Hòa Lộc (Tiền Giang), quýt tiều Đồng Tháp, nho Phan Rang
(Ninh Thuận), nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều Thanh Hà, Lục Ngạn, bơ, sầu riêng Đắc Lắc...

Bảng 2. Diện tích và sản lượng một số trái cây

Loại trái Diện tích hiện tại (ha) Diện tích cho trái (ha) Sản lượng (tấn)
Chuối 99.340 88.940 1.281.805
Cam, quýt 78.649 50.175 497.326
Bưởi, bòng 24.721 15.319 178.126
Xoài 68.986 41.452 264.045
Dứa 41.651 33.356 383.155
Nhãn 126.265 88.474 569.687
Vải, chôm chôm 109.538 73.455 314.767
Dừa 113.533 120.245 893.500
Thanh long 9.571 8.405 141.202

Nguồn: Hiệp hội trái cây Việt Nam (2003)

Phát triển nghề trồng cây ăn quả trong những năm qua đã góp phần vào chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, chuyển đổi mùa vụ làm tăng thêm giá trị sử dụng ruộng đất. Tăng thu nhập góp
phần xóa đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, cải thiện môi sinh. Năm 2005 giá trị
xuất khẩu quả đạt 234 triệu đô la. Dự kiến 2010 đạt 700 triệu đô la.
Trong những năm tới ngành rau quả sẽ là một trong những ngành sản xuất hàng hóa
lớn và có giá trị xuất khẩu cao của ngành nông nghiệp nước ta.
Phấn đấu tiêu thụ về rau quả một người /năm sẽ là:

Năm 2000 Năm 2010
Rau (kg) 90 - 100 100 - 110
Quả (kg) 60 - 70 80 - 100

Đặc điểm nghề trồng cây ăn quả trên thế giới:
- Vấn đề quan tâm hàng đầu của nghề trồng cây ăn quả thế giới là giống mới phải có
năng suất cao, sớm có quả, có phẩm chất tốt, có khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu đất
đai ở địa phương và chống chịu sâu bệnh tốt.
- Song song với công tác giống là việc chọn gốc ghép thích hợp cho từng loại cây và
tùy từng điều kiện sinh thái cụ thể, chọn những gốc ghép lùn. Người ta cũng chú ý chọn những
cây đầu dòng làm gốc ghép và nhân lên bằng phương pháp vô tính (giâm cành).
- Nghiên cứu kỹ thuật trồng và chăm sóc cây ăn quả: khoảng cách và mật độ trồng, tạo
hình, tỉa cành, bón phân, tưới nước, giữ ẩm, chống xói mòn, nghiên cứu thực nghiệm các loại
máy công tác trong vườn quả, máy thu hoạch...
- Phòng trừ sâu bệnh: giống cây ăn quả và phòng trừ sâu bệnh đã trở thành hai vấn đề
quan trọng. Chương trình phòng trừ tổng hợp (Integrated Pest Management)
- Nghiên cứu kỹ thuật thu hái, xử lý sau thu hoạch cây ăn quả.

4
3. DANH MỤC CÁC LOÀI CÂY ĂN QUẢ TRONG NƯỚC.
3.1 Cây hạt kín một lá mầm
3. 1.1. Họ dứa Bromeliaceae

Cây dứa Ananas comosus (L.) Mer. (A. Sativa L.)
3. 1.2. Họ chuối Musaceae
Chuối tiêu Musa nana Lour = M. Cavendishii Lamb.
Chuối tây, chuối ngự, chuối cau và các giống chuối ăn quả chín khác
Musa sapientum L.
Chuối bột Musa paradisiaca
3. 1.3. Họ dừa Palmaceae = Palmae
Dừa Cocos nucifera L.
Muồng Phoenix humilis Royle.
Chà là Phoenix loureiri (Becc.) Kunth.
Cọ Livistona cochinchinensis(BI.) Mảt.
3.2 Cây hạt kín hai lá mầm
3. 2.1. Đào lộn hột Anacardiaceae
Đào lộn hột Anacardium occidentale L.
Sấu Dracontomelum dupperreanum Pierre
Muỗm Mangifera foetida.
Xoài Mangifera indica L.
Quéo Mangifera reba Piesre.
Cóc Spondias dulcis Soland et Park
Thanh trà Bouea oppositifolia (Roxb.) Adelb.
Dâu da xoan Allospondias lakonensis (Pierre) Stapf.
3. 2.2. Họ na Annonaceae
Na Annona squamosa L.
Mãng cầu xiêm Annona muricata L.
Nê (bình bát) Annona reticulata L.
Bình bát nước Annona glabra L.
Na quả tròn Annona montana Macfad.
3. 2.3 Họ trúc đào Apocynaceae
Gùi (guồi) Willughbeia cochinchinensis Pierre.
3. 2.4. Họ gạo Bombacaceae

Sầu riêng Durio zibethinus Murr.
3. 2.5. Họ trám Burseraceae
Trám trắng (cà na) Canarium album (Lour) Raeusch et DC.
Trám đen (cây bùi) Canarium tramdenum Yakovl et Đai.
Trám chim Canarium tonkinensis Engl
3. 2.6. Họ xương rồng Cactaceae
Thanh long Hylocereus undatus (Haw.) Britt et Rose.
3. 2.7. Họ vang Caesalpiniaceae = Leguminaceae
Me Tamarindus indica L.

5
Xay Dalium cochinchinensis Pierre.
3. 2.8. Họ đu đủ Caricaceae = Papayaceae
Đu đủ Carica papaya L.
3. 2.9. Họ bàng Combretaceae
Bàng Terminalia catappa L.
3. 2.10. Họ bầu bí Cucurbitaceae
Dưa hấu Citrullus vulgaris Schral = C. lanatus (Thumb.)
Mausf.
Dưa lê Cucumis melo
3. 2.11. Họ sổ Dilleniaceae
Sổ bà Dillenia indica L.
3. 2.12. Họ thị Ebenaceae
Thị Diospyros decandra Lour.
Hồng Diospyros kaki L.F.
Cậy Diospyros lotus L.
Hồng rừng Diospyros tonkinensis A. Chev.
Thị rừng Diospyros rubra H.Lee.
Hồng nhung Diospyros discolor Willd.
3. 2.13. Họ nhót Eleagnaceae

Nhót Eleagnus latifolia L.
3. 2.14. Họ thầu dầu Euphorbiaceae
Dâu gia Baccaurea ramiflora Lour.
Me rừng (Chùm ruột núi) Phyllanthus emblica L.
Chùm ruột Phyllanthus acidus (L.) Skeels.
Chòi mòi Antidesma bunius (L.) Spreng.
3. 2.15. Họ sồi giẻ Fagaceae
Giẻ Trùng Khánh Castanea mollisima Bl.
Giẻ Yên Thế Castanopsis boisii Hikel et Camus.
Giẻ Bắc Giang Castanopsis tribuloides A.DC.
3. 2.16. Họ mùng quân Flacourtiaceae
Hồng quân Flacourtia cataphracta Roxb.
Flacourtia jangomas (Lour.) Raeusch.
Bồ quân rừng Flacourtia rukam Zoll et Moritzi.
3. 2.17. Họ bứa Guttiferae = Clusiaceae
Măng cụt Garcinia mangostana L.
Dọc Garcinia multiflora Champ. =
G. Tonkinensis
Bứa Garcinia conchinchinensis (Lour.)
Choisy.
Tai chua Garcinia cowa Roxb. = G. Loureiri
Pierre.
3. 2.18. Họ óc chó Juglandaceae

6
Óc chó Juglans regia L.
Mạy châu (Sơn hạch đào) Carya tonkinensis H.Lec.
3. 2.19. Họ long não Lauraceae
Bơ (avôcachiê) Persea americana Mill.
3. 2.20. Họ măng rô Malpighiaceae

Sêri Malpighia punicifolia L. = M. Glabra L.
3. 2.21. Họ xoan Meliaceae
Lòn bon Lansium domesticum Hiern. Var
Langsat Jack.
3. 2.22. Họ trinh nữ Mimosaceae
Me tây Enterolobium saman Prain.
3. 2.23. Họ dâu tằm Moraceae
Mít nài Artocarpus asperula Gagnep.

Mít Artocarpus heterophyllus Lam=
A. Integrifolia
Mít tố nữ Artocarpus champeden (Lour.) Spreng.
Xa kê Artocarpus communist Forst. = A. Altilis (Park)
Fosb.
Chay Artocarpus tonkinensis A. Chev.
Vả Ficus auriculata Lour. = F. Roxburghii Wall.
Dâu ăn quả Morus acidosa Griff.
Dâu tằm Morus alba L.
3. 2.24. Họ dâu rượu Myricaceae
Thanh mai Myrica rubra
Dâu rượu Myrica nana
Dâu Tây Nguyên Myrica esculenta
3. 2.25. Họ sim Myrtaceae
Ổi Psidium guajava L.
Ổi tàu Psidium guajava L. Var. Pumilum
Wahl.
Sim Rhodomyrtus tomentosa (Ait.)Hassk.
Lý, bồ đào Eugenia jambos L.
Gioi (mận, đào tiên) Eugenia javanica Lam.
Điều đỏ Eugenia malaccensis Linn.

3. 2.26. Họ chua me đất Oxalidaceae
Khế Averrhoa carambola L.
Khế tàu (Khế dưa chuột) Averrhoa bilimbi L.
3. 2.27. Họ lạc tiên Passifloraceae
Chùm bao (chanh dây) Passiflora edulis Sims. Var.
Flavicarpa
Dưa tây Passiflora quadrangularis L.

7
3. 2.28. Họ lựu Punicaceae
Lựu Punica granatum L.
3. 2.29. Họ táo ta Rhamnaceae
Táo ta Ziziphus mauritiana Lamk.
Táo Tàu Ziziphus jujuba Mill = Z. Vulgaris Lam.
Táo dại Ziziphus oenoplia Mill.
3. 2.30. Họ hoa hồng Rosaceae
Nhót tây (Sơn tra N hật Bản) Eriobotrya japonica (Thunb.)
Lindl.
Dâu tây Fragaria vesca L.
Mắc coọc Pyrus pashia Ham.
Lê Pyrus pyrifolia Nakai.
Táo tây Malus pumila Mill.
Sơn tra (chua chát) Crataegus pinnatifida Bunge.
Mơ Prunus armeniaca L.
Song mai Prunus mume S tet Z.
Mận Prunus salicina Lindl
Đào Prunus persica (L.) Batsch.
Đào dại Prunus macrophylla Sieb et Ziec.
Mâm xôi Rubus alcaefolius Poir.
Ngấy hương Rubus cochinchinensis Tratt.

Ngấy tía Rubus parvifolius L.
3. 2.31. Họ cam Rutaceae
Bưởi bung Acronychia pedunculata (L.) Miq.
Quýt rừng (quýt gai) Atalantia roxburghiana Hosk F.
Bưởi Citrus grandis (L.)
Osbeck (C.Decumana Murr)
Bưởi chùm Citrus paradishi Macf.
Quất Fortunella Swingle.
Thanh yên Citrus medica L.
Phật thủ Citrus medica var. Sarcodactylis (Sieb)
Sw.
Chanh giấy Citrus limonia Osbeck.
Chanh núm Citrus limon Burm.
Cam đắng Citrus aurantium L.
Cam chanh Citrus sinensis Osbeck.
Quýt Citrus reticulata Blanco (C. Nobilis Loureiro, C.
Deliciosa Tenore)
Chanh lime Citrus aurantifolia Swingle.
Chấp Citrus hystrix D.C.
Chanh sần Citrus jambhiri
Kim quất Triphasia trifolia (Burm. F.)P.

8
Hồng bì Clausema lansium (Lour.) Skeels.
3. 2.32. Họ bồ hòn Sapindaceae
Vải Litchi sinensis Sonn. (Nephelium litchi Cambes)
Nhãn Euphoria longan (Lour.) Steud. (Nephelium
longana Cambes)
Chôm chôm Nephelium lappacum L. = Rambutan
Vải rừng Nephelium bassacence Pierre.

Nhãn rừng Euphoria chevalieri Gagnep.
3. 2.33. Họ hồng xiêm Sapotaceae
Hồng xiêm Achras zapota L.
Vú sữa Chrysophyllium canito L.
Lêkima (trứng gà) Lucuma mamosa Gaertn.
3. 2.34. Họ đay Tiliaceae
Trứng cá Muntingia calabur L.
3. 2.35. Họ trôm Sterculiaceae
Lười ươi Scaphium lychnophorum (Hance) Kost.
3. 2.36. Họ nho Vitaceae = Ampelidaceae
Nho Vitis vinfera L.
Nho rừng Ampelocissus martini Planch.

4. PHÂN LOẠI CÂY ĂN QUẢ Ở VIỆT NAM.

Ở Việt Nam có 39 họ, 124 loài và có trên 350 giống. Dựa vào nguồn gốc và yêu cầu về
nhiệt độ để sinh trưởng và phát triển có thể được chia thành ba loại .
- Nhóm cây ăn quả nhiệt đới: chuối, dứa, mít, xoài, ổi, dừa, đu đủ, na, sầu riêng, măng
cụt, vú sữa, hồng xiêm, trứng gà, me, gioi, dâu gia, táo, chùm ruột, khế, dưa, hấu, đào lộn
hột...
- Nhóm cây ăn quả á nhiệt đới: bơ, cam, quýt, vải, nhãn, lựu, hồng, nhót...
- Nhóm cây ăn quả ôn đới: mận, táo tây, đào, lê, nho, dâu tây, óc chó...
Trong ba nhóm trên, nhóm cây ăn quả nhiệt đới chiếm vị trí quan trọng về tỷ lệ thành
phần loài và giống cây ăn quả cũng như diện tích trồng.
Hiện nay có 40 loài với hàng trăm giống trồng rộng rãi ở các vùng có giá trị kinh tế
như: chuối, mít, dứa, na, xoài, đu đủ, sầu riêng, măng cụt, hồng xiêm, chôm chôm, gioi, dâu
gia, táo, chùm ruột, khế, đào lộn hột, bơ, cam, quýt, chanh, bưởi, vải, nhãn, lựu, hồng, nhót,
mận, táo tây, đào, lê, nho, thanh long...
Dựa vào giá trị sử dụng sản phẩm có thể chia thành các nhóm:
- Nhóm cây ăn quả cho đường bột: mít, chuối, hạt dẻ, xakê.

- Nhóm cây cho chất béo: bơ, dừa, óc chó, mạy châu.
- Nhóm cung cấp nguồn vitamin các loại: cam, quýt, chanh, xoài, bơ, đu đủ, ổi, sêri,
đào lộn hột...
- Nhóm cây ăn quả sử dụng các bộ phận của cây để làm thuốc: đu đủ (hoa, thịt quả),
măng cụt (vỏ), táo (lá), lựu (rễ), chuối (thịt quả)...

9
- Nhóm cây ăn quả vừa cho quả vừa làm cây bóng mát: xoài, dừa, mít, sấu, nhãn, vải,
hồng xiêm, vú sữa, dâu gia, xoan, lựu...
- Nhóm cây ăn quả cho ta nanh: hồng, vải, bàng, măng cụt, cóc, sim, ổi..
- Nhóm cây chủ để thả cánh kiến: táo, vải, nhãn, óc chó, bình bát.
- Nhóm cây nguồn mật: vải, nhãn, táo, cam, quýt, xoài.
- Nhóm cây cho nhựa: trám, đu đủ, hồng xiêm.
- Nhóm cây ăn quả làm rau: mít, đu đủ, dọc, sấu, tai chua, khế.

5. TÌNH HÌNH PHÂN BỐ TỰ NHIÊN CÂY ĂN QUẢ Ở NƯỚC TA

Trải dài 15 vĩ độ từ Nam ra Bắc, lại ảnh hưởng của địa hình nên khí hậu mỗi vùng có
những nét riêng. Các yếu tố sinh thái như nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, lượng bức xạ, gió,
độ ẩm không khí, đất đai, tình hình sâu bệnh... không những ảnh hưởng trực tiếp đến sinh
trưởng, phát triển, năng suất và phẩm chất của từng giống cây ăn quả mà còn ảnh hưởng đến
sự phân bố các loài và giống cây ăn quả trên địa bàn cả nước.
Những loài cây ăn quả như chuối, dứa, mít, hồng xiêm, táo, ổi, na, đu đủ, cam, chanh,
quýt bưởi...được trồng rộng rãi ở các vùng trong nước, trừ những nơi mùa đông có nhiệt độ
thấp hoặc sương muối.
Do yêu cầu điều kiện sinh thái của từng giống, đối chiếu với tình hình khí hậu đất đai
cụ thể ở các vùng, một số cây ăn quả có phạm vi phân bố hẹp hơn.
Ví dụ:
-Vải và hồng trồng và cho quả tốt từ vĩ tuyến 18 - 19 trở ra Bắc. Ở miền Nam hồng chỉ
trồng được ở Đà Lạt có độ cao so với mặt biển khoảng 1500m.

- Xoài trồng tốt kể từ Bình Định trở vào (Vĩ tuyến 14). Nếu trồng lên phía Bắc lúc ra
hoa gặp rét và ẩm, tỷ lệ đậu quả rất thấp, hiệu quả kinh tế kém. Riêng vùng Yên Châu (Sơn
La) và Khe Sanh - Lao Bảo (Quảng Trị) có tiểu khí hậu gần giống với miền Nam nên ở đó
xoài sinh trưởng khỏe, ra hoa đậu quả tốt.
- Đào lộn hột thích hợp với vùng cát ven biển từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào.
- Bơ phát triển tốt, cho nhiều quả trên đất Tây Nguyên, các tỉnh miền Bắc cũng có thể
trồng được nhưng chú ý chọn giống tốt và phòng trừ sâu bệnh trong mùa mưa.
- Dừa trồng có hiệu quả kinh tế từ Thanh Hóa trở vào ở 19 - 20 vĩ độ Bắc. Vượt quá 20
vĩ độ Bắc tuy cây dừa sinh trưởng tốt nhưng kết quả kém.
- Sầu riêng, măng cụt là hai cây ăn quả nhiệt đới điển hình cho đến nay mới trồng đến
Thừa Thiên Huế.
- Cây ăn quả ôn đới như: mận, đào, lê, hạt giẻ, óc chó, trồng và cho thu hoạch tốt ở các
tỉnh phía Bắc ở các độ cao từ 500m trở lên so với mặt biển.
- Trồng nho tốt nhất ở vùng Thuận Hải (vùng Phan Rang và các huyện lân cận). Thanh
long mọc tốt cho nhiều quả ở tỉnh Bình Thuận đang có xu hướng mở rộng ở nhiều tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long
Việc chọn các giống cây ăn quả thích hợp cho các vùng trong nước không những giúp
các nhà làm vườn giảm được vốn đầu tư, kinh doanh có lãi mà còn có thể hình thành được
vùng sản xuất chuyên canh để có thể có khối lượng hàng hóa lớn cung cấp cho nhu cầu trong
nước và xuất khẩu.

10

BÀI 2: CẤU TẠO CHUNG VÀ CÁC QUY LUẬT SINH
TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN CỦA CÂY ĂN QUẢ

A. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI CỦA CÂY ĂN QUẢ THÂN GỖ LÂU NĂM

1. HỆ RỄ
1.1. CÁC DẠNG CỦA BỘ RỄ.

Căn cứ vào các hình thức nhân giống cây ăn quả, có thể phân chia rễ thành hai nhóm
sau:
1.1.1. Hữu tính
Gồm những cây ăn quả mọc từ hạt và những cây mà hệ rễ mọc từ hạt, nhưng phần trên
mặt đất được ghép giống khác.
1.1.2. Vô tính
Gồm những cây có hệ rễ mọc ra từ các đốt trên thân cây (dâu tây) hoặc ở các vị trí bất
kỳ trên thân, cành do chiết cành, giâm cành, giâm rễ.

1. 2. PHÂN LOẠI RỄ.

1. 2.1. Căn cứ vào nguồn gốc: có hai loại rễ chính và rễ phụ.
- Rễ chính: mọc từ phôi rễ ở hạt
- Rễ phụ: mọc từ các mầm phụ ở các cơ quan khác nhau trên cây (thân, lá, rễ)
1. 2.2. Căn cứ vào sự phân bố của rễ trong đất: có hai loại rễ ngang và rễ đứng.
- Rễ ngang: phân bố song song với mặt đất ở độ sâu từ 10 - 100 cm hay sâu hơn. Rễ
này có chức năng hút nước, hấp thụ các chất dinh dưỡng...
- Rễ đứng: mọc vuông góc với bề mặt đất, ăn sâu từ 1 - 10m có tác dụng giữ cho cây
đứng vững. Rễ đứng còn có thể huy động các chất dinh dưỡng, nước ở các tầng đất sâu cho
cây.
1. 2.3. Căn cứ vào độ dài và độ lớn của rễ: bao gồm rễ cái, rễ con và rễ tơ.
- Rễ cái và rễ con: từ cấp 0 đến 1,2,3 thì rễ cái (rễ trụ) cấp 0, còn rễ con (rễ nhánh) từ
rễ cấp 1, cấp 2, cấp 3... những rễ này có độ dài 1cm - 10m, độ lớn 1mm - 5cm
- Rễ tơ (rễ hút) rất ngắn (1mm - 2cm) và nhỏ (1 - 3mm). Theo phân cấp thì những rễ
này thông thường từ cấp 4 - cấp 7
1. 2.4. Căn cứ vào hình thái, giải phẫu và chức năng
- Rễ sinh trưởng (rễ trục) : phát triển mạnh về chiều dài và ăn sâu vào các lớp đất, hình
thành các rễ hút mới. Nếu bị gẫy thì rễ không phát triển thêm được mà chỉ kích thích các rễ
con phát triển lên rất mạnh. Người ta áp dụng đặc tính này khi đánh trồng một số cây ăn quả
bằng cách cắt ngắn bớt rễ cái khiến bộ phận rễ còn lại mọc càng nhanh và nhiều thêm.

- Rễ hút: nhiệm vụ hút nước và chất dinh dưỡng từ trong đất nuôi cây. Rễ này không
sống được lâu (chỉ trong vòng 15 - 25 ngày, cá biệt được một vài tháng) sau đó chết đi từng
mảng.
- Rễ quá độ: nguồn gốc của loại rễ này phần lớn từ rễ hút mà ra và sau đó một thời
gian thì chết đi, còn phần nhỏ nữa được hình thành từ rễ sinh trưởng, loại này sau một thời

11
gian có thể hình thành rễ thứ cấp và lúc đó trở thành rễ hút. Sự có mặt của loại rễ này là dấu
hiệu chứng tỏ hoạt động của bộ rễ khá tốt.
- Rễ vận chuyển: là từ rễ sinh trưởng mà ra. Chức năng của nó là vận chuyển nước và
thức ăn (hai chiều), đồng thời cố định cây vào đất.
+ Lông hút: trên miền hấp thụ của rễ, một số tế bào của lớp biểu bì kéo dài ra phía
ngoài, hình ống và hình thành lông hút. Tầng lông hút chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn.
Ở các bộ phận rễ già thì nó chết dần và được sinh ra ở các bộ phận rễ non mới.
+ Rễ nấm: rễ nấm ở cây ăn quả thường có nấm ngoại sinh và nấm quá độ. Cây cung
cấp hydrat carbon cho nấm, ngược lại nấm cung cấp nước và các chất khoáng cho rễ ( táo tây,
lê, mận, anh đào, hạt giẻ, óc chó, cam, quýt, nhãn, vải và các loại quả mọng.)

2. M ẦM VÀ CÀNH

2. 1. MẦM
2. 1.1. Các loại mầm.
2. 1.1.1. Dựa vào cấu trúc và hình thái:
- Mầm lá
- Mầm hoa: đào, mận, mơ...
- Mầm hỗn hợp: cam, quýt, nho, hồng, táo ta...
2. 1.1.2. Dựa vào vị trí mầm đã được cố định hay bất định:
- Mầm cố định: mầm ngọn, mầm nách.
- Mầm bất định: mọc ra từ rễ hoặc từ các vị trí khác trên cành, trên thân.
2. 1.1.3. Căn cứ vào vị trí của mầm trên nách lá:

- Mầm chính: (2 hoặc 3) ở nách lá mầm chính thường ở giữa rất sung sức.
- Mầm phụ: mọc ở hai bên mầm chính hoặc phía trên mầm chính.
2. 1.1.4. Căn cứ vào số mầm trên đốt cành:
- Mầm đơn.
- Mầm kép: đào, mận.
2. 1.1.5. Căn cứ vào sự hoạt động của mầm.
- Mầm hoạt động.
- Mầm ngủ.
Có thể khái quát các loại mầm cây ăn quả theo sơ đồ sau:
Mầm lá
Mầm ngọn Mầm thuần
Mầm cố định Mầm hoa
Mầm nách Mầm lá Mầm hỗn hợp
Mầm Mầm thuần
Mầm hoa
Mầm bất định Mầm hỗn hợp

2. 1.2. Đặc tính các loại mầm
2. 1.2.1. Sức nảy mầm.

12
Mầm lá tỷ lệ nảy mầm cao (sức nẩy mầm khỏe). Ví dụ: một số giống cây trong nhóm
quả hạch như đào, mận,...Ngược lại khi trên cành phần lớn mầm không nảy, ở vào trạng thái
ngủ, trong trường hợp này sức nảy mầm của cây yếu. Ví dụ: táo tây, lê...
Cây có sức nảy mầm khỏe thường cho những cành dài và khỏe, cây có sức nảy mầm
yếu cho những cành yếu.
2. 1.2.2. Độ thành thục của mầm.
Khi thành mầm xong, mầm đó có thể nảy ngay thành cành (mầm chín sớm: đào, nho,
cam, quýt) những giống cây ăn quả này trong một năm cho nhiều đợt cành. Cây ăn quả có
mầm chín sớm thường sớm bước vào thời kỳ cho quả. Một số cây ăn quả xứ lạnh mầm thường

chín muộn hơn. Ví dụ: lê và táo tây...năm trước hình thành mầm thì phải đến năm sau mới
hình thành lộc cành.
2. 1.2.3. Khả năng hồi phục sức sống.
Ở một số cây ăn quả khi bước vào thời kỳ già cỗi người ta thường cưa đốn, kích thích
cho các mầm ngủ trở lại hoạt động, hình thành những mầm cành mới, giúp cây hồi phục sức
sống. Ví dụ: cam, quýt, xoài, táo ta.
2.1.3. Tính khác nhau giữa các mầm trên một đoạn cành.
Trong quá trình hình thành mầm, do vị trí của mầm trên cành, điều kiện dinh dưỡng và
điều kiện ngoại cảnh ... giữa các mầm có sự khác nhau về đặc điểm di truyền và đặc điểm sinh
trưởng.
Trên một cành, mầm ở ngọn thường non, ở gốc cành lại càng già. Mầm ở giữa hoặc
gần phía trên cành phát dục đầy đủ và sung sức hơn các mầm ở dưới. Nhưng cũng có trường
hợp một số cây ăn quả trên một cành những mầm ở dưới phát dục đầy đủ, sức nảy mầm khỏe
hơn. Nắm được đặc điểm trên của các loại mầm cành ta có thể cắt tỉa hợp lý hoặc chọn mầm
để ghép, hoặc sử dụng các đoạn cành để giâm cành.

2. 2. CÀNH.

2. 2.1. Cấu tạo tán cây
Bộ phận trên mặt đất của cây ăn quả ngoài thân chính ra, phần còn lại được gọi là tán
cây. Tán cây gồm các cành chính, cành phụ và những cành nhỏ ở ngoài tán gọi là nhánh.
Trên thân chính mọc các cành chính. Chúng hợp thành khung tán tạo cho cây có một
thế vững chắc, tạo điều kiện cho cây đồng hóa được tốt và chống được gió bão và những điều
kiện ngoại cảnh không thuận lợi. Trên cành chính lại phát triển các cành phụ. Trên cành chính
và cành phụ tiếp tục mọc các đợt cành mới.
Thân chính cấp 0, cành mọc trên thân chính gọi là cành cấp 1, cành mọc trên cành cấp
1 gọi là cành cấp 2 và cứ thế tiếp tục cho đến các đợt cành cấp 3, 4, 5, 6, 7...
Mỗi giống cây ăn quả, trong điều kiện ngoại cảnh và chăm sóc nhất định, cây bước vào
thời kỳ ra hoa kết quả và có năng suất cao thường ở một số cấp cành nhất định.
V í dụ: ở đào cấp cành 7 - 12, cam, quýt thì ở cấp cành 3-4.

2. 2.2. Các loại cành
Dựa vào chức năng của cành chúng ta phân biệt: cành quả, cành mẹ, cành dinh dưỡng.
Nếu căn cứ vào mùa vụ hình thành cành thì có cành xuân, cành hạ, cành thu, cành đông. Nếu
dựa vào thứ tự xuất hiện thì có thể chia: đợt cành thứ nhất, thứ hai, thứ ba...

13
2. 2.2.1. Cành quả.
Trên cành mang hoa và đậu quả, có hai loại cành quả.
- Cành quả một năm: đây là một loại cành hỗn hợp gồm có lá và hoa, hoa phát triển
thành quả ra trên cành mẹ năm trước, cành và hoa ra cùng một lúc trong năm (cam, quýt, nho,
lê, nhãn, vải, hồng).
- Cành quả năm trước: hoa nở và phát triển trên cành năm trước (đào, mận...).
Còn có thể căn cứ vào độ dài của quả để chia:
- Cành quả dài.
- Cành quả trung bình.
- Cành quả ngắn.
- Cành quả chùm.
Căn cứ vào đặc điểm của từng giống mà khả năng hình thành cành quả ở mỗi loại cũng
có khác.
2. 2.2.2. Cành mẹ.
Là loại cành để nâng đỡ và nuôi dưỡng các cành quả. Phần lớn cành mẹ phát sinh từ
năm trước khá sung sức, trên cành có những mầm hỗn hợp, năm sau từ những mầm này phát
triển thành cành quả (cam, quýt, nho, lê, hồng, nhãn, vải).
2. 2.2.3. Cành dinh dưỡng: thường gặp hai loại.
- Cành dinh dưỡng bình thường: độ dài vừa phải, mô cành chắc, góp phần cho tán cây
phát triển thêm, và nếu phát triển tốt, sung sức cành này có thể phát triển thành cành mẹ.
- Cành tược: do các mầm ở ngọn cành, các mầm ngủ hoặc do các mầm bất định. Cành
mọc rất khỏe, mọc đứng, dài và có chu vi cành lớn, đốt cành thưa, lá to bản, mô cành không
được chắc. Có thể dùng loại cành này vào việc phục hồi tán cây cho những cây đã già cỗi,
hoặc bổ sung thêm một phần nào đó của tán cây do bị sâu bệnh hoặc bị gãy đổ. Nếu không vì

các mục đích trên thì nên sớm tỉa bỏ.
Ngoài các loại cành trên ở một số loại cây ăn quả như táo ta, hồng, mận...từ các mầm
bất định ở vị trí trên rễ cũng có thể nẩy mầm để hình thành cây. Lợi dụng các đặc điểm này để
nhân giống nhất là đối với những giống quả không hạt khó ghép thành cây.

2.2.3. Đặc điểm sinh trưởng của cành.
2.2.3.1. Tính hướng dương.
Những mầm ở ngọn sinh trưởng mạnh hơn những mầm dưới. Cành mọc đứng, chất
dinh dưỡng vận chuyển đến được dễ dàng và đầy đủ hơn nên thường mọc rất khỏe. Cành mọc
xiên ở dạng trung bình và cành là thường yếu. Góc hình thành giữa thân chính và cành càng
lớn thì sức sống của cành càng yếu. Ngược lại góc càng nhỏ sức sống của cành càng khỏe.
2.2.3.2. Hiện tượng phân tầng của tán cây.
Do ảnh hưởng của cực tính mầm ngọn tiếp tục sinh trưởng, thế cành mọc đứng, mọc
khỏe một số mầm phía dưới mầm ngọn này thành những cành dài theo hướng nghiêng và sau
này trở thành cành chính, còn những mầm ở gốc cành thì trở thành những mầm ngủ, không
phát triển. Từ cây con ban đầu, qua một số năm sinh trưởng giữa thân chính và cành chính
hình thành từng tầng từ dưới lên. Hiện tượng đó gọi là “hiện tượng phân tầng”. Do hiện tượng
phân tầng ta thấy trên cây có những khoảng cách nhất định giữa các tầng do đó tạo điều kiện

14
để có đủ ánh sáng, không khí, tăng thêm khả năng đồng hóa và sức sống của cây, giảm bớt sâu
bệnh, tăng thêm diện tích kết quả, do đó có thể đạt được sản lượng cao. Hiện tượng phân tầng
thường gặp ở một số giống cây ăn quả xứ lạnh như táo tây, lê, cây óc chó, nhót Nhật Bản...còn
những cây ăn quả có khả năng hình thành cành khỏe như cam, quýt, mận, đào, táo Thiện Phiến
thì hiện tượng phân tầng không rõ.
2.2.3.3. Hiện tượng cân bằng về hình thái.
Trên một giống cây, cùng tuổi, cùng một cấp cành, ở cùng một tầng trên tán, cành
chính có sức sinh trưởng tương đương thì khi hình thành cành mới xét về kết cấu, số lượng
cành trên đó, trình tự sắp xếp và sức sinh trưởng cho dù trên một cây hay khác cây đều có
những đặc tính tương đương giống nhau, hiện tượng đó gọi là hiện tượng cân bằng về hình

thái.
Nắm được đặc điểm này ta có thể chủ động điều khiển khi tạo hình và cắt tỉa.
2.2.3.4. Mối quan hệ giữa thân, cành và ra hoa kết quả.
Thân chính càng cao, khoảng cách giữa bộ phận trên không và rễ dưới đất càng xa, cây
chậm ra quả. Do đó người ta muốn cây có thân chính thấp, cành trong tán không nên quá dày,
bộ phận ra quả trên cây không nên quá xa thân chính và cành chính. Trong xu hướng chọn gốc
ghép hiện nay người ta đã chọn được những gốc ghép lùn (M16, M25 của táo tây, Poncirus
trifoliata tứ bội thể cho cam và chanh...) và những tổ hợp ghép này đã giúp cho cây sớm ra
hoa, kết quả, có năng suất cao, tiện cho việc chăm sóc, cắt tỉa và thu hái quả.
Mối quan hệ giữa thân cành và ra hoa kết quả có một sự gắn bó hết sức mật thiết.
Trong chu kỳ sinh trưởng của cây ăn quả sự hình thành, sự sinh trưởng của lộc cành mới với
việc phân hóa mầm hoa, sự phát triển của quả có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu cành lá
sinh trưởng quá yếu, khả năng đồng hóa sẽ kém việc phân hóa mầm hoa, sự phát triển của quả
không thuận lợi. Ngược lại cành lá sinh trưởng quá mạnh, thời gian sinh trưởng kéo dài, tiêu
hao nhiều dinh dưỡng, do đó việc phân hóa mầm, sự phát triển của quả cũng gặp khó khăn.
Bởi vậy những cành lá mới chỉ phát triển với một độ vừa phải là tốt nhất.

3. LÁ

3. 1. HÌNH THÁI CỦA LÁ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA GIỐNG.
Gồm các bộ phận: cuống lá, phiến lá, chóp lá, gốc lá, biên lá, eo lá. Hình dạng lá, màu
sắc lá, lá có eo lá hay không, trên lá có lông tơ hay không, nhiều hay ít... đó là tiêu chuẩn cơ
bản để phân biệt các giống. Trong một giống, trên một cây lá ra trong các mùa cũng có sự
khác nhau về độ lớn, về chỉ số chiều dài trên chiều rộng, về độ lớn của răng cưa ở biên lá, về
màu sắc...Cùng một giống nhưng có bộ nhiễm sắc thể khác nhau thì về cấu tạo và hình thái
cũng khác nhau.

3. 2. CÔNG THỨC DIỆP TỰ.
Sự sắp xếp của lá trên cây thường theo một trình tự nhất định gọi là diệp tự. Các giống
cây ăn quả khác nhau có công thức diệp tự khác nhau. Công thức diệp tự thường gặp là 2/5

như đào, mận , hồng, cam, quýt, táo, lê...Ngoài ra còn có 1/2 như nho, 1/3, 3/8, 4/11, 5/13...

15
Ở mỗi nách lá đều có mầm nách, khi nẩy mầm hình thành cành, sự phân bố cành trên
cành mẹ ban đầu có liên quan trực tiếp đến công thức diệp tự. Biết rõ công thức diệp tự của
từng giống có thể khống chế sinh trưởng của cành trong việc tạo hình và cắt tỉa.

3. 3. LÁ VỚI Đ ỜI SỐNG CÂY ĂN QUẢ.
Chức năng sinh lý của lá chủ yếu là tiến hành quang hợp, phát tán và dự trữ các chất
dinh dưỡng để nuôi cây, nuôi quả.
Khi nghiên cứu quá trình phát triển của quả, người ta cho rằng để tạo điều kiện cho quả
phát triển được tốt, mỗi quả cần một lá nhất định.
Theo Ngô Cảnh Dân (1960) thì táo tây cần 30 - 40 lá, sakê 10 - 25 lá, lê châu Âu 20 -
30 lá, quýt Ôn Châu 20 - 25 lá, cam Navel 50 lá. Samel khi nghiên cứu các loại quả trong họ
phụ cam quýt cho rằng, nếu có số lá để nuôi quả càng nhiều thì quả càng lớn.
Overhaser, Claypool (1935) nhận thấy với quả anh đào ngọt, khi tăng số lá thì hàm
lượng đường trong quả, màu sắc quả, chỉ số quả đều tăng.

3. 4. CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CẦN CHÚ Ý ĐỐI VỚI LÁ.
- Giữ cho lá xanh tốt, rụng đúng kỳ hạn, không rụng đột ngột, hoặc bất thường.
- Tạo mọi điều kiện tốt để chuyển lục tốt.
- Tìm mọi biện pháp để tăng cường khả năng đồng hóa của cây đến tối đa.
Ví dụ: đảm bảo mật độ hợp lý, cung cấp nước, phân bón đầy đủ, cắt tỉa hợp lý, phòng
trừ sâu bệnh kịp thời...

4. HOA .
Hoa là cơ quan sinh sản hữu tính của cây gồm cuống hoa, đế hoa, đài hoa, cánh hoa,
nhị, nhụy. Các loài cây ăn quả khác nhau, cấu tạo hoa cũng khác nhau, có thể chia làm hai
loại:
- Hoa lưỡng tính (hoa đủ) là hoa có đủ nhị và nhụy (cam, quýt, đào, mận, táo...) những

hoa này có thể tự thụ phấn hoặc thụ phấn nhờ côn trùng.
- Hoa đơn tính là hoa chỉ có nhị hoặc nhụy (vải, nhãn, đu đủ, mít, cây hạt giẻ, cây óc
chó...).
Một số cây ăn quả như xoài, hồng, dâu tằm, nhãn, đu đủ (loại cây lưỡng tính và cây
đực) trên một cây thường gặp cả hoa lưỡng tính và hoa đơn tính.
Mỗi một mầm hoa có khả năng hình thành một hoa (đào, mơ), hay có thể nở được 4 - 5
hoa (mận, táo, lê) và cũng có thể từ 10 đến hàng trăm hoa (thành chùm hoa) vải, nhãn, xoài,
nho... các loại cây ăn quả khác nhau, có thể chia thành nhóm hoa tự sau:
- Vải, nhãn, nho, xoài, hoa tự là chùm kép, hình chóp.
- Dứa: bông kép.
- Lê: ngù.
- Táo: tán.
- Cam, quýt: chùm.
- Dâu tây, mít: đầu trạng.

16
Các loại hoa tự khác nhau thì trình tự nở hoa cũng khác nhau: táo (tán) hoa ở giữa nở
trước, lê hoa ở hai bên nở trước, cam, quýt thường hoa ở ngọn nở trước, dâu tây hoa ở dưới nở
trước.
Những hoa nở trước có điều kiện dinh dưỡng thuận lợi, có khả năng thụ tinh phát triển
thành quả, những quả này thường to hơn, phẩm chất tốt hơn những quả ra sau. Nắm được đặc
điểm này có thể làm tốt việc giữ hoa, giữ quả, giảm bớt tỷ lệ rụng quả, nâng cao được năng
suất.

5. QUẢ VÀ HẠT.
Bộ phận ăn được ở các loài cây ăn quả thường không giống nhau. Ví dụ: cam, quýt,
vải, nhãn, lê, táo, nho... phần dùng để ăn thực chất là quả, còn ở cây óc chó, hạt giẻ...là hạt,
dùng cả quả lẫn hạt như ở cây dâu tây...

5.1. CẤU TẠO QUẢ VÀ HẠT.

Hoa sau khi thụ tinh xong phôi châu phát triển thành hạt còn vách bầu và các bộ phận
khác của hoa phát triển hình thành quả.
Quả do vách bầu phát triển thành, thường gọi là quả thật, còn do đế hoa và các bộ phận
khác phát triển và hình thành quả gọi là quả giả.
Quả thật do ngoại bì, trung bì và nội quả bì cấu tạo nên.
- Ngoại quả bì: lớp biểu bì ngoài cứng, cấu tạo giống các lớp biểu bì khác có một lớp
sừng, bì khổng, có lúc có sáp và phấn (táo, mận, nho); có lúc có lông nhung (đào, mơ)
- Trung quả bì: chiếm phần quan trọng trong quả, về kết cấu lớp này cũng có nhiều
biến đổi.
+ Hoàn toàn do tế bào màng mỏng cấu tạo thành, trong tế bào mọng nước ăn ngọt như
đào mận...
+ Ngoài lớp tế bào có màng mỏng còn có lớp tế bào có vách dày, khi chín biến thành
một lớp vỏ cứng (cây dâu rượu).
+ Lớp tế bào này có nhiều xơ như dừa.
+ Có trường hợp không sao phân biệt được giới hạn giữa trung quả bì và nội quả bì.
Chúng đều là những tế bào màng mỏng, mọng nước, ngọt dùng để ăn như quả nho.
- Nội quả bì: sát gần hạt, có thể phân biệt một số trường hợp sau đây:
+ Các tế bào của nội quả bì lignin hóa thành một lớp dày tạo thành một lớp vỏ cứng
như mận, đào, mơ, dừa...
+ Tế bào bên trong nội quả bì hình thành những con tép mọng nước, có đường ăn được
như cam, chanh, quýt, bưởi.
Cây ăn quả có nhiều loài. Cấu tạo quả và các bộ phận dùng để ăn cũng không giống
nhau. Ví dụ:
- Táo, lê bộ phận ăn được do đế hoa phát triển mà thành.
- Vải, nhãn do vỏ giả của hạt. Cuống noãn phát triển bao quanh lấy hạt.
- Dứa do trục bông hoa dứa cùng với lá bắc ở các ở các hoa trong bông.
- Lựu do vỏ ngoài của hạt.


17

5. 2. PHÂN LOẠI QUẢ
Dựa vào cấu tạo và đặc tính sinh vật học của quả, dựa vào tập quán sử dụng tạm chia
các loại quả thành các nhóm sau.
5. 2.1 Quả nhân
- Bầu hạ. Sau khi thụ tinh vách bầu phát triển không rõ. Bộ phận ăn được do đế hoa và
ống đài phát triển hình thành. Về mặt thực vật học thuộc loại quả giả.
5. 2.2 Quả hạch
- Bầu thượng. Sau khi thụ tinh, vách tử phòng phát triển thành quả. Bộ phận ăn được là
trung quả bì, nội quả bì rất cứng (Đào, mận mơ, dâu rượu, trám, táo Thiện Phiến)
5. 2.3 Quả mọng
Quả do nhiều tâm bì hợp lại. Bộ phận ăn được mọng nước (Nho, chuối, khế, hồng
xiêm...)
5. 2.4 Loại có vỏ cứng ở ngoài: Cây óc chó, dừa, đào lộn hột, hạt dẻ...
5. 2.5 Loại quả kép
Phần ăn được của loại này bao gồm nhiều bộ phận của hoa tự như trục hoa tự, lá bắc,
đế hoa, bầu, hợp lại (dứa, mít).
5. 3. HẠT
Sau khi thụ tinh phôi châu phát triển hình thành hạt. Hạt gồm ba phần: vỏ hạt, phôi nhũ
và phôi. Phôi trong hạt do mầm phôi, rễ phôi và lá mầm hợp thành.
Các loài cây ăn quả khác nhau số lượng hạt trong một quả cũng khác nhau. Hình dạng,
độ lớn, màu sắc của hạt...Nắm được cấu tạo và đặc điểm quả và hạt sẽ giúp ích rất lớn đối với
công tác chọn giống, chế biến, cất giữ và vận chuyển quả.


B. QUY LUẬT SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ KẾT QUẢ CỦA CÂY ĂN QUẢ

1. SỰ PHÁT TRIỂN CÁ THỂ CỦA CÂY

1. 1. Mối quan hệ của sự phát triển với bản chất di truyền và điều kiện sinh trưởng.
Sinh trưởng, phát triển là kết quả hoạt động tổng hợp của những chức năng sinh lý

riêng biệt như: trao đổi nước, quang hợp, hô hấp, vận chuyển và phân bố chất hữu cơ trong
cây, dinh dưỡng khoáng và đạm của cây. Các chức năng sinh lý này xảy ra một cách đồng thời
và luôn có mối quan hệ khăng khít ràng buộc với nhau.
Quan niệm về sự sinh trưởng và phát triển của cây được thừa nhận hiện nay là của
Libbert:
- Sinh trưởng là sự tạo mới các yếu tố cấu trúc một cách không thuận nghịch của tế
bào, mô, toàn cây và kết quả dẫn đến sự tăng về số lượng, kích thước, thể tích sinh khối của
chúng.
- Phát triển là quá trình biến đổi về chất bên trong tế bào, mô và toàn cây để dẫn đến sự
thay đổi về hình thái và chức năng của chúng.
Các biểu hiện về sự sinh trưởng như: sự phân chia tế bào, sự giãn của tế bào, sự tăng
kích thước của thân, cành, hoa, lá, quả, sự nảy lộc, đẻ nhánh....là không thể đảo ngược. Nhưng

18
sự tăng kích thước và trọng lượng hạt do hút nước không thể xem là sinh trưởng vì đó là quá
trình thuận nghịch .
Tất cả những biểu hiện có liên quan đến những biến đổi chất để làm thay đổi hình thái
và chức năng của tế bào, của cơ quan...được xem là sự phát triển: sự nảy mầm của hạt có thể
xem đó là 1 bước nhảy vọt, từ 1 hạt có hình thái và chức năng xác định, nhưng khi nảy mầm
thì trở thành một cây con có hình thái và chức năng hoàn toàn khác với hạt - một cây con hoàn
chỉnh có khả năng thực hiện các chức năng của một cơ thể thực vật bình thường.
Sự ra hoa là một bước ngoặt chuyển từ giai đoạn sinh trưởng các cơ quan dinh dưỡng
sang giai đoạn mới hình thành cơ quan sinh sản. Đây là kết quả của một quá trình biến đổi về
chất liên tục và lâu dài để có được những cơ quan sinh sản với chức năng hoàn toàn thay
đổi....Ở mức độ tế bào, thì phân hóa tế bào thành các mô chức năng riêng biệt cũng được xem
là quá trình phát triển của tế bào...
Tuy nhiên, về ranh giới giữa quá trình sinh trưởng và phát triển thật khó xác định. Có
thể xem đây là hai mặt của một quá trình biến đổi chất và lượng: sự biến đổi về chất đến một
mức độ nhất định dẫn đến sự thay đổi về lượng; ngược lại sự biến đổi về lượng tạo điều kiện
thuận lợi cho sự biến đổi về chất.

Trong thực tế, quá trình sinh trưởng và phát triển thường biểu hiện xen kẽ nhau rất khó
tách bạch. Vì vậy trong đời sống của cây người ta chia ra 2 giai đoạn chính: giai đoạn sinh
trưởng dinh dưỡng và giai đoạn sinh trưởng sinh sản mà ranh giới là sự ra hoa.
Trong giai đoạn thứ nhất thì hoạt động sinh trưởng và phát triển của các cơ quan dinh
dưỡng (rễ, thân, lá) là ưu thế. Còn giai đoạn thứ hai thì sự hình thành, sinh trưởng và phân hóa
của các cơ quan sinh sản, cơ quan dự trữ là ưu thế.
Người ta có thể điều khiển sao cho tỷ lệ giữa hai giai đoạn này của cây trồng thích hợp
nhất với mục đích kinh tế của con người. Muốn điều khiển được sinh trưởng, phát triển của
cây thì phải hiểu biết sâu sắc về quá trình này, các nhân tố nội tại và ngoại cảnh điều chỉnh các
quá trình phát sinh hình thái riêng biệt cũng như toàn cây, trên cơ sở đó có những biện pháp
tác động thích hợp nhất.
Trong sự phát triển của cây hữu tính cũng như cây vô tính, di truyền và biến dị có ý
nghĩa lớn. Bản chất của cơ thể truyền lại cho đời sau gọi là di truyền. Cơ thể có bản chất mới
phủ định bản chất cũ gọi là biến dị.
- Ví dụ: có một giống cây, trong quả của chúng có nhiều hạt, nhưng vì lý do nào đó
trên cây xuất hiện những quả không hạt. Như vậy: bản chất không hạt đã phủ định bản chất có
hạt. Đem nhân những cành mang quả không hạt sẽ có thể tạo được giống mới - giống có quả
không hạt.

1 .2.Sự phát triển cá thể
Trong quá trình phát triển cá thể cây ăn quả nhận được từ hạt trải qua các giai đoạn
khác nhau hay là các thời kỳ khác nhau (I.V.Michurin).
- Giai đoạn phôi thai: được bắt đầu bằng sự hợp nhất của tế bào sinh dục đực - cái và
hoàn thành bởi sự xuất hiện lá thật ở hạt đang mọc. Đặc điểm của nó là dễ nhạy cảm với sự
thay đổi điều kiện môi trường.
- Giai đoạn trưởng thành: bắt đầu từ khi ra lá thật đầu tiên đến khi ra quả ổn định. Thời
gian dài ngắn tùy từng loại cây. Nó có đặc điểm là dễ thích nghi với môi trường xung quanh.

19
- Giai đoạn cho sản lượng: có đặc điểm là kích thước tán và rễ đạt mức tối đa, ra quả

nhiều. Bản chất của nó ổn định ít bị thay đổi vì điều kiện môi trường.
- Giai đoạn già cỗi và chết: có đặc điểm là không có khả năng thay đổi hình thái và bản
chất của cây, sinh trưởng kém và sản lượng giảm dần.
1. 3. Lý thuyết sự già đi và trẻ hóa có tính chu kỳ của cây
Nội dung cơ bản của sự phát triển cá thể bao gồm sự đấu tranh và thống nhất của hai
quá trình đối lập:sự già đi và trẻ hóa (N.P.Krenke).
- Sự già đi là sự già toàn diện của cơ thể - sự thay đổi không thể đảo ngược hoặc thuận
nghịch từng bộ phận, được thể hiện bằng sự suy giảm tất cả các chức năng, dẫn tới sự già yếu
và chết một cách tự nhiên của tế bào, cơ quan hay toàn cây nói chung. Sự già đi chính là sự
giảm sút tiềm năng sống.
- Sự trẻ hóa là sự nâng cao tạm thời khả năng sống của những tế bào riêng biệt, mô, cơ
quan hoặc cơ thể nói chung, xảy ra dưới ảnh hưởng của những quá trình sống hoặc điều kiện
sinh trưởng của cây. Sự trẻ hóa được biểu hiện trong việc tạo mới và phát triển của các cấu
trúc non (mầm, cành bên) đồng thời cản trở sự già đi của những bộ phận hiện có.
Mỗi cơ thể có tiềm lực ban đầu của khả năng sống được thể hiện ở tuổi thọ trung bình.
Ví dụ các loài cây khác nhau có tuổi thọ trung bình khác nhau. Có những loài cây tuổi thọ tới
hàng trăm năm như hồng, vải, nhãn, xoài, mít, táo...; có những loại cây tuổi thọ tính hàng chục
năm như bưởi, cam, quýt, ổi... và có những loài cây tuổi thọ tính hàng năm như chuối, dứa...
Tuổi thọ trung bình của cơ thể (tiềm lực ban đầu) được quyết định đầu tiên bởi tình
trạng dinh dưỡng và tất cả sự trao đổi chất, chúng có thể thay đổi dưới ảnh hưởng của điều
kiện này hay điều kiện khác. Cho nên áp dụng các biện pháp kỹ thuật (cắt tỉa, bón phân, tưới
nước) có thể kiềm hãm hoặc xúc tiến quá trình già đi và trẻ hóa, kéo dài tuổi thọ của cây, tăng
kích thước, ra quả....
Sự già đi (già sinh học) không chỉ xảy ra toàn cây, mà còn xảy ra từ các cơ quan và tế
bào riêng biệt. Mỗi sự phân chia mới của tế bào tạo ra sự trẻ hóa của nó, nhưng mỗi lần phân
chia này không đầy đủ, cho nên tác giả N.P.Krenke đưa ra khái niệm về tuổi chung và tuổi
riêng. Tuổi chung là tuổi của toàn cơ thể cây. Tuổi riêng là tuổi của từng bộ phận hoặc của cây
được tạo nên từ những bộ phận này trong nhân giống vô tính.
Tuổi của cơ thể tính từ phôi hạt đến thời điểm hiện tại gọi là tuổi chung. Còn tuổi riêng
được tính từ khi xuất hiện cơ quan hay bộ phận tạo thành cây hoàn chỉnh (trong nhân giống

vô tính) đến thời điểm hiện tại. Từ những cây này được nhân ra liên tục bằng phương pháp vô
tính tạo ra dòng vô tính. Thường cây mẹ ban đầu gọi là cây đầu dòng.
Khi nhân giống vô tính qua nhiều thế hệ (nhiều đời), những cây đời sau tuy tuổi riêng
còn ít nhưng chịu ảnh hưởng của tuổi chung (tuổi của cây mọc ban đầu) quá nhiều, theo quy
luật già sinh học thì sức sống của thế hệ sau giảm sút hơn thế hệ trước. Nếu nhân giống liên
tục qua nhiều thế hệ làm tăng dần sự tích lũy các đột biến tự nhiên, đột biến dinh dưỡng, tăng
độ dị hợp tử, tích lũy gen có hại. Điều này sẽ làm giảm sức sống và thoái hóa giống kèm theo
các hiện tượng không mong muốn như dễ nhiễm bệnh đặc biệt là các bệnh virus và
Micoplasma.
Vì vậy để đảm bảo năng suất và phẩm chất của giống người ta tiến hành phục tráng
bằng cách nhân giống hữu tính (gieo hạt). Vì cây non mọc từ hạt không những tuân theo quy

20
luật phát triển đầy đủ nhất (vì chúng phát triển lại từ đầu) mà còn sạch virus, hoặc người ta có
thể dùng phương pháp vi ghép (giống ghép lấy từ mô tế bào đỉnh sinh trưởng của cây không
có mầm mống virus).
Trong thực tế sản xuất nhân dân ta cũng đã đúc rút được kinh nghiệm theo quy luật
này. Trong kỹ thuật nhân giống vô tính người ta thường lấy nguồn giống từ các cành phía trên
tán cây vì ở đó có tuổi phát dục già có tính di truyền ổn định và cây giống sớm ra hoa, kết quả.
Nếu nhân giống từ rễ hoặc những cành gần gốc cây thì sẽ cho cây giống chậm bói quả.
- Ví dụ cây hồng được nhân từ rễ chậm ra hoa kết quả đến 3-4 năm so với cây hồng
được nhân từ cành ngoài tán bằng phương pháp ghép.
Xuất phát từ đặc tính này đối với những cây già cỗi có thể đốn trẻ lại để kéo dài chu kỳ
kinh tế.
1. 4.Các thời kỳ tuổi của đời sống cây ăn quả
Căn cứ vào lý thuyết của N.P.Krenke, P.H. Sitt đã chia toàn bộ chu kỳ sống của cây
thân gỗ ra làm 3 thời kỳ chính và hai 2 thời kỳ quá độ và kỹ thuật tác động phù hợp cho từng
thời kỳ tuổi như sau:
a) Thời kỳ sinh trưởng: từ nảy mầm của cành ghép (ở cây ghép) đến bắt đầu ra quả.
b) Thời kỳ sinh trưởng và ra quả: Từ khi ra quả đầu tiên đến ra quả ổn định, còn gọi là

thời kỳ bước vào kết quả.
c) Thời kỳ ra quả và sinh trưởng: từ bắt đầu ra quả ổn định đến khi đạt sản lượng cao
nhất, cây chuyển sang thời kỳ mang quả.
d) Thời kỳ ra quả: Thời kỳ này cây cho sản lượng nhiều nhất và ổn định nhưng sinh
trưởng giảm sút.
e) Thời kỳ ra quả và tàn lụi: Cây tiếp tục ra quả, cành nửa khung và cành nhánh chết
dần, ngọn cành khung khô và tán bị thu nhỏ lại, sản lượng giảm. Tương quan giữa phần trên
mặt đất và rễ bị phá vỡ, mầm rễ xuất hiện.

2. CÁC THỜI KỲ SINH TRƯỞNG VÀ NGỦ NGHỈ

Trong năm, thời kỳ hoạt động sống mạnh mẽ của cây ăn quả gọi là thời kỳ sinh trưởng,
và nó được thay thế bằng thời kỳ ngủ nghỉ khi không thấy có dấu hiệu bề ngoài của hoạt động
sống. Đấy là sự thích nghi với điều kiện khí hậu lạnh mùa đông, rõ nhất là đối với các loại cây
rụng lá mùa đông.
Độ dài của các thời kỳ phụ thuộc tình trạng sinh lý của cây, tuổi cây, điều kiện thời tiết
và kỹ thuật tác động.
Các thời kỳ này được thể hiện qua các pha vật hậu (còn gọi là thời kỳ vật hậu) là sự
biến đổi vật chất theo điều kiện thời tiết khí hậu - hiện tượng lặp lại hàng năm trong chu kỳ
phát triển của cây. Mỗi pha thể hiện các quá trình sinh vật xảy ra trong các cơ quan riêng biệt
của cơ thể dưới ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh nhất định.
a) Thời kỳ sinh trưởng
Thời kỳ sinh trưởng phần trên mặt đất của cây được bắt đầu từ thời điểm nảy lộc đến
kết thúc rụng lá.

21
Thời kỳ sinh trưởng gồm các pha nảy lộc, xòe lá, nở hoa, kết quả và quả chín. Để qua
từng pha vật hậu cần có điều kiện nhất định đặc biệt là nhiệt độ - gọi là các ngưỡng nhiệt độ
cho từng pha, tùy thuộc vào từng loại cây.
b) Thời kỳ ngủ nghỉ

Có thể phân biệt làm hai dạng: ngủ sâu và ngủ sơ bộ (tạm thời).
- Ngủ sâu: Sau khi rụng lá cây bước vào pha ngủ sâu, khi gặp điều kiện thuận lợi tạm
thời (như nhiệt độ và ẩm độ cao) vẫn không bị vi phạm.
Thời gian ngủ phụ thuộc điều kiện khí hậu, gốc ghép, giống và tuổi cây, trong đó rõ
nhất là khí hậu.
- Ngủ sơ bộ: xảy ra vào cuối thời kỳ sinh trưởng của mầm và có thể bị vi phạm (kết
thúc đợt cành trước và chuẩn bị đợt cành sau). Có thể dùng biện pháp kỹ thuật (như tăng
cường dinh dưỡng đạm và nước) để rút ngắn thời gian ngủ, tăng nhiều đợt cành trong năm,
tăng nhanh khối lượng sinh trưởng của cây, nhanh chóng đạt được sản lượng quả cao ngay
những năm đầu mới cho quả.
Ngay trong thời kỳ sinh trưởng người ta cũng nhận thấy có sự sinh trưởng và ngủ nghỉ
xen kẽ nhau giữa phần trên mặt đất và phần dưới mặt đất. Có thể ứng dụng quy luật này trong
việc trồng mới. Khi tán cây đâm chồi nảy lộc (sinh trưởng mạnh) thì bộ rễ ở trạng thái ngủ
nghỉ (sinh trưởng yếu). Vào lúc này nếu bứng cây đem trồng vào lúc phần trên mặt đất có
cành lá ở trạng thái thành thục, ổn định thì bộ rễ ở trạng thái hoạt động (sinh trưởng mạnh) sẽ
cung cấp đầy đủ nước và dinh dưỡng cho tán cây đâm chồi nảy lộc nhanh chóng.

3. QUY LUẬT RA HOA KẾT QUẢ

3.1. Khái niệm và các học thuyết ra hoa đối với cây ăn quả
a) Khái niệm về phân hóa hoa và ra hoa
Sự hình thành hoa là dấu hiệu cây chuyển từ giai đoạn sinh trưởng phát triển dinh
dưỡng sang giai đoạn sinh trưởng phát triển sinh sản: chuyển hướng từ hình thành mầm lá
sang hình thành mầm hoa. Nó biểu hiện về phản ứng di truyền và trạng thái sinh lý nhất định
khi gặp điều kiện ngoại cảnh thích hợp. Sau khi cảm ứng sự ra hoa thì hoa được hình thành và
phân hóa.
Có thể chia quá trình hình thành hoa làm 3 giai đoạn:
- Cảm ứng hình thành hoa: trong đó có sự cảm ứng nhiệt độ (gọi là xuân hóa) và cảm
ứng về ánh sáng (quang chu kỳ).
- Sự hình thành mầm hoa.

- Sự sinh trưởng của hoa, sự phân hóa hoa, sự phân hóa giới tính.
b) Các học thuyết ra hoa
* Thuyết cảm ứng nhiệt độ
Có những loài cây chỉ phân hóa hoa dưới ảnh hưởng của nhiệt độ thấp trong một thời
gian nhất định. Người ta đã chứng minh được rằng: cơ quan tiếp nhận (cảm thụ) phản ứng
nhiệt độ là đỉnh sinh trưởng của thân. Chỉ cần đỉnh sinh trưởng chịu tác động của nhiệt độ thấp
cũng có thể gây nên sự phân hóa mầm hoa. Như vậy thì đối với sự cảm nhận quá trình xuân
hóa cần có các tế bào đang phân chia của đỉnh sinh trưởng. Giới hạn tác động của nhiệt độ và

22
thời gian tiếp xúc có hiệu quả thay đổi tùy theo từng loại cây( từ 0 đến 15
0
C là có hiệu quả
xuân hóa).
* Thuyết quang chu kỳ (sự cảm ứng ra hoa bởi ánh sáng)
Độ dài chiếu sáng tới hạn trong ngày có tác dụng điều tiết sự sinh trưởng phát triển của
cây, có thể kích thích hoặc ức chế các quá trình khác nhau và phụ thuộc vào các loài khác
nhau gọi là hiện tượng quang chu kỳ. Trên quan điểm này người ta phân thành 3 nhóm cây:
ngày ngắn; ngày dài; trung tính.
* Thuyết hormon ra hoa
Theo Trailachyan cây muốn ra hoa được phải có tác nhân kích thích sự ra hoa
(florigen).
Florigen gồm 2 thành phần: Gibberellin (GA) kích thích sự sinh trưởng phát triển trụ
dưới hoa còn Antesin (hormon giả thiết) kích thích sự phát triển của hoa. Theo giả thiết đó thì
đối với cây ngày ngắn (cây dứa chẳng hạn) Gibberellin được tạo nên cả trong ngày dài và
ngày ngắn, còn Antesin chỉ tạo nên trong ngày ngắn. Vì vậy khi chiếu sáng dài nó không ra
hoa, chỉ sinh trưởng vươn cao. Ngược lại với cây ngày dài thì Antesin được hình thành cả
trong điều kiện ngày dài và ngày ngắn, còn Gibberellin chỉ được hình thành trong điều kiện
ngày dài, nên trong điều kiện ngày ngắn thì thiếu Gibberellin nên không thể hình thành hoa
được. Vậy ta có thể xử lý bổ sung Gibberellin thì cây hoàn toàn có thể ra hoa được. Như vậy

là học thuyết hormon ra hoa phần nào có thể giải thích được bản chất của phản ứng quang chu
kỳ và sự ra hoa của cây.
* Thuyết C/N
Một số ý kiến cho rằng tỷ lệ C/N có thể là yếu tố quan trọng quyết định quá trình phân
hóa mầm hoa. Ví dụ trên cây xoài: ở các cành mang hoa tỷ lệ C/N cao hơn ở thời kỳ sau nở
hoa. Người ta nghiên cứu trên 2 giống Deshehri và Langra thấy: quá trình phân hóa mầm hoa
xảy ra khi tỷ lệ C/N cao và tỷ lệ này giảm dần cùng với sự phát triển của chùm hoa. Theo GS
Vũ Công Hậu, tỷ lệ C/N thích hợp thì cây sinh trưởng phát triển cân đối, cây sẽ ra hoa bình
thường. Nếu tỷ lệ này quá thấp thì cây không ra hoa.
* Sự phân hóa giới tính của hoa
Đây là vấn đề rất phức tạp có quan hệ đến các cơ quan, bộ phận trong cơ thể, đặc biệt
liên quan đến hàm lượng phytohormon trong cây và các điều kiện ngoại cảnh.
Nhiều thí nghiệm xác định hoạt tính của Gibberellin và Cytokinin trong lá và trong rễ
đã nhận thấy hoạt tính Cytokinin trong cây cái cao hơn cây đực và ngược lại hoạt tính của
Gibberellin trong cây đực cao hơn cây cái. Người ta đã chứng minh bằng cách nuôi cấy phôi
tách riêng trong ống nghiệm. Nếu môi trường chỉ có Gibberellin thì có 95,5 - 100% là hoa
đực, nếu chỉ cho Cytokinin thì 92,6 - 97,7% là hoa cái. Còn đối chứng không cho GA và
Cytokinin thì tỷ lệ hoa đực và hoa cái xấp xỉ nhau.
Ngoài GA và Cytokinin, các chất điều tiết sinh trưởng khác cũng ảnh hưởng quan
trọng đến sự biểu hiện giới tính, như Auxin gây nên sự cân bằng trong việc biểu hiện giới tính,
Ethylen tạo nên 100% hoa cái trên các cây họ bầu bí.
Các yếu tố ngoại cảnh cũng ảnh hưởng quan trọng đến sự biểu hiện giới tính. Trong
điều kiện ngày ngắn, ánh sáng xanh, nhiệt độ thấp, lượng CO
2
cao, ẩm độ cao, nhiều nitơ... thì

23
liên quan đến hình thành giới tính cái. Ngược lại, ngày dài, ánh sáng đỏ, nhiệt độ cao, lượng
CO
2

thấp, ẩm độ thấp, nhiều kali... liên quan đến tính đực.
3.2. Đặc điểm ra hoa kết quả
a) Thời gian bước vào kết quả của cây ăn quả
Thời gian bước vào kết quả của cây phụ thuộc vào phương pháp nhân giống, loài cây
khác nhau, thế sinh trưởng của gốc ghép và mối quan hệ giữa sinh trưởng sinh dưỡng và sinh
trưởng sinh thực.
- Ở cây hữu tính bước vào kết quả muộn hơn cây vô tính. Điều này có quan hệ với sự
phát triển giai đoạn. Theo I.V.Michuirin, cây hữu tính không có khả năng ra quả ở giai đoạn
non trẻ của sự phát triển, khi chúng còn chưa kinh qua biến đổi về chất xuất hiện trước khi ra
hoa, quả. Cây hữu tính bắt đầu phát triển từ phôi, đã kinh qua sự thay đổi này và thời gian
chúng bước vào kết quả phụ thuộc vào sự tăng nhanh của bộ lá, bộ rễ tích lũy chất dinh dưỡng
cần thiết đối với sự hình thành quả. Cho nên những loài và giống có bộ rễ và phần trên mặt đất
sinh trưởng nhanh bước vào kết quả sớm hơn. Ví dụ: cây dâu tây bắt đầu kết quả từ năm thứ
1-2 và kết thúc năm thứ 10-15; mơ, mận bắt đầu kết quả năm thứ 3-6 và kết thúc năm thứ 20-
30; táo ta bắt đầu kết quả năm thứ 2-3 và kết thúc năm thứ 40-50...
- Gốc ghép cũng có ảnh hưởng đến sự ra hoa sớm hay muộn. Thường ở gốc ghép có
thế sinh trưởng mạnh thì cây ghép ra hoa muộn hơn.
- Thời gian bắt đầu ra quả có thể được xúc tiến nhanh bằng cách phun các chất ức chế
sinh trưởng, cắt tỉa cành, cắt khoanh vỏ thân cành, các biện pháp tác động cơ giới khác...
b) Hiện tượng giao phấn và ra quả cách năm
Hoa sau khi nở được tiến hành thụ phấn thụ tinh. Sau khi thụ tinh từ mầm hạt hình
thành hạt và từ tế bào trứng hình thành phôi hạt. Bầu nhụy và phần xung quanh phình lên
thành quả.
Ở nhiều loài và giống cây ăn quả, sự thụ tinh và kết quả chỉ xảy ra trong trường hợp
nếu nhụy của giống này được thụ phấn bằng phấn của giống khác của cùng loài đó. Hiện
tượng này gọi là giao phấn, các giống này gọi là giống giao phấn.
Trong khi xây dựng vườn quả mà đặc biệt bằng giống giao phấn người ta cần trồng cây
thụ phấn.
Ở nhiều loài cây ăn quả, thường xảy ra hiện tượng ra quả cách năm, bởi vì trong những
năm đạt sản lượng cao sự sinh trưởng yếu đi, ảnh hưởng đến sự phân hóa mầm hoa cho vụ quả

năm sau. Ở ta có nhiều loại cây ăn quả ra quả cách năm như nhãn, vải, hồng, cam, quýt....
Hiện tượng này có thể khắc phục được bằng các biện pháp:
- Áp dụng kỹ thuật trồng trọt cao đảm bảo sự sinh trưởng của rễ kéo dài, phát triển
mạnh bộ lá, lợi dụng độ chiếu sáng tốt nhất.
- Điều hòa kịp thời mối quan hệ giữa lá và quả (cắt tỉa, bẻ cành, uốn cành, phun hóa
chất..)
- Trồng cây có kích thước bé (gốc ghép có sự sinh trưởng yếu). Giữa tán cây thoáng
tạo điều kiện cho lá quang hợp, giảm bớt tiêu hao cho chất dinh dưỡng.
- Lựa chọn và trồng những giống ra hoa kết quả điều hòa.
c) Biện pháp tăng cường thụ phấn thụ tinh

24
Trong khi xây dựng vườn cây ăn quả cần phải quan tâm đến tình hình thụ phấn thụ tinh
của hoa. Bởi vì sự đậu quả phụ thuộc vào sự thụ phấn tốt hay xấu, mà sự thụ phấn lại phụ
thuộc vào 3 yếu tố là:
- Đặc điểm ra hoa của từng loại cây.
- Thời tiết lúc nở hoa.
- Những tác nhân (môi giới) như ong, bướm ruồi...
* Đặc điểm ra hoa của cây ăn quả
Phần lớn các loại cây ăn quả có hoa lưỡng tính nhưng cũng có một số loài có hoa đơn
tính như hồng, đu đủ, mận, mơ, táo tây, cam, quýt không hạt...
Đối với các loài cây có hoa đơn tính cần tiến hành trồng cây thụ phấn với các tiêu
chuẩn sau:
- Cây thụ phấn phải cùng loài với cây trồng chính; có thể khác loài nhưng phải có khả
năng giao phấn cho nhau như (bưởi, cam, quýt, chanh, Poncirus).
- Cây thụ phấn phải sinh trưởng khỏe, thích hợp với điều kiện sinh thái nơi trồng cây
ăn quả, nguồn phấn dồi dào và có thời gian tung phấn trùng với thời gian chín của nhụy hoa
của giống chính.
- Số lượng cây thụ phấn trong vườn quả nhiều hay ít tùy thuộc vào khả năng cung cấp
phấn và khả năng đóng góp của nó vào năng suất chung trong vườn quả. Thông thường cây

thụ phấn chiếm tỷ lệ 5 - 10% đến 50% và được bố trí trồng thành từng hàng xen kẽ hoặc rải
rác đều ở các hàng cây trồng chính.
- Trong nghề trồng cây ăn quả cần trồng các dòng vô tính được nhân ra từ một cây đầu
dòng tốt và đã được tuyển chọn. Dòng này ít có khả năng tự thụ phấn hoặc tự thụ phấn từ phấn
hoa của dòng đó cho quả chất lượng kém, vì vậy phải trồng xen những hàng cây của dòng vô
tính khác gọi là dòng “cho phấn” đã được xác định.
* Thời tiết và thụ phấn ở cây ăn quả
Thời tiết lý tưởng cho thụ phấn là: nắng, nhiệt độ và ẩm độ vừa phải, không có gió lớn
- điều kiện để bao phấn dễ nở, nẩy mầm thuận lợi, côn trùng môi giới hoạt động tốt, số lượng
hạt phấn được mang đến bầu nhụy nhiều.
* Môi giới giúp hoa thụ phấn
Nhiều dòng vô tính có hoa lưỡng tính được sử dụng càng lâu khả năng không tự thụ
phấn đậu quả càng lớn, nên phải trồng xen những dòng cho phấn để giao phấn. Vì vậy cần có
những tác nhân mang phấn từ cây cho phấn đến cây nhận phấn. Tác nhân đó là gió, côn
trùng...Trong thực tế dù không phải là dòng vô tính, nhiều loài cây ăn quả cũng cần phải giao
phấn như: hồng, xoài, mít, nhãn, vải, chôm chôm, mơ, mận... nên chúng cần có môi giới
truyền phấn.
* Thụ phấn nhân tạo
Có một số loài cây thụ phấn khó khăn do ít phấn, hạt phấn kết dính, thiếu cây đực,
thiếu môi giới truyền phấn như (mãng cầu xiêm, lạc tiên, đu đủ, mít, hồng...)
Ví dụ: ở Đà Lạt (1971 -1972) các tác giả Hàn Quốc - Yung Kyung Choi và Yung Ho
Kim đã thụ phấn bổ sung cho hồng bằng bình phun thuốc bột để phun phấn lên đầu vòi hoa
cái. Cách làm như sau: hái hoa đực khi hoa đã phồng lên và có màu vàng, đưa nhanh vào phơi
trên giấy báo trong điều kiện nhiệt độ 20 - 25
0
C sau 24h rũ hoa lấy phấn, cứ 100 hoa được

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×