Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đề tài " Mẫu tính trong văn hoá Việt "

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.29 KB, 28 trang )

MẪU TÍNH TRONG VĂN HÓA VIỆT
THE METAPHYSICAL PRINCIPLE OF
MATERNITY IN VIETNAMESE CULTURE
Trần Văn Ðoàn

Bản Tóm Lược

Luận văn sau đây nhằm tìm hiểu lối suy tư Việt dựa trên nguyên lý mẫu tính. Lối suy
tư mẫu tính tức lối tư duy theo một quy luật xây trên tầm quan trọng của các yếu tốù
sinh, dưỡng, dục và lạc.
Bài này phân thành ba phần chính. Phần thứ nhất đặt lại vấn đề của bản sắc văn hóa
Việt. Có phải nền văn hóa này là một nền văn hóa mẫu hệ, nông nghiệp, hay âm tính?
Hay đó là một nền văn hóa với một lối tư duy cá biệt mà chúng tôi gọi là lối tư duy
theo nguyên lý mẫu tính? Ðể làm rõ vấn đề, phần thứ hai phân tích các văn bản, dữ
kiện hay hiện tượng liên quan tới lối suy tư chung của người Việt về phụ nữ, và về lối
suy tư của phụ nữ Việt. Phần thứ ba cố gắng hệ thống hóa kết quả những phân tích trên
để tìm ra một nguyên lý chung trong lối suy tư Việt. Nguyên lý này được chúng tôi gọi
là nguyên lý mẫu tính trong Việt triết.

Abstract

This paper proposes to understand the Viet-way of thinking as a kind of logic based
on the metaphysical principle of maternity. Maternal principle is constructed from
practical values and based on the existential order of fundamental factors like life-
giving, life-raising, life-forming (educating) and pleasure-generating.
The work consists of three parts: The first part clarifies the still controversial issue of
whether Vietnamese culture is matriarchal, agricultural and feminine, or whether it is a
culture of a particular essence based on the metaphysical principle of maternity. To
argue for the latter, the second part is an exploration of the diverse ways of thinking
about the role of woman hidden in popular literature, and in the works of female
writers. The last part attempts to discover from these diverse thinkings a common


matrix which determines the Viet-way of thinking. This common matrix is identified
by us as the metaphysical principle of maternity.


MẪU TÍNH TRONG VĂN HÓA VIỆT
THE METAPHYSICAL PRINCIPLE OF MATERNITY IN VIETNAMESE CULTURE
Trần Văn Ðoàn§

Dâng Về Hiền Mẫu !
Dulcis Mater mea !
1. DẪN NHẬP : MẪU TÍNH, ÂM TÍNH VÀ NỮ TÍNH

Ða số những nhà nghiên cứu Việt học đều nhận ra được một đặc tính tất yếu của nền văn
hóa Việt, đó là ảnh hưởng tối quan trọng của người phụ nữ trong xã hội Việt. Nhiều giả
thuyết đã được đề ra. Giả thuyết thường thấy hơn cả, đó là xã hội Việt cổ đại vốn là một xã
hội mẫu hệ. Chỉ từ khi bị văn hóa Nho giáo khống trị, nên mới đổi thành phụ hệ. Tuy bị
ảnh hưởng của văn hóa Bắc, nhưng trên căn bản, xã hội Việt vẫn là một xã hội nông
nghiệp, nên tầm quan trọng của vai trò của phụ nữ vẫn không phai nhạt bao nhiêu. Ðể bảo
vệ luận đề trên, các nhà nghiên cứu nêu ra chứng tích của những anh hùng dân tộc như hai
bà Trưng, bà Triệu, vân vân. Họ cũng chứng minh qua ngữ học, cho thấy là ngôn ngữ Việt
vốn xây dựng trên âm tính. Hoặc họ dựa vào thần thoại hay nhân thoại, hay những trang dã
sử. Và lẽ dĩ nhiên, họ dựa trên văn bản dân gian như cao dao tục ngữ thường đề cao vai trò
của người phụ nữ, hay chế nhạo những bậc nhi quân anh hùng sợ vợ. Những giả thuyết
trên, một phần nào đó, hẳn có cơ sở. Tuy vậy, chúng vẫn chưa đủ để chứng minh: (1) xã
hội Việt khác với các xã hội khác, bởi lẽ tuyệt đại đa số các xã hội đều theo mẫu hệ vào
thuở sơ khai, và tuyệt đại đa số ngôn ngữ đều lấy âm tính để diễn tả sự, vật, người… mang
tính chất mềm mỏng, êm đẹp, dịu dàng, vân vân. (2) Tương tự, những giả thuyết trên càng
không thể chứng minh được vai trò đặc biệt của phụ nữ trong xã hội Việt. Bởi lẽ một vài
người phụ nữ chưa phải, và càng không thể đại biểu cho tất cả giới phụ nữ. Chúng ta
không được phép chỉ lấy một vài nhân vật đại biểu để rồi phổ quát thành tất cả. Một lối suy

tư như thế không những sai nguyên tắc khoa học, mà còn tạo ra cái nguy hại bóp méo lịch
sử. Người ta sẽ đặt nghi vấn về sự chính đáng trong việc chọn lựa một vài phụ nữ đẹp đẽ,
tài ba làm đại diện. Tại sao ta không thể lấy một vài người phụ nữ (tai tiếng hay xấu xí)
như mụ Tú Bà, Chung Vô Diệm, và coi họ như là đại biểu nữ giới? Tại sao chúng ta không
được phép đưa bà Trần Lệ Xuân hay bà Nguyễn Thị Minh Khai ra làm đại biểu cho tất cả
nữ giới tại miền Nam hay miền Bắc? Nếu không thể làm như vậy được, thì ta cũng đâu có
lý do chỉ chọn một vài phụ nữ anh hùng (như hai bà Trưng, bà Triệu), thông minh tài cán
(như Ðoàn Thị Ðiểm, Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương) để đại diện tất cả nữ giới
Việt. Chúng ta chỉ có thể nói, hai bà Trưng, bà Triệu là những người góp sức tạo ra (chứ
không phải tạo lên) lịch sử Việt. Tuy nhiên, ba Bà, giống như hai cô Giang, Bắc, chỉ là
những cá nhân đơn độc, không thể đồng hóa họ với toàn thể nữ giới Việt. Vả lại, nếu cho
ba bà là tất cả lịch sử, hay đại diện cho tất cả nữ giới Việt, thì lịch sử của các nền văn hóa
khác cũng có thể yêu sách y hệt như thế. Họ cũng có một số phụ nữ tương tự. Các nữ thần
Hy lạp như Sophia, Athina, Venus, Hermes, Siren…, thánh Jeanne d’Arc của Pháp, nữ
hoàng Maria-Theresia của Aùo, rồi các tiền nhân như bà Nữ Oa, nữ thần Mộc, hay nữ
hoàng Võ Tắc Thiên, thái hậu Từ Hi của Trung Hoa đã ảnh hưởng tới lịch sử các nền văn
hóa của những nước trên rất nhiều. Nhưng đâu có thể vì thế, mà chúng ta dám cả quyết là
các dân tộc trên theo mẫu hệ, hay lối suy tư của họ mang âm tính hay nữ tính. Và nếu quả
thật chúng ta có thể coi các kiệt nữ này đại biểu lịch sử của họ, thì lịch sử Việt đâu có khác
các lịch sử khác là bao. (3) Thêm vào khó khăn trên, chúng ta còn thấy rằng, lối nhìn dân
gian về vai trò của phụ nữ vốn đa chiều, nhiều khi rất mâu thuẫn. Người Việt không nhất
thiết chỉ đề cao phụ nữ mà thôi, nhưng cũng thường châm biếm họ. Thí dụ, nếu người Việt
có câu “Nhất vợ nhì Trời ba mới tới ta” thì họ cũng có những câu nói khác ngược hẳn lại
như:

“Ðàn ông sâu sắc trong đời,
Ðàn bà cạn xợt như khôi cát lồi.”
Hay:
“Cô khoe ăn hiếp được chồng,
Ðến khi chồng bỏ chổng mông mà gào.”


Ý thức được những khó khăn như đã trình bày ở trên, chúng tôi đi theo một lối tiếp cận
khác. Thay vì đặt trọng tâm vào vai trò của người phụ nữ, hay về nữ tính hoặc âm tính,
chúng tôi đặt lại câu hỏi về lối suy tư của người Việt: người Việt suy tư như thế nào về thế
giới của họ, về con người của họ, về cách sống của họ? Có phải họ suy tư theo lối suy tư
của nữ giới, theo âm tính, theo nữ tính? Hay là họ suy tư một cách đặc biệt, theo nguyên lý
sinh, nguyên lý dưỡng, nguyên lý dục, nguyên lý lạc? Chúng tôi nghiêng về lối suy tư sau.
Lối suy tư này đã từng được chúng tôi khai quật phần nào trong Việt Triết Luận Tập và
trong các bài viết gần đây. Ðó chính là lối suy tư mà chúng tôi gọi là lối suy tư mẫu tính.
Trong bài viết sau đây, tác giả xin đi sâu hơn vào lối suy tư mẫu tính này. Người viết chủ
trương rằng, chính mẫu tính chứ không phải là âm tính (hay nữ tính) mới là bản chất căn
bản của Việt tính. Ðể tránh ngộ nhận, chúng tôi cần minh định nơi đây, đó là mẫu tính đều
thấy trong hai tính, cả nam lẫn nữ. Tuy vậy, như chúng tôi sẽ chứng minh, nữ tính, hơn
nam tính, càng gần với mẫu tính hơn, bởi lẽ nữ tính có đủ các đặc tính sinh, dưỡng, dục,
lạc, vân vân, trong khi nam tính không có trực tiếp sinh, nhưng chỉ có cộng sinh tức tham
dự vào sinh mà thôi. Thế nên chỉ khi nhận ra được mẫu tính, chúng ta mới có thể hiểu được
lối suy tư Việt, và từ đó, nhận ra được vai trò tối quan trọng của nữ tính trong nền văn hóa
Việt, bởi lẽ người phụ nữ Việt càng gần gũi hơn với lối suy tư này. Như vậy, để trả lời câu
hỏi về vai trò của người phụ nữ Việt, chúng ta trước hết phải có một cái nhìn về lối suy tư
mẫu tính của người Việt.

Bàn về mẫu tính trong văn hóa Việt không phải là một câu chuyện tiếu lâm trong lúc trà
dư tửu hậu, song là một luận thuyết rất quan trọng. Chúng tôi ý thức rằng, nếu có thể
chứng minh được nền văn hóa Việt xây dựng trên mẫu tính, chúng ta không những có thể
hiểu được sự khác biệt (hay xung đột) giữa Việt và ngoại Việt, thí dụ Việt và Hán, Việt và
Hoa, Việt và Tây phương, vân vân, mà còn có thể hiểu được cơ cấu, cách thức sống, cũng
như thế giới cảm quan của họ. Và như vậy, lối suy tư mẫu tính đòi buộc ta phải phản tỉnh
lại tất cả hệ thống, tổ chức, trật tự của xã hội hiện hành, những tổ chức dựa trên phụ tính,
tức dựa trên sức mạnh, duy lý, duy trí, và quyền lực. Sự xung khắc giữa mẫu tính và phụ
tính có lẽ là nguyên do chính giải thích sự xung đột giữa người phương Nam và người

phương Bắc (các huyền thoại Lạc Long Quân - Aâu Cơ, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Trọng
Thủy - Mỵ Châu), giữa yếu tính “cứng” và yếu tính “mềm,” “đặc” và “rỗng” như thấy
trong trống đồng Ðông Sơn. Trong bài này, chúng tôi tiếp tục khai thác và phê bình luận đề
của triết gia linh mục Kim Ðịnh (1914-1997) về nguyên lý mẹ và phát triển mẫu tính thành
một nguyên lý, giúp ta hiểu bản sắc của nền văn hóa Việt. Theo Kim Ðịnh, chính cái
nguyên lý mẹ này mới xứng đáng mang tên minh triết bởi lẽ nó có đủ khả năng ”nối kết hai
thái cực lại với nhau.”

2. LỐI SUY TƯ VỀ PHỤ NỮ VIỆT

Trước khi bàn về lối suy tư của phụ nữ Việt, người viết xin thú nhận là vì không đủ tư
liệu, nhất là những tác phẩm văn chương do các tác giả phụ nữ viết, nên công việc phân
tích giới hạn vào các văn bản quen thuộc như Truyện Kiều, và nhất là vào văn chương bình
dân như ca dao, tục ngữ và phong dao. Chính vì thế mà luận đề mẫu tính mà chúng tôi
trình bày sau đây mang tính chất tạm thời, cần phải được kiểm chứng lại qua những văn
kiện, văn bản đầy đủ hơn trong tương lai.

Trong tác phẩm Tìm Hiểu Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, giáo sư Trần Ngọc Thêm viết:
“Về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa tổ chức theo
nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra
một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Một bồ cái lý
không bằng một tí cái tình (tục ngữ). Lối sống tình cảm tất yếu dẫn đến thái
độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.”

Lối thẩm định như trên phản ánh cái nhìn chung thấy nơi các nhà nghiên cứu Việt học.
Quả thực, trong xã hội Việt mà đa số các học giả như Tiến sỹ Vũ Ðình Trác, giáo sư Trần
Quốc Vượng, học giả Phan Ngọc, hay tác giả họ Trần cho là xã hội nông nghiệp, phụ nữ
nắm một vai trò rất quan trọng. Nếu so sánh với các xã hội nông nghiệp hay công nghiệp
khác thì “địa vị phụ nữ Việt Nam phải nói là cao, nếu không nhất thì cũng vào hạng nhất”
hay “ngang với chồng.” Câu hỏi mà chúng ta đặt ra nơi đây, đó là, nếu quả thật người phụ

nữ Việt giữ một vai trò tối quan trọng như vậy, thì phải có một cái nguyên lý nào đó giải
thích sự kiện này. Ðó có phải là do xã hội mẫu hệ, hay vì xã hội nông nghiệp, hay vì một lý
do nào khác?
Theo thiển kiến của người viết, thì những yếu tố trên không phải không có, nhưng chưa
đủ. Bởi lẽ, nếu chúng là những yếu tố duy nhất thì tại sao cùng sống trong xã hội nông
nghiệp, nhưng phụ nữ Việt lại cao “vào hạng nhất” trong khi phụ nữ ở các xã hội khác lại
“thấp lè tè”? Thực ra, khi phân tích các văn bản về lối suy tư của người phụ nữ Việt, hay
về người phụ nữ Việt, chúng ta thấy đây là một lối suy tư cá biệt không hẳn bị giới tính, xã
hội, hay tổ chức quyết định một cách toàn diện (như giáo sư Trần Ngọc Thêm, các nhà xã
hội học và khảo cổ học từng tin tưởng). Lối suy tư này chúng tôi tạm gọi là lối suy tư mẫu
tính. Nó bàng bạc trong óc người Việt, không phân biệt nam hay nữ. Trong đoạn này,
chúng tôi phân tích các văn bản để tìm ra lối suy tư chung của người Việt về phụ nữ, và
đặc biệt về chính lối suy tư của người phụ nữ Việt.

2.1. Người Việt Nghĩ Về Phụ Nữ Việt

Ðại thi hào Nguyễn Du (1765-1820), trong tác phẩm bất hủ Truyện Kiều, nhận định về
nữ giới một cách rất bao quát, gồm đủ mọi loại người, từ xấu xí tới đẹp đẽ, từ gian tà tới
cao quý. Tuy nhiên, điểm chung mà cụ Tiên Ðiền buồn bã nhận ra, đó là cái vai trò quá
phụ thuộc, công cụ và bé nhỏ của họ. Họ chỉ là đồ phụ tùng, đối tượng cho “cuộc chơi,” là
cái “mồi” của thế giới đàn ông phong kiến hưởng thụ:
Chơi cho liễu chán hoa chê,
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời.
Và nếu giới phụ nữ có vai trò gì đáng gọi là quan trọng, thì cũng chỉ có tính chất khiêm tốn
mà thôi. Thế nên, qua lời Thúy Kiều, cụ than thở về cái số phận của nữ giới (mà đại biểu là
nàng kỳ nữ Ðạm Tiên):
Ðau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Sống làm vợ khắp người ta,

Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
Nhưng cái lạ (và có lẽ là cái hay) trong tâm tư Nguyễn Du, đó là cụ không có tin tưởng
vào vai trò của người đàn ông trong công cuộc san bằng bất công xã hội, trong công việc
lập công, lập đức. Cụ không suy tư như tác giả của Thanh Tâm Tài Nhân, tức lối suy tư
theo nguyên lý phụ tính của người phương Bắc. Với lối nhìn mới hơn, không chỉ coi phụ
nữ theo nguyên lý lạc thú (giai nhân, mỹ nhân), hay gái tài (kỹ nữ) tức tài nhân. Cụ nhìn
người phụ nữ theo nguyên lý mẫu tính của người phương nam, tức người Việt. Người phụ
nữ được đánh giá trị theo chính cái bản chất nhân tài của họ, tức cái năng lực khiến họ
thành nhân. Thế nên, Truyện Kiều không có lập lại câu truyện của tài nhân, song dóng lên
một tiếng nói mới (tân thanh) - Ðoạn Trường Tân Thanh- về cái vai trò độc nhất vô nhị của
phụ nữ qua Thúy Kiều, tức cái khả năng thành nhân của nàng: “Thửa công đức ấy ai
bằng?” Chính vì vậy mà trong con mắt của Nguyễn Du, không có một người đàn ông nào
có đủ nhân cách, tài hoa như người phụ nữ. Nam giới, thì mỗi người chỉ có một khía cạnh
nào đó mà thôi. Từ Hải, anh hùng đa tình song lại thiếu trí, thiếu nhân. Hồ Tôn Hiến đa
mưu túc trí thì lại thiếu đức, thiếu tình. Kim Trọng tuy ‘phong ư tài mạo tót vời” song lại
thiếu đảm lược. Mã Giám Sinh tuy “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” nhưng lại gian
manh chẳng khác chi hơn mụ Bạc, hay Tú bà: “mạt cưa mướp đắng hai bên một phường.”
Tố Như tiên sinh tin rằng, chính người phụ nữ mới có một khả năng “đầu đội trời, chân
đạp đất” (mà giới nam nhi thường hay vơ vào cho riêng họ). Thực ra, cụ đâu có chọn giới
nam nhi (em trai Kiều, hay thân phụ Kiều, hay Kim Trọng, hay Từ Hải, hay Hồ Tôn Hiến).
Cụ Tiên Ðiền chọn nàng Kiều nhỏ bé để làm những điều vĩ đại đáng để đời. Cụ chọn vãi
Giác Duyên (chứ không phải những đại cao tăng) như là đại biểu của bậc chân tu. Nói cách
khác, cụ nhận ra sự cao sang và vĩ đại của nữ giới, trong vai trò của Thúy Kiều, trong nhân
cách của người ni cô ẩn dật Giác Duyên. Kiều là người duy nhất đã thành công trong nỗ
lực vượt khỏi định mệnh, thắng được cái ma lực của quyền lực, của sức mạnh:

Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
Hại một người cứu muôn người,
Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.

Thửa công đức ấy ai bằng…
Lẽ tất nhiên, Nguyễn Du không phải là người duy nhất nghĩ như vậy. Anh hùng Nguyễn
Trãi (1380-1442), tuy vì nàng hầu Nguyễn Thị Lộ mà bị chu di tam tộc, cũng nghĩ như thế.
Chắc hẳn không phải vì cụ Ức Trai bị mê hoặc bởi cái nhan sắc nghiêng nước nghiêng
thành của cô nàng bán chiếu. Một người văn võ toàn tài, tuổi chạc ngũ tuần, mang chức đại
phu triều đình, đầy quyền uy “nhất nhân chi hạ, vạn nhân chi thượng” như cụ, đâu có thể
ngây ngô si tình như chàng thiếu niên Kim Trọng, đâu có dại gái như anh chàng võ biền Từ
Hải. Cụ mến phục tài năng, cái trí khôn sắc sảo, và sự khôn ngoan của Thị Lộ. Trong mắt
cụ, còn ai trội vượt khỏi cái “ả bán chiếu gon ở Tây Hồ” mà chỉ qua cuộc đối thơ đầu tiên
thì cụ đã “phải lòng” ngay? Vậy thì ta phải nói, nhà đại chiến lược họïï Nguyễn mến phục
và yêu quý giai nhân, bởi vì (đúng như Nguyễn Du mô tả):
Người quốc sách kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e.
Nói cách chung, người phụ nữ Việt được mọi người mến phục không phải vì họ là “phái
yếu” hay vì họ đẹp đến độ “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.” Người phụ nữ Việt
được quý trọng cũng không chỉ vì “công dung ngôn hạnh” hay họ tuân phục “tam tòng”
(như thấy trong tư tưởng của nho gia, mà đại biểu là cụ đồ Nguyễn Ðình Chiểu). Họ được
mến phục vì họ sắc sảo, cương trực (Ðoàn Thị Ðiểm), thông minh (Hồ Xuân Hương), hay
“sắc đành đòi một, tài đành họa hai” như bà Huyện Thanh Quan. Họ là một cô Mai trong
Nửa Chừng Xuân, một người từng là cái ước mộng của ông quan huyện (nông cạn) tên Lộc
(và chắc là của chính Khái Hưng), và có lẽ của tất cả mọi chàng trai Việt chín chắn. Họ là
cô Ngọc của tác giả Lều Chõng (Ngô Tất Tố) nuôi chồng ăn học. Họ là động lực sau người
chồng, là trung tâm của gia đình, là sức sống của dòng, của giống, là đảm bảo cho tương
lai của con cháu. Vậy thì, điểm mà chúng tôi muốn nói, người phụ nữ Việt quan trọng bởi
vì họ là một nhân tài mang tính chất che chở, bao bọc, vĩ đại (mẫu, mẹ), thương yêu, nuôi
dưỡng (bu gần với bú mớm, u chỉ thân mật), cho sự sống (đẻ), và nhất là họ mang tính
chất phõ quát, to lớn, bao bọc (cái). Họ không những báo được thù chồng mà còn trả được
nợ nước (Trưng Trắc), không những chữ tình chữ nghĩa vẹn toàn “Tình xưa ân nghĩa trả
đền,” mà lại còn đảm đang, “giỏi chiều chồng” “khéo nuôi con” như qua lời thán phục vợ
của nhà nho thất thời Trần Tế Xương:

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.

2.2. Mến Phục và Yêu Thích

Nơi đây cần phải minh định hai từ ngữ mà chúng ta thường ít để ý và phân biệt, đó là
mến phục (quý trọng) và yêu thích. Trong văn chương bình dân, hai từ ngữ này đôi khi
được dùng một cách lẫn lộn. Tuy thế, nếu suy xét cho kỹ, ta thấy người Việt nhận định một
cách rất minh bạch về hai từ ngữ trên khi họ phân biệt hai loại phụ nữ: loại được mến
phục, và loại được yêu thích. Lẽ tất nhiên, loại người vừa được mến phục vừa được yêu
thích như trường hợp các bà Nguyễn Thị Lộ, Ðoàn Thị Ðiểm, Huyện Thanh Quan, hay
Thúy Kiều, cô Mai, cô Ngọc… luôn là sự mộng ước của các đấng nam nhi. Mến phục nói
lên sự quý trọng cái giá trị của người phụ nữ, cái tài (quán xuyến) của họ, cái trí của họ,
cái đảm của họ, cái tình của họ. Ðó là cái mẫu người mà cụ Tiên Ðiền diễn tả: “Càng yêu
vì nết, càng say vì tình” (TK, 3188), mà bất cứ ai cũng phải kính phục. Hai bà Trưng, bà
Triệu, các liệt nữ, hay các nữ sỹ, hay cô Mai, hay những người vợ như bà Tú Xương, hay
một số nhân vật của Nhã Ca đại biểu cho những người có những đặc tính, hay một trong
những đặc tính trên. Ðây mới chính là cái lý do tại sao dân gian truyền tụng câu “Nhất vợ,
nhì Trời, ba mới tới ta,” tại sao ôngï Tú Vị Xuyên hãnh diện về việc “Vuốt râu nịnh vợ,
con bu nó.” Ðây cũng là lý do tại sao các đấng lang quân “biết mình biết người, trăm trận
trăm thua” để “được ăn đòn” vợ:
Vợ anh xấu máu hay ghen
Anh đừng có giỡn về ăn nhiều đòn.
Quả thế, trong văn chương bác học và nhất là dân gian, chúng ta thấy phụ nữ Việt đáng
quý, đáng trọng bởi vì họ đảm đang:
Thương nàng gánh gạch về đây,
Chẳng đắp nên núi cũng xây nên thành.
Bởi vì họ quán xuyến:
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
Hay:

Thiếp lo sắp gánh sắp gồng,
Bán buôn nuôi mẹ, có chồng như không.
Và nhất là vì họ có tình, có nghĩa:
Tưởng lấy anh cho lành manh áo,
Hay đâu lấy anh rồi, bán khố nuôi anh.
Nói tóm lại, phụ nữ Việt được quý trọng, chính vì họ mới là hiện thân của bốn nguyên lý
sinh, dưỡng, dục và lạc như chúng tôi sẽ trình bày trong phần sau bàn về Việt tính và mẫu
tính:
Anh đi em ở lại nhà,
Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ.
Lầm than bao quản muối dưa,
Anh ơi, anh liệu chen đua với đời.

2.3. Yêu Thích

Chính vì người Việt chú trọng tới tài và đức của nữ giới Việt, nên cái sắc tuy quan trọng,
song không phải là yếu tố quyết định để “chọn vợ.” Có sắc và tài nhưng lại thiếu đức thì
cũng chỉ là một công cụ làm trò giải trí cho người đàn ông mà thôi. Ðạm Tiên là một ví dụ.
Kiều và cô Mai (vì chưa phát triển cái tài, cái đức một cách hoàn toàn) vào lúc đầu là một
ví dụ khác. Chính vì vậy mà người Việt đặt yêu thích vào một phạm trù kém hơn là phạm
trù mến phục. Họ yêu thích bởi vì họ quáng gà bởi cái nhan sắc lộng lẫy của nàng:
Rõ màu trong ngọc trắng ngà,
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Họ si tình bởi vì họ bị “cú” sét ái tình làm họ choáng váng, hết cả suy tư:
Thấy em vừa trắng vừa tròn,
Mặt mày sáng sủa chồng con thế nào?
Ðể rồi khi tỉnh cơn say, khi hồi phục lại sau cú sấm sét, sớm muộn họ sẽ sáng mắt ra. Họ
hối hận than thở (nhưng đã quá trễ):
Vợ đẹp càng khổ trong lòng,
Chè ngon ức bụng, điếu thông cuộn đàm.

Ðể rồi họ nai lưng ra đền cái tội tổ tông muôn thuở:
Vì sàng bên gạo xuống nia,
Vì em anh phải đi khuya về chiều.
Ðể rồi họ sợ, cạch cho tới già:
Thân hình em trắng như ngà,
Con mắt em liếc như là dao cau.
Hay:
Lỡ mà lấy vợ Hà Ðông,
Anh sợ sư tử anh giông cho rồi.
Ðể rồi họ khuyên răn con cháu:
Thế gian lắm kẻ mơ màng,
Thấy hòn son đỏ tưởng vàng nâng niu.
Nhưng để rồi họ lại luẩn quẩn phạm vào cái tội cũ, vì quá yêu thích mà quên đi phạm trù
mến phục:
Sông bao nhiêu nước cũng vừa,
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa lòng.
Nói tóm lại, các đấng nam nhi ai cũng phải nhận là người đàn bà lý tưởng là người làm cho
họ yêu thích và mến phục. Và ai cũng biết là nếu phải chọn lựa giữa hai, lẽ đương nhiên là
họ sẽ chọn người mà họ mến phục: “cái nết đánh chết cái đẹp.”

2.4. Lối Suy Tư của Phụ Nữ Việt

Phần trên trình bày phần nào về lối nhìn của người Việt về phụ nữ Việt. Ðiểm quan trọng
hơn cả, là chính người phụ nữ Việt suy tư như thế nào về thế giới sống của mình. Ðáng
tiếc thay, chúng ta chưa có một câu trả lời xác định. Lý do là đại đa số các văn bản do nam
giới viết, và ngay cả các vần thơ mà chúng ta gán cho các nữ sỹ Ðoàn Thị Ðiểm, Hồ Xuân
Hương, hay Huyện Thanh Quan, cũng chưa hẳn là của họ. Mà nếu do chính do họ sáng tác,
thì phần vì bị ảnh hưởng của lối giáo dục Nho học, phần vì bị ảnh hưởng của xã hội đương
thời, chúng ta cũng khó có thể xác quyết được sự trung thực trong lối suy tư của họ. Ngay
cả vào thời đại chúng ta, giới nữ văn sĩ vẫn còn bị gòm bó trong cái truyền thống đạo đức

của xã hội và tôn giáo, tức vẫn còn bị lối suy tư phụ tính trói buộc.
Ý thức như vậy, chúng tôi chỉ tạm đưa ra một cái nhìn chung, mà đa số nữ giới ngày nay
công nhận, đó là:

- Người phụ nữ dùng con tim để suy tư. Nói cách khác, chữ tình là một, chữ nghĩa là
hai… là những nguyên lý chỉ đạo trong lối suy tư của phụ nữ Việt:
Tình thân bất luận khó, giầu,
Vải to khó nhuộm, cau mày cũng xinh.
Hay:
Tơ tầm đã vấn thì vương,
Ðã trót dan díu, thì thương nhau cùng.
Nói như vậy, có phải chúng tôi ý thức được rằng, phụ nữ Việt cũng không khác chi phụ nữ
của các tộc khác? Và nếu như thế, thì lối suy tư Việt có phải là một lối suy tư nữ tính hay
không? Không hẳn thế! Bởi lẽ, mặc dầu suy tư theo tình cảm, nhưng người phụ nữ Việt
không quyết định theo tình cảm. Họ sẵn sàng vì nghĩa (tình nghĩa, hiếu nghĩa, đạo nghĩa,
đại nghĩa) mà hoặc hy sinh chữ tình, hoặc thăng hóa chữ tình thành tình nghĩa. Ðây là một
lý do phụ nữ Việt là một loại phụ nữ anh hùng. Nếu nước Pháp chỉ có một Jeanne d’Arc,
thì người Việt có hàng trăm hàng ngàn người như thế. Cô Giang, cô Bắc và biết bao người
từng hy sinh vì đại nghĩa, từng dâng chồng, dâng con cho tổ quốc, hay hy sinh cho gia
đình:
Nàng về nuôi cái cùng con,
Ðể anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
Những cô Mai, cô Ngọc, bà Tú Xương… chỉ là những nhân vật thường thấy trong xã hội
Việt chứ không có chi là đặc biệt, họa hoằn (như ở phương Tây hay trong xã hội ngày
nay).

- Người phụ nữ suy tư theo thứ tự và giá trị của các nguyên lý: sinh, dưỡng, dục, và sau
cùng mới tới lạc (thú). Chính vì thế mà họ chú trọng tới vai trò của người mẹ:
Duyên may, tay bế, tay bồng;
sau tới vai trò của người cha:

Ðời cha vinh hiển, đời con sang giầu;
rồi tới vai trò của người thầy:
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy;
và sau cùng mới tới vai trò của người vợ:
Con quốc kêu khắc khoải mùa hè.
Làm thân con gái phải nghe lời chồng.
Hay:
Trời mưa cho ướt lá bầu,
Vì ai nên phải đi hầu chàng ơi.

×