Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Hà Tĩnh1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.75 KB, 7 trang )

Hà Tĩnh
Hà Tĩnh là một tỉnh ven biển thuộc
vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Vị trí
Tỉnh Hà Tĩnh
Tỉnh Việt Nam
Chính trị và hành chính
Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Thanh Bình
Chủ tịch HĐND Nguyễn Thanh Bình
Chủ tịch UBND Lê Văn Chất
Địa lý
Tỉnh lỵ Hà Tĩnh (thành phố)
Miền Bắc Trung Bộ
Diện tích 6.055,6 km²
Các thị xã / huyện 1 thành phố, 1 thị xã, 10 huyện
Nhân khẩu
Số dân
• Mật độ
1.286.700 người
212 người/km²
Dân tộc Việt, Thái, Chứt, Mường
Mã điện thoại 393
Mã bưu chính: 43
ISO 3166-2 VN-23
Website [1]
Biển số xe: 38
Hà Tĩnh trải dài từ 17°54’ đến 18°50’ vĩ Bắc và từ 103°48’ đến 108°00’ kinh Đông. Phía
bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía tây giáp nước Lào, phía đông
giáp biển Đông.
Địa hình
Hà Tĩnh cách Hà Nội 340 km, ở phía đông dãy Trường Sơn với địa hình hẹp, dốc và


nghiêng từ tây sang đông. Phía tây tỉnh là những dãy núi cao 1.500 m, đỉnh Rào Cọ 2.235
m, phía dưới là vùng đồi thấp giống bát úp; tiếp nữa là dải đồng bằng nhỏ hẹp chạy ra biển;
sau cùng là những bãi cát ven biển cùng với nhiều vũng, vịnh,tiêu biểu là cảng biển nước
sâu Vũng Áng và bãi biển Thiên Cầm.
Khí hậu
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, ngoài ra Hà Tĩnh còn chịu ảnh hưởng của khí hậu
chuyển tiếp của miền Bắc và miền Nam, với đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển hình của
miền Nam và có một mùa đông giá lạnh của miền Bắc, nên thời tiết, khí hậu rất khắc
nghiệt. Hàng năm, Hà Tĩnh có hai mùa rõ rệt:
• Mùa mưa : Mưa trung bình hằng năm từ 2500 ly đến 2650 ly. Hạ tuần tháng 8,
tháng 9 và trung tuần tháng 11 lượng mưa chiếm 54% tổng lượng mưa cả năm.
• Mùa khô : Từ tháng 12 đến tháng 7 năm sau. Đây là mùa nắng gắt, có gió Tây Nam
(thổi từ Lào) khô, nóng, lượng bốc hơi lớn.
Lịch sử
• Thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, theo Đại Việt sử ký toàn thư,
Hà Tĩnh thuộc bộ Cửu Đức
• Thời nhà Hán, thuộc huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân
• Thời nhà Ngô, thuộc Cửu Đức
• Thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê: gọi là Hoan Châu
• Năm 1030, bắt đầu gọi là châu Nghệ An
• Từ năm 1490 gọi là xứ Nghệ An
• Thời Tây Sơn, gọi là Nghĩa An trấn
• Nhà Nguyễn năm Gia Long nguyên niên lại đặt làm Nghệ An trấn
• Năm 1831, vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc
sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam).
• Năm Tự Đức thứ 6 (năm 1853) đổi tỉnh Hà Tĩnh làm đạo, hợp vào Nghệ An thành
An Tĩnh;
• Năm thứ 29 (năm 1876) lại đặt tỉnh Hà Tĩnh như cũ.
• Từ năm 1976-1991, Nghệ An và Hà Tĩnh là một tỉnh và được gọi là tỉnh Nghệ
Tĩnh

• Năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay
• Năm 1992, Thị xã Hồng Lĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở: thị trấn Hồng Lĩnh; xã
Đức Thuận, xã Trung Lương; một phần xã Đức Thịnh thuộc huyện Đức Thọ; các
xã Đậu Liêu và Thuận Lộc thuộc huyện Can Lộc.
• Năm 2000, huyện Vũ Quang được thành lập trên cơ sở tách 6 xã thuộc huyện Đức
Thọ, 5 xã thuộc huyện Hương Khê và 1 xã thuộc huyện Hương Sơn.
• Năm 2007, huyện Lộc Hà được thành lập trên cơ sở 7 xã ven biển của huyện Can
Lộc và 6 xã ven biển của huyện Thạch Hà.
Dân cư
Hà Tĩnh có 1.286.700 người
[cần dẫn nguồn]
, trên 20 dân tộc cùng sinh sống, nhưng chủ yếu là
người Kinh; các dân tộc khác, mỗi dân tộc chỉ có vài trăm hoặc vài chục người
[cần dẫn nguồn]
.
Đất
Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên 6.055,7 km². trong đó:
• Đất ở: 6.799 ha
• Đất nông nghiệp: 98.171 ha
• Đất lâm nghiệp: 240.529 ha
• Đất chuyên dùng: 45.672 ha
• Đất chưa sử dụng: 214.403 ha
Sông
Hà Tĩnh có nhiều sông nhỏ và bé chảy qua, con sông lớn nhất là sông La và sông Lam,
ngoài ra có con sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Ngàn Trươi, Rào Cái, Tổng chiều dài các con
sông khoảng 400 km, tổng sức chứa 13 tỷ m³. còn hồ Kẻ Gỗ, hồ Sông Rác, hồ Cửa Thờ
Trại Tiểu...ước 600 triệu m³ [2].
Tài nguyên biển
Hà Tĩnh có bờ biển dài (?). Trữ lượng nhiều khoảng 85,8 nghìn tấn cá, 3,5 nghìn tấn mực
và 600 tấn tôm [3]

Rừng
Tỉnh Hà Tĩnh có trên 300.000 ha rừng và đất rừng
[cần dẫn nguồn]
, trong đó diện tích rừng chiếm
66%, còn lại chưa có rừng, gồm trên 100.000 ha đất trống đồi núi trọc, đất bụi và bãi cát.
Rừng tự nhiên (164.978 ha)
[cần dẫn nguồn]
hiện chủ yếu phân bố ở vùng núi cao, xa các trục
giao thông, trong đó rừng sản xuất kinh doanh 100.000 ha, rừng phòng hộ 63.000 ha, độ
che phủ 38% so với diện tích đất tự nhiên. Rừng giàu chỉ chiếm 10%, rừng trung bình
40%, còn lại 50% là rừng nghèo kiệt. Đất không có rừng 151.000 ha, chiếm 24,4% diện
tích tự nhiên của tỉnh, trong đó một số diện tích ở sườn đồi đang bị xói mòn. Trữ lượng gỗ
20 triệu m³
[cần dẫn nguồn]
, hàng năm khai thác chừng 2-3 vạn m³; những năm gần đây thực hiện
chính sách đóng cửa rừng nên lượng gỗ khai thác hàng năm đã giảm nhiều.Thực vật của
rừng đa dạng và phong phú, có trên 86 họ và trên 500 loại cây dạng thân gỗ
[cần dẫn nguồn]
,
trong đó có nhiều loại gỗ quý như: lim, sến, táu, mật, đinh, gõ, pơmu và các loại động vật
quý hiếm như: voi, hổ, báo, vượn đen, sao la.
Hà Tĩnh có khu vườn quốc gia Vũ Quang rộng 56 nghìn ha với 307 loài thực vật bậc cao
thuộc 236 chi và 99 họ, 60 loài thú, 187 loài chim, 38 loài bò sát, 26 loài lưỡng cư và 56
loài cá
[cần dẫn nguồn]
. Đặc biệt, ở rừng Vũ Quang đã phát hiện ra sao la và mang lớn là hai loại
thú quý hiếm chưa có tên trong danh mục thú của thế giới [4].
Hành chính
Hà Tĩnh có 12 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 10 huyện với 259
xã, phường và thị trấn:

• Thành phố Hà
Tĩnh (tỉnh lỵ)
• Thị xã Hồng
Lĩnh
• Huyện Cẩm
Xuyên
• Huyện Can Lộc

• Huyện Đức
Thọ
• Huyện
Hương Khê
[5]
• Huyện
Hương Sơn
• Huyện Kỳ
Anh

• Huyện Nghi Xuân
• Huyện Thạch Hà
• Huyện Vũ Quang [6]
• Huyện Lộc Hà (mới
thành lập 7/2/2007).
Kinh tế
Cơ cấu kinh tế (năm nào?):
• Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: 42,5%
• Công nghiệp, xây dựng: 21,5%
• Dịch vụ: 36%
• GDP/người: 4.579.000 VND/năm (2005)
• Tốc độ tăng trưởng GDP: trung bình 8% trong 5 năm (2000-2005)

Văn hóa
Hà Tĩnh là một vùng đất nằm trên dải đất miền Trung thiên nhiên không mấy ưu đãi,
nhưng lại được coi là nơi "địa linh nhân kiệt" [7], [8]. Nhiều làng quê ở Hà Tĩnh nổi tiếng
văn chương, khoa bảng và anh hùng [9].
Núi Hồng Lĩnh với 99 ngọn cùng sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu và sông La, sông Lam là
nguồn cảm hứng cho các thế hệ thi nhân, nhạc sĩ. Núi Hồng Lĩnh là một trong số các địa
danh được khắc vào Bách khoa thư cửu đỉnh hiện đang đặt tại cố đô Huế.
Phía đông Hồng Lĩnh là làng Tiên Điền của đại thi hào Nguyễn Du, tác giả của Truyện
Kiều. Phía tây nam núi Hồng lĩnh là làng "Bát cảnh Trường Lưu" của dòng họ Nguyễn
Huy. Hai làng văn hiến ở hai sườn đông và tây núi Hồng Lĩnh ấy đã tạo nên một Hồng Sơn
văn phái với những tác phẩm tiêu biểu như Hoa tiên (của Nguyễn Huy Tự), Mai Đình
mộng ký (của Nguyễn Huy Hổ), Truyện Kiều.
Các làng Thu Hoạch, Trường Lưu, Tiên Điền, Uy Viễn, Đông Thái, Yên Hội, Gôi Mỹ,
Thần Đầu, Trung Lễ, Bùi Xá, Ích Hậu, Trung Lương, Ân Phú... nổi danh về truyền thống
học hành, khoa bảng và văn chương [10].
Đây là quê hương của các danh nhân như vua Mai Hắc Đế, Trạng nguyên Đào Tiêu, nhà sử
học Sử Hy Nhan (đời nhà Trần), của hai vị tướng Đặng Tất và Đặng Dung, quê hương của
Nguyễn Biểu (nhà ngoại giao thời nhà Trần và tác giả bài thơ ăn cỗ đầu người khi đi sứ),
Bảng nhãn Lê Quảng Chí, Bảng nhãn Trần Bảo Tín, thầy địa lý Tả Ao, quê ngoại của danh
y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (thời Hậu Lê), của Ngự sử Bùi Cầm Hổ (thời Lê sơ),

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×