Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận Trục lợi bảo hiểm và cách phòng chống tại Công ty Bảo Việt Nhân Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.08 KB, 29 trang )

Họ và tên : Đỗ Minh Đức
Lớp : Kinh tế NN & PTNT56
Mã SV : 11140927
Đề tài:

TRỤC LỢI BẢO HIỂM VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG
TẠI CÔNG TY BẢO VIỆT NHÂN THỌ

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ TRỤC LỢI
TRONG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1.1. Sự cần thiết khách quan và tác động của BHNT
a. Sự cần thiết của BHNT
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một vài người trong số
họ phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử
là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và
số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng
là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ đã đóng góp một phần
không nhỏ vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia bảo
hiểm nhân thọ trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển
cũng như các nước đang phát triển.Ở châu Á, những năm gần đây bảo hiểm
nhân thọ phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội,
giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao.
Bảo hiểm nhân thọ giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần
giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện
nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia bảo hiểm nhân thọ nhằm
duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp
người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh
viễn.


Bảo hiểm nhân thọ từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm
nhân thọ hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy
1


động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người
tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng
chưa nhiều, nhưng lượng vốn mà công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam huy động
được cũng là hết sức cần thiết trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay.
Bảo hiểm nhân thọ đảm bảo an toàn về tài chính cho những người phụ
thuộc. Người trụ cột là chỗ dựa về tài chính cũng như tinh thần cho những người
thân, người phụ thuộc trong gia đình. Tham gia bảo hiểm nhân thọ là cách để
người trụ cột thể hiện trách nhiệm với người thân bởi lẽ: giúp đảm bảo khoản
chi phí tài chính để khắc phục tổn thất khi người trụ cột gặp rủi ro; giúp duy trì
mức sống ổn định cho gia đình khi những rủi ro bất ngờ ập đến.
Bảo hiểm nhân thọ còn là quỹ tiết kiệm cho tương lai học vấn của con em.
Chăm lo cho tương lai học vấn của con trẻ là mối quan tâm hàng đầu của các
bậc cha mẹ. Để thực hiện được mục tiêu đó các bậc cha mẹ phải chuẩn bị trước
một khoản tài chính nhất định. Với bảo hiểm nhân thọ các bậc cha mẹ sẽ được
tham gia một chương trình tài chính mà theo đó: giúp tích lũy có kỷ luật để có
một khoản tiền lớn chăm lo cho tương lai học vấn của con cái.
Tham gia Bảo hiểm nhân thọ còn là xây dựng quỹ tiết kiệm dài hạn cho
những kế hoạch của cá nhân và gia đình. Bảo hiểm nhân thọ giúp mỗi cá nhân
và gia đình thực hiện những chương trình tiết kiệm dài hạn thuận tiện và có kỷ
luật. Chỉ cần để dành những khoản tiền nhỏ đều đặn, bạn có thể thực hiện những
kế hoạch cho tương lai như: lập gia đình; mua nhà; mua xe; hay những mong
muốn khác.
Bảo hiểm nhân thọ mang lại những hỗ trợ về chi phí hậu sự hay để lại di
sản thừa kế. Bảo hiểm nhân thọ đảm bảo rằng khi đã có tuổi, khách hàng sẽ luôn
có một khoản tiền để trang trải những chi phí thuốc men, lo hậu sự, hay để lại

một di sản thừa kế cho con cháu.
Bảo hiểm nhân thọ giúp đảm bảo vững chắc hơn nguồn tài chính khi về
hưu, thanh thản an hưởng tuổi già bên con cháu. Với nguồn tài chính độc lập,
khách hàng là những người đã đến tuổi hưu trí có thể thực hiện công việc kinh
doanh nhỏ để có thêm thu nhập; trang trải thuốc men, viện phí; thực hiện những
chuyến đi tham quan, du lịch.
Bảo hiểm nhân thọ là kênh đầu tư sinh lời. Bên cạnh những sản phẩm bảo
hiểm truyền thống, bảo hiểm nhân thọ còn có loại hình bảo hiểm liên kết đầu tư.
Loại hình bảo hiểm này cho phép người tham gia bảo hiểm: đáp ứng nhu cầu
đầu tư; tiếp cận với các danh mục đầu tư được đa dạng hóa; tiếp cận với các dịch
vụ quản lý đầu tư chuyên nghiệp.

2


Hơn thế nữa, bảo hiểm nhân thọ cũng góp phần tạo sự ổn định và phát
triển bền vững cho xã hội với vai trò là một hình thức an sinh xã hội bổ sung
b. Tác dụng của BHNT
Bảo hiểm nhân thọ có rất nhiều tác dụng trong đời sống kinh tế xã hội. Chính
những tác dụng này đã giúp nó tồn tại và đạt được những thành công như ngày
nay.
 Đối với người tham gia bảo hiểm:
Bảo hiểm nhân thọ đã góp phần ổn định cuộc sống của dân cư, bảo vệ cho
các cá nhân và gia đình họ chống lại sự bất ổn định về tài chính gây ra bởi các
bất hạnh như: tử vong, thương tật, đau ốm, mất giảm thu nhập hoặc người trụ
cột trong gia đình qua đời để lại một gánh nặng nghĩa vụ chưa kịp hoàn thành
( trách nhiệm nuôi dưỡng người thân, bảo đảm học hành cho con cái, các khoản
vay thế chấp...). Nói cách khác, bảo hiểm nhân thọ là sự chia sẻ các tổn thất giữa
những người tham gia bảo hiểm nhằm thay thế sự bất ổn bằng sự ổn định về tài
chính trong các trường hợp có sự cố bảo hiểm xảy ra. Trường hợp rủi ro không

xảy ra, người tham gia bảo hiểm vẫn được hưởng các quyền lợi từ số phí đã
đóng.
Bảo hiểm nhân thọ cũng góp phần nâng cao sức khoẻ cho nhân dân thông
qua việc kiểm tra sức khoẻ miễn phí tại các trung tâm y tế do công ty bảo hiểm
chỉ định trước khi ký kết hợp đồng. Mặt khác, khi người được bảo hiểm gặp rủi
ro như ốm đau, phẫu thuật tàn tật... công ty bảo hiểm cũng chi trả một số tiền để
họ phục hồi sức khoẻ nhanh chóng.

 Đối với nền kinh tế xã hội:
Bảo hiểm nhân thọ ra đời cũng là một nhân tố thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nó có một số tác dụng sau:
 Bảo hiểm nhân thọ góp phần tăng tích luỹ, tiết kiệm cho ngân sách. Trong
thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách phải chi ra một khối lượng vốn khá
lớn để bồi thường cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro (trợ cấp thôi việc,
trợ cấp ốm đau...) dưới hình thức trợ cấp. Đây là điều bất hợp lý gây cho
ngân sách luôn bị thiếu hụt (bội chi), làm hạn chế việc phát triển kinh tế
và các mặt khác của đời sống xã hội. Ngày nay, mỗi cá nhân mua bảo
hiểm nhân thọ là một cách tự bảo vệ mình, chủ động đối phó với rủi ro,
đồng thời còn tạo ra một khoản tiết kiệm. Sự giúp đỡ của ngân sách hay
của các tổ chức sử dụng lao động chỉ còn mang ý nghĩa động viên chứ
3


không có vai trò quyết định căn bản như trước kia nữa. Các quỹ dự phòng
cho các trường hợp rủi ro có thể sử dụng vào các mục đích khác.
 Bảo hiểm nhân thọ góp phần thu hút vốn để phát triển kinh tế. Việt Nam
đang thực hiện quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Một
trong những yếu tố đảm bảo thắng lợi mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội
đã đề ra là vấn đề tạo vốn đầu tư. Nguồn vốn nước ngoài là quan trọng
nhưng nguồn vốn trong nước vẫn là chủ yếu, không có gì tốt hơn là tự

lực, tự cường bởi lẽ khi đón nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì chúng
ta phải trả lãi suất và ít nhiều mất tự chủ về kinh tế. Chẳng hạn trong các
công ty liên doanh, khi các ông chủ nước ngoài góp trên 50% vốn, họ chi
phối hầu như toàn bộ hoạt động của công ty, người Việt Nam chỉ là hình
thức bên ngoài, trên thực tế không có quyền hành gì.
 Bảo hiểm nhân thọ là một giải pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu
tư cho giáo dục từ việc tiết kiệm thường xuyên, có kỷ luật của mỗi gia
đình. Đây cũng là giải pháp đúng đắn góp phần xây dựng mục tiêu công
bằng xã hội. Vì dự trù cho tương lai giáo dục đối với con em mình cũng
nên coi là trách nhiệm của mỗi gia đình. Xét trên giác độ vi mô tham gia
bảo hiểm nhân thọ vẫn sẽ đảm bảo được quỹ giáo dục cho con cái ngay cả
khi người trụ cột gia đình không may qua đời.
 Bảo hiểm nhân thọ còn góp phần rất lớn vào giải quyết việc làm cho xã
hội. Bảo hiểm là ngành có mạng lưới đại lý rộng khắp trong và ngoài
nước. Bảo hiểm nhân thọ là ngành thu hút nhiều lao động hơn cả vì nó
cần có một mạng lưới nhân viên khai thác bảo hiểm, máy vi tính, tài
chính, kế toán... rất lớn. Vì vậy, việc phát triển bảo hiểm nhân thọ sẽ tạo ra
nhiều công ăn việc làm cho thị trường lao động.
 Mặc dù điều kiện sống hiện nay ngày càng được nâng cao nhưng những
rủi ro bất ngờ luôn rình rập xung quanh chúng ta và có thể xảy ra bất cứ
lúc nào. Tham gia bảo hiểm nhân thọ là cách tự bảo vệ của mỗi cá nhân,
mỗi gia đình chống lại sự bất ổn về tài chính nếu rủi ro xảy ra. Như vậy,
bảo hiểm nhân thọ góp phần làm giảm người bần cùng, nghèo khổ do
những bất hạnh trong cuộc sống đem lại. Hơn nữa chúng ta phải lo cho
tương lai của mình sau khi về hưu. Nói cách khác, bảo hiểm nhân thọ đã
góp phần giải quyết gánh nặng trách nhiệm của xã hội đối với người lao
động về hưu, tuổi cao.
1.1.2. Các loại hình BHNT cơ bản
BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau. Đối với những người
tham gia mục đích chính của họ hoặc là để bảo vệ con cái và những người ăn

4


theo tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất ngờ của họ hoặc tiết kiệm để
đáp ứng các nhu cầu tài chính trong tương lai…Do vậy, người bảo hiểm đã thực
hiện đa dạng hoá các sản phẩm BHNT, thực chất là đa dạng hoá các loại hợp
đồng nhằm đáp ứng và thoả mãn tối đa nhu cầu của người tham gia bảo hiểm.
Trong thực tế có 3 loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản :
- Bảo hiểm trong trường hợp tử vong;
- Bảo hiểm trong trường hợp sống ;
- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
Ngoài ra các công ty BHNT trên thế giới còn triển khai bổ sung một số
điều khoản vào các loại hình BHNT nói trên nhằm mục đích tăng thêm quyền
lợi cho khách hàng để lôi kéo họ, cạnh tranh với các đối thủ khác, thực hiện đa
dạng hoá sản phẩm cho phù hợp với các điều kiện của công ty. Việc làm này
hoàn toàn không phải đơn giản. Thực chất, các điều khoản bổ sung không phải
là BHNT, vì không phụ thuộc vào sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con
người, mà là bảo hiểm các rủi ro khác có liên quan đến cuộc sống của con
người. Đôi khi người tham gia bảo hiểm cũng thấy rất cần thiết phải tham gia để
bổ sung cho hợp đồng cơ bản.
a. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong ( Bảo hiểm tử kỳ)
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành 2 nhóm:
Bảo hiểm tử kỳ và Bảo hiểm nhân thọ trọn đời
Nhóm

Bảo hiểm tử kỳ (Bảo hiểm tạm thời hay bảo Bảo hiểm nhân thọ trọn
hiểm sinh mạng có thời hạn)
đời: (Bảo hiểm trường
sinh)


Khái
niệm

Được ký kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra
trong thời gian đã quy định của hợp đồng.
Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó
thì người được bảo hiểm không nhận được
bất cứ khoản phí nào từ số phí bảo hiểm đã
đóng. Điều đó, cũng có nghĩa là người bảo
hiểm không phải thanh toán số tiền bảo hiểm
cho người được bảo hiểm. Ngược lại, nếu cái
chết xảy ra trong thời gian có hiệu lực của
hợp đồng, thì người bảo hiểm phải có trách
nhiệm thanh toán số tiền bảo hiểm cho người
5

Loại hình bảo hiểm này
cam kết bảo hiểm cho
người tham gia bảo
hiểm đến khi chết.


thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định.
Đặc
điểm
chung

-Thời hạn Bảo hiểm luôn luôn xác định;

-Thời gian không xác

định;

-Quyền lợi và trách nhiệm mang tính tạm
thời;
-Số tiền bảo hiểm trả
một lần khi người được
-Mức phí Bảo hiểm thấp nhất vì không phải bảo hiểm bị chết bất cứ
lập nên quỹ tiết kiệm cho người được Bảo lúc nào;
hiểm.
-Phí bảo hiểm của loại
hình này thường cao
hơn bảo hiểm tử kỳ vì
người được bảo hiểm
chắc chắn sẽ chết;
-Loại hình bảo hiểm này
thường đóng phí nhiều
lần và số phí bảo hiểm
đóng mỗi lần không
thay đổi .

Mục
đích

-Bảo đảm các chi phí mai táng, chôn cất, hồi -Đảm bảo cuộc sống của
hương.
gia đình và người thân
sau cái chết của người
-Bảo đảm cuộc sống cho gia đình và người được bảo hiểm;
thân trong một thời gian ngắn.
-Giữ gìn tài sản cho thế

-Giúp gia đình trả nợ và thanh toán các hệ sau;
khoản tiền vay thế chấp.
-Mua sắm tài sản cho
gia đình và người thân
theo kế hoạch đã định
trước;
-Là mục đích tiết kiệm.

Các hoại -Bảo hiểm tử kỳ cố định: có mức phí bảo
hình
hiểm và số tiền bảo hiểm cố định, không
thay đổi trong suốt thời gian có hiệu lực của
hợp đồng. Mức phí thấp nhất và người bảo
hiểm không thanh toán khi hết hạn hợp đồng.
Hợp đồng hết hiệu lực nếu sau ngày gia hạn
6

-BHNT trọn đời phi lợi
nhuận
-BHNT trọn đời có
tham gia chia lợi nhuận:
Loại này thường ứng


hợp đồng không nộp phí bảo hiểm. Loại này với một số tiền bảo
chủ yếu nhằm thanh toán cho các khoản nợ hiểm nhất định nào đó.
tồn đọng trong trường hợp người được bảo
-BHNT trọn đời đóng
hiểm bị tử vong.
phí liên tục, mức đóng

-Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục: loại này có phí mỗi lần bằng nhau.
thể được tái tục vào kết thúc hợp đồng và
không yêu cầu có thêm bằng chứng nào về -BHTN trọn đời đóng
sức khỏe của người được bảo hiểm, nhưng phí một lần
có sự giới hạn về độ tuổi (thường độ tuổi tối
đa là 65). Tại lúc tái tục, phí bảo hiểm tăng -BHNT trọn đời quy
lên vì độ tuổi của người được bảo hiểm lúc định số lần đóng phí bảo
hiểm
này tăng lên.
-Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi: Đây là
loại hình bảo hiểm tử kỳ cố định nhưng cho
phép người được bảo hiểm có sự lựa chọn
chuyển đổi một phần hay toàn bộ hợp đồng
thành một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trọn
đời hay BHNT hỗn hợp tại một thời điểm
nào đó khi họp đồng đang còn hiệu lực. Phí
bảo hiểm được tính dựa trên hợp đồng
BHNT trọn đời hay hỗn hợp mới theo độ
tuổi của người có hợp đồng.
Loại hợp đồng này phát hành như một sự
bảo chứng cho khoản tiền vay. Đồng thời nó
còn nhằm thực hiện yếu tố tiết kiệm trong
tương lai của người được bảo hiểm.
-Bảo hiểm tử kỳ giảm dần: đây là loại hình
bảo hiểm mà có một bộ phận của số tiền bảo
hiểm giảm hàng năm theo một mức quy
định. Bộ phận này giảm tới 0 vào cuối kỳ
hạn hợp đồng. Loại hình này đáp ứng nhu
cầu của người tham gia, khi họ phải nợ một
khoản tiền phải trả dần.

-Bảo hiểm tử kỳ tăng dần: Loại này được
phát hành nhằm giúp người tham gia bảo
hiểm có thể ngăn chặn được yếu tố lạm phát
của đồng tiền .

7


-Bảo hiểm thu nhập gia đình: Loại hình bảo
hiểm này nhằm đảm bảo thu nhập cho 1 gia
đình khi không may người trụ cột trong gia
đình bị chết .
-Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên: Loại
hình bảo hiểm này cũng nhằm tránh yếu tố
lạm phát của đồng tiền. Đảm bảo các khoản
thanh toán của công ty bảo hiểm cho gia
đình không may có người được bảo hiểm bị
chết, tương ứng với số tiền bảo hiểm khi mới
ký hợp đồng .
-Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện: Điều kiện ở
đây là việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực
hiện khi người được bảo hiểm bị chết, đồng
thời người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm
được chỉ định trong hợp đồng phải còn sống.
b. Bảo hiểm trong trường hợp sống ( Bảo hiểm sinh kỳ)
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả
những khoản chi đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt
cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày
đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào.
Loại hình bảo hiểm này trước đây được triển khai theo 2 hướng:

-Bảo hiểm sinh kỳ thuần tuý: nhưng lâu nay người ta bỏ vì nó giống với gửi tiền
tiết kiệm.
-Bảo hiểm trợ cấp định kỳ, còn gọi là bảo hiểm hưu trí tự nguyện (bảo hiểm niên
kim nhân thọ).
 Đặc điểm:
-Thời hạn bảo hiểm có thể xác định, có thể không xác định.
+Nếu không xác định gọi là niên kim nhân thọ trọn đời
+Nếu xác định gọi là niên kim nhân thọ tạm thời.

8


-Phí bảo hiểm chỉ nộp 1 lần.
-Số tiền bảo hiểm được trả nhiều lần (trợ cấp định kỳ).
 Mục đích:
-Đảm bảo cuộc sống khi về già;
-Giảm nhẹ gánh nặng phụ thuộc vào con cái và phúc lợi xã hội. Người tham gia
bảo hiểm thường là những người bước vào độ tuổi về hưu.
Loại hình bảo hiểm này phù hợp với những người khi về hưu hoặc những
người không được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ BHXH đến độ tuổi tương ứng
với tuổi về hưu đăng ký tham gia, để được hưởng những khoản trợ cấp định kỳ
hàng tháng. Vì vậy, tên “Bảo hiểm trợ cấp hưu trí”, “Bảo hiểm tiền hưu”, “Niên
kim nhân thọ”…được các công ty bảo hiểm vận dụng hết sức linh hoạt.
c. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cả trong trường hợp người
được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen vì
vậy nó được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới .
 Đặc điểm :
-Thời hạn bảo hiểm luôn luôn xác định
-Số tiền bảo hiểm được trả 1 lần khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra (chết, hết

hạn hợp đồng người được bảo hiểm vẫn còn sống).
-Phí bảo hiểm nộp định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng.
 Mục đích:
-Thực hành tiết kiệm từ ngân sách gia đình để tạo lập quỹ giáo dục con cái và
mua sắm tài sản…
-Dùng làm vật vay thế chấp, thậm chí vay ngay trên hợp đồng bảo hiểm.
-Bảo trợ cuộc sống của người thân.
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro nên
hầu hết các loại hợp đồng, các loại bảo hiểm khác nhau đều được tham gia chia

9


lãi. Khách hàng của loại hình bảo hiểm này là đông nhất và có thể ở mọi lứa
tuổi.
1.2 TRỤC LỢI TRONG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.2.1. Khái niệm, nguyên nhân và hậu quả của TLBH
a. Khái niệm
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về bảo hiểm, hầu như không có một
khái niệm mang tính học thuật đề cập đến vấn đề trục lợi bảo hiểm cả trong giáo
trình nào. Tuy nhiên, cụm từ “trục lợi bảo hiểm” được nhắc rất nhiều đến trong
đời sống xã hội ở Việt Nam. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này.
Theo wikipedia: “Trục lợi bảo hiểm xảy ra khi bất kỳ hành động nào đã
được cam kết với ý định đạt được lợi ích hoặc lợi thế một cách gian lận mà
đáng ra không được quyền. Hoặc trục lợi bảo hiểm xảy ra khi một người nào đo
cố tình phủ nhận một số lợi ích mà một người nào đo co quyền được hưởng.”
Đây là khái niệm khá chung chung, qua đó nhắc đến trục lợi bảo hiểm là nhắc
đến các hành vi gian lận và lợi ích. Thật ra ngay cụm từ “trục lợi bảo hiểm” đã
mang một ý nghĩa chung khái quát giúp mọi người có thể hiểu được sơ bộ về
trục lợi bảo hiểm.

Theo hiệp hội bảo hiểm Canada: “Trục lợi bảo hiểm là một hành vi cố tình
gian dối, lừa đảo co thể co chủ ý ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoặc phát sinh
sau khi đã xảy ra rủi ro cho đối tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số tiền từ
công ty bảo hiểm”.
Theo quy định tại thông tư 31/2004/TTC-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn
thực hiện nghị định 118 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm thì: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm
thu lời bất chính khi tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm
và giải quyết khiếu nại bảo hiểm.”
Dẫu vậy, trục lợi bảo hiểm, hiểu một cách đơn giản, là tìm cách để kiếm
lợi bất hợp pháp trong kinh doanh bảo hiểm và tham gia bảo hiểm; thường được
biểu hiện mà đáng lí ra họ không được hưởng; hay một cách bao hàm hơn,
“Trục lợi bảo hiểm là các hành vi vi phạm các nguyên tắc bảo hiểm của các chủ
thể tham gia trong hợp đồng bảo hiểm nhằm giành được những quyền lợi ròng”.

10


Bên cạnh đó, khái niệm ”gian lận bảo hiểm” có thể được hiểu tương tự
như là trục lợi bảo hiểm: Gian lận bảo hiểm là hành vi gian dối không trung thực
được thực hiện nhằm chống lại doanh nghiệp bảo hiểm để thu lợi bất chính.
Hành vi gian lận bảo hiểm có thể được thực hiện trong quá trình tiến hành bảo
hiểm bởi các bên khác nhau, bao gồm chủ sở hữu hợp đồng bảo hiểm/đơn bảo
hiểm, bên thứ ba đòi doanh nghiệp bảo hiểm chi trả bồi thường, môi giới bảo
hiểm, đại lý bảo hiểm, các tổ chức và cá nhân chuyên cung cấp các dịch vụ tư
vấn đòi bồi thường bảo hiểm…
Tính chất của hành vi gian lận bảo hiểm có thể rất khác nhau: từ việc khai
tăng giá trị của một yêu cầu đòi chi trả, bồi thường hoàn chỉnh về những thiệt
hại rủi ro chưa hề xảy ra trên thực tế hoặc những rủi ro đã xảy ra nhưng được
biến theo 1 kịch bản nào đó nhằm thu lợi...

Như vậy từ xu hướng gian lận và trục lợi bảo hiểm ngày càng biểu lộ rõ
chung một mục đích từ một phía nào đó. Hành vi này ngày càng tăng về số
lượng, hình thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn, sắc sảo hơn. Nó làm phát sinh
rất nhiều chi phí của các doanh nghiệp bảo hiểm cho công tác khắc phục vấn đề
này.
Trên thực tế, nghiệp vụ nào cũng có hành vi trục lợi bảo hiểm, mỗi nghiệp
vụ có những hành vi, hình thức TLBH khác nhau như:
- Thay đổi tình tiết vụ tai nạn...
- Tạo hiện trường giả..
- Giấu bệnh khi khai báo sức khoẻ...
- Khai báo rủi ro không trung thực...
- Khai giảm tuổi so với tuổi thực...để được giảm phí trong BHNT...
- v.v.
Trục lợi trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ: Là hình thức trục lợi bảo
hiểm liên quan đến sức khỏe, tuổi thọ và tài chính của con người. Đối tượng bảo
hiểm khó có thể đánh giá tổn thất một cách chính xác và có nhiều trường hợp
đặc biệt trong hợp đồng. Hình thức trục lợi bảo hiểm thường thường không được
rõ ràng rất khó phân xử.

11


b. Nguyên nhân của TLBH
TLBH có thể khẳng định là một hành vi xấu trong xã hội, vi phạm chuẩn
mực đạo đức con người cũng như đã vi phạm vào tinh nhân đạo đặc trưng của
bảo hiểm, đó cũng là hành vi vi phạm pháp luật. Mà nguyên nhân dẫn tới TLBH
có lẽ xuất phát chính từ lòng tham của con người cùng với nhiều yếu tố khác
khiến TLBH ngày càng tinh vi hơn...
 Nguyên nhân khách quan:
Đây là yếu tố không thuộc kiểm soát của các doanh nghiệp bảo hiểm. Mà đó

là những yếu tố luật pháp, thị trường, nhận thức của người dân về bảo hiểm..v.v:
- Pháp luật còn lỏng lẻo, nhiều kẽ hở, thiếu tính tổng quát dễ bề kẻ xấu lợi
dụng. Dẫu cho luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực từ 2001 song nó vẫn chưa
có những quy định rõ ràng cụ thể về xử phạt những người bị phát hiện có hành
vi trục lợi. Dù đã có các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm nhưng vẫn chưa thực sự chi tiết và đủ mạnh cho các chế tài
bảo hiểm. Theo nghị định về xử phạt hành chính, hành vi TLBH bị cảnh cáo
hoặc phạt tối đa 70 triệu đồng. Bộ luật Hình sự chưa có điều luật nào quy định
cụ thể về tội TLBH. Kẻ TLBH chỉ bị xử với các tội danh liên quan như tham ô,
hối lộ, chiếm đoạt tài sản... Chính vì hành lang pháp lý chưa đầy đủ nên nhiều
vụ TLBH chưa được điều tra và xét xử nghiêm khắc, do vậy không có tính răn
đe.
Mặt khác do mải chạy theo cạnh tranh trên thị trường, các công ty bảo
hiểm cố gắng đơn giản hoá các thủ tục hành chính, các quy tắc bảo hiểm chưa
được chặt chẽ càng tạo điều kiện cho ý định trục lợi thành hiện thực, tạo đièu
kiện cho kẻ xấu có cơ hội lợi dụng dễ dàng hơn...

12


- Do đặc điểm kinh doanh của ngành, là ngành kinh doanh dịch vụ rất
phức tạp và khó khăn trong quản lí, qua nhiều khâu, thời gian dài,...khiến cho
xác suất xảy ra cao, mức độ kiểm soát kiểm tra về người tham gia bảo hiểm,
người thụ hưởng khó, nhất là thời hạn của hợp đồng BHNT thường rất lâu từ 5
năm trở nên đến trọn đời, do đó sự thay đổi, yếu tố hành vi gian lận TLBH là rất
dễ xảy ra.
- Có sự cấu kết, sắp đặt trước của các bên có liên quan trong quá trình
đánh giá rủi ro như: cán bộ công an, cán bộ y tế, đại lí...người tham gia bảo hiểm
, người được thụ hưởng bảo hiểm...
- Địa hình, địa lí nơi xảy ra rủi ro phức tạp cũng là nguyên nhân dẫn đến

TLBH. Đôi khi tai nạn xảy ra ngoài tầm kiểm soát của các công ty bảo hiểm
làm cho công tác giám định trở nên khó khăn hơn và khó có thể xác minh được
thực tế. Cung với đó có những sự kiện rủi ro xảy ra mà cán bộ nhân viên bảo
hiểm khó có thể có mặt ngay mà thông qua các báo cáo từ các cán bộ của ngành
y tế, công an, địa phương...Đó là kẽ hở lớn, nhất là khi có sự cấu kết, mua
chuộc...
- Bên cạnh đó, nhận thức của người dân về pháp luật, về bảo hiểm còn rất
hạn chế. Họ coi bảo hiểm như là một tổ chức phúc lợi xã hội, có sự hiểu nhầm
giữa BHTM với BHXH...Chưa nhận thức được tính nhân văn của bảo hiểm,
chưa thấy được quy luật “ số đông bù số ít” trong bảo hiểm.
Trong quá trình tham gia bảo hiểm, còn che giấu nhiều thông tin quan
trong như: giấu bệnh, khai báo sai thông tin cá nhân, hay cố tình che đậy thông
tin về bản thân...
Đôi khi tham gia bảo hiểm vì một lí do mang tính nể vị,...không xuất phát
từ mục đích sâu xa của bảo hiểm để rồi rất dễ dẫn đến nảy sinh ý định hành vi
xấu nhằm được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi xảy ra rủi ro...
13


Và có nhiều nguyên nhân khác mà bản thân người dân nghĩ mình làm
đúng nhưng thực ra vô tình đã vi phạm pháp luật như: làm chứng cho hiện
trường giả,..v.v.
 Nguyên nhân chủ quan:
- Sự non kém, thiếu kinh nghiệm thực tế, nhất là đối với nhiều hình thức,
sản phẩm bảo hiểm mới, khai thác trên thị trường mới..v.v sẽ rất khó đối phó với
nhiều mánh khoé tinh vi của đối tựơng trục lợi.
Từ khâu tiếp nhận đơn yêu cầu bảo hiểm của khách hàng đến đánh giá rủi
ro, chấp nhận bảo hiểm, kiểm tra thông tin và đánh giá rủi ro và giải quyết
quyền lợi khách hàng bảo hiểm chỉ cần có sự thiếu sót yếu kém, thiếu đồng bộ
và sơ suất có thể sẽ là cơ hội tốt để kẻ xấu trục lợi..

-Không xác định được việc khách hàng tự kê khai giấy yêu cầu hay đại lý
kê khai hộ khách hang.
-Không xác định được tình trạng sức khỏe ban đầu của khách hàng. Chẳng
hạn, không xác định được khách hàng có đủ tay, chân, mắt hay không.
- Không xác định được chữ ký của khách hàng là thật hay giả cũng như
không rõ mặt khách hàng để trả tiền. Khi trả tiền bảo hiểm cho khách hàng, các
nhà bảo hiểm thường yêu cầu khách hàng xuất trình chứng minh thư, hộ chiếu…
Tuy nhiên do kích cỡ ảnh trong chứng minh thư khá nhỏ và thường rất mờ (do
thời gian) nên việc kiểm tra đôi khi gặp khó khăn.
- Có sự thông đồng, giữa cán bộ làm bảo hiểm với đối tượng trục lợi . Đây
là hành vi rất nguy hại cho công ty bảo hiểm bởi nhân viên công ty hiểu rõ nhất
về công ty, những yếu điểm và biết cách để tiến hành các hoạt động nhằm trục
lợi. Nhân viên hoặc đại lý bảo hiểm thông đồng với khách hàng trục lợi bảo
hiểm. Họ có thể đánh giá mức độ tổn thất cao hơn thực tế hoặc vạch “đường đi
14


nước bước” cho khách hàng lợi dụng kẽ hở về giấy tờ, thủ tục giám định để trục
lợi... Bên cạnh đó, việc các đại lí mải chạy theo hoa hồng, thiên về số lượng hợp
đồng mà mình đạt được đôi khi bỏ qua những yếu tố có nguy cơ dẫn đến trục lợi
hoặc đôi khi có thể đại lí tham gia thực hiện quá trình cùng khách hàng để
TLBH cũng là một trong những yếu tố làm tăng nguy cơ trục lợi, đây không chỉ
là nguy hại mà còn làm chất lượng uy tín của công ty bảo hiểm ngày càng giảm
sút...
- Các doanh nghiệp bảo hiểm cũng chịu sức ép về thời hạn giải quyết bồi
thường dẫn đến không có đủ thời gian và nguồn lực cần thiết để điều tra đầy đủ
về những vụ có dấu hiệu trục lợi hoặc có nghi vấn trước khi quyết định việc trả
tiền bảo hiểm
- Dưới sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, nhất là cuộc cạnh tranh về
thông tin giữa các doanh nghiệp bảo hiểm vô hình chung biến họ thành những

kẻ có quá ít thông tin trao đổi với nhau trên con đường kinh doanh bảo hiểm. Để
rồi cam kết giữ kín thông tin khách hàng đôi khi là kẻ hở lớn cho những kẻ trục
lợi về bảo hiểm trùng, bồi thường bên thứ ba,...chết do mắc bệnh hiểm
nghèo..v..v.
- Công tác tuyển dụng, đào tạo, quản lý đại lý, cán bộ còn bị buông lỏng;
quy trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ; các quy trình nghiệp vụ, quy trình ra quyết
định kinh doanh, quản lý tài chính, hạch toán, kế toán, đầu tư, giải quyết bồi
thường v.v. chưa chặt chẽ và còn có những lỗ hổng có thể bị kẻ xấu lợi dụng.
Đôi khi các vụ phát hiện trục lợi thì các công ty cũng có thể chọn giải
pháp xử lí êm thấm do lo sợ nhiều nguyên nhân như:
+ Sợ khách hàng biết sẽ ảnh hưởng tới giữ chân khách hàng cũng như thu
hút thêm khách hàng mới, chưa kể tiền lệ sẽ có nhiều người học theo để trục
lợi...
15


Có thể là sự cả nể đối với những khách hàng lớn, hoặc như khách hàng
thân quen, khách hàng có vị thế ... Làm cho việc xử phạt vi phạm càng trở nên
lỏng lẻo hơn chưa đủ sức đe doạ với những kẻ xấu khác cũng như làm tỉnh lòng
tham của khách hàng…
+ Xuất phát từ chế tài xử phạt của luật, nghị định còn nhẹ, khiến nhiều
doanh nghiệp bỏ qua yếu tố kiện cáo, mà chỉ quan tâm đến việc ngăn chặn được
trục lợi của bản thân công ty mình...
Để rồi khó có thể khẳng định hành vi trục lợi đó bị ngăn chặn ở 1 công ty
sẽ được nhiều công ty học hỏi kinh nghiệm hay hành vi gian lận đó sẽ được thử
ở công ty khác...
Với những kẻ hở, thiếu chế tài mạnh và được đà thì TLBH ngày càng tăng
về số lượng, tinh vi về thủ đoạn, sắc sảo và móc ngoặc. Bên cạnh đó đạo đức xã
hội ngày càng có xu hướng đi xuống, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức kinh doanh
và trình độ của cán bộ nhiều ngành liên quan: công an, y tế, ... ngày càng khiến

cho kinh doanh bảo hiểm phải đối mặt với thách thức gian lận và TLBH .
Việc ngăn chặn hành vi TLBH không dễ dàng cho mỗi công ty bảo hiểm.
Nó đòi hỏi 1 hành lang pháp lí thông nhất chặt chẽ, cụ thể và hiệu quả, đủ sức
răn đe; sự phối hợp đồng bộ, trung thực với các cơ quan có chức năng liên
quan... Muốn kinh doanh có hiệu quả, muốn cạnh tranh có hiệu quả, có uy tín
trên thị trường, nhất là trong giai đoạn khi chúng ta chính thức vào WTO, nhiều
công ty nước ngoài được vào hoạt động tịa Việt Nam thì đòi hỏi các công ty bảo
hiểm trong nước có những biện pháp quản lí tài chính chặt chẽ hiệu quả và nhất
là ngăn chặn tốt TLBH ...

c. Hậu quả của TLBH
Trục lợi bảo hiểm ngày cảng trở lên phổ biến với mức độ ngày càng tinh vi,
hình thức ngày càng đa dạng. Chính vì thế mà hậu quả của trục lợi bảo hiểm

16


ngày càng trầm trọng và nặng nề, không chỉ đối với các công ty bảo hiểm, đối
với khách hàng mà còn đối với cả xã hội.
 Đối với doanh nghiệp BH
- Thứ nhất, hậu quả có thể tính toán được đó là làm giảm sút lợi nhuận,
giảm hiệu quả kinh doanh của công ty bảo hiểm.
Mục tiêu phấn đấu của hầu hết các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường là
lợi nhuận:
Lợi nhuận = tổng doanh thu – tổng chi phí
Trong đó: Tổng chi phí = chi bồi thường + chi quản lí + chi khác
Trong 1 vụ gian lận, nếu không phát hiện được sẽ làm tăng chi phí bồi
thường, còn nếu phát hiện được thì làm tăng chi phí quản lý bởi chi phí cho một
vụ điều tra trục lợi thường rất lớn. Thậm chí có trường hợp nghi ngờ, công ty tổ
chức điều tra nhưng không đủ cơ sở từ chối bồi thường, như vậy là cả chi bồi

thường và chi quản lý đều tằng. Cả ba trường hợp trên đều làm tăng tổng chi phí
mà ko làm tăng tổng thu do đó làm giảm lợi nhuận của công ty bảo hiểm tức là
giảm hiệu quả kinh doanh của công ty bảo hiểm.
- Thứ hai, hậu quả khó xác định sẽ làm giảm số lượng khách hàng hiện tại
hay việc thu hút hấp dẫn các khách hàng mới.
Xét về bản chất bảo hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do
những người cùng có khả năng gặp rủi ro nào đó đóng góp tạo nên và hoạt động
dựa trên nguyên tắc “số đông bù số ít”. Do vậy, hành vi trục lợi được thực hiện
thì không ai khác chính là các khách hàng trung thực sẽ phải gánh chịu hậu quả
đó là phí bảo hiểm và phí dịch vụ cao hơn. Số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm
phải bỏ ra để đấu tranh chống gian lận bảo hiểm và chi trả các khoản tiền gian
lận sẽ dồn lên vai cộng đồng bảo hiểm dưới hình thức phí bảo hiểm cao hơn.
Gian lận bảo hiểm cũng dẫn đến giá cả hàng hoá và dịch vụ cao hơn bởi vì
17


doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá và dịch vụ chuyển chi phí mua bảo hiểm cao
hơn vào tài sản và hàng hoá họ bán cho khách hang. Vì thế không dại gì mà họ
tiếp tục tham gia bảo hiểm hoặc có ý định tham gia bảo hiểm. Theo đó dần dần
số lượng khách hàng sẽ giảm đi.
Do hành vi trục lợi ngày một tăng nên công ty bảo hiểm phải tăng cường
công tác giám định, điều tra, kiểm tra, thanh tra. Điều này làm tăng thời gian giải
quyết bồi thường, ảnh hưởng quá trình phục hồi tài chính, sản xuất kinh doanh
của khách hàng. Do đó đã làm giảm tính cạnh tranh sản phẩm của công ty trên
thị trường.
- Thứ ba, hành vi trục lợi bảo hiểm còn có ảnh hưởng xấu đến uy tín của
Công ty Bảo Hiểm.
Nhiều hành vi gian lận không thể bị phát hiện đã đẩy chi phí bồi thường lên
cao. Để giảm bớt chi phí, nhà bảo hiểm buộc phải tìm cách hạn chế tiền bồi
thường do đó ảnh hưởng xấu đến chất lượng sản phẩm. Hơn nữa hiệu quả hòa

giải thấp sẽ dẫn đến kéo dài tranh chấp ảnh hưởng xấu đến uy tín của công ty.
Do có nhiều nghi ngờ về trục lợi dẫn đến công tác điều tra, thanh tra chống
gian lận thường bị kéo dài hay bị gián đoạn gây mất nhiều thời gian, ảnh hưởng
đến quy trình kinh doanh của Công ty, đôi khi là cản trở đối với những khách
hàng trung thực. Từ đó sẽ là nguy cơ xấu cho hình ảnh uy tín của doanh nghiệp
trong khách hàng...làm giảm số lượng hợp đồng mới, doanh thu và thị phần
giảm.
- Thứ tư, trục lợi bảo hiểm có thể làm giảm khả năng cung cấp dịch vụ bảo
hiểm.
Các doanh nghiệp bảo hiểm có thể áp đặt các yêu cầu cao hơn khi khai thác
bảo hiểm và thu hẹp phạm vi bảo hiểm để giảm bớt thiệt hại do gian lận bảo

18


hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm thường từ chối bảo hiểm đối với những lĩnh
vực khó chống lại gian lận bảo hiểm.
- Thứ năm, trục lợi bảo hiểm gây những thiệt hại vô hình nhưng để lại hậu
quả vô cùng nặng nề cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Để thực hiện hành vi trục lợi, người gian lận tìm mọi cách mua chuộc đội
ngũ nhân viên bảo hiểm. Vì vậy họ đã làm tha hóa đội ngũ nhân viên, nguồn
nhân lực của công ty
Như vậy, suy giảm lợi nhuận của DNBH là hậu quả có thể thấy ngay của
TLBH, còn xét về dài hạn TLBH ảnh hưởng xấu đến uy tín cũng như làm suy
giảm khả năng và sức mạnh tài chính của DNBH nếu tình trạng TLBH kéo dài
và gia tăng, từ đó, gây mất niềm tin của khách hang. Đó sẽ là những hậu quả rất
lớn mà không DNBH nào muốn.
 Đối với khách hàng
TLBH xâm phạm đến lợi ích, quyền lợi của những khách hàng trung thực
khác. Bởi chính những khách hàng chân chính này sẽ phải chia sẻ một phần

trách nhiệm tài chính của mình (qua việc đóng phí) cho những khách hàng gian
dối nếu các công ty BHNT không phát hiện ra các bằng chứng của sự gian dối
và chấp nhận đền bù. Do vậy những doanh nghiệp mà có nhiều vụ trục lợi bảo
hiểm sẽ có phí bảo hiểm cao hơn những doanh nghiệp kiên quyết phòng chống
trục lợi bảo hiểm.

 Đối với xã hội
- Thứ nhất, khi hành vi trục lợi xảy ra thì nguồn thu ngân sách của Nhà
nước sẽ giảm
 Nguồn thu lớn nhất của ngân sách Nhà nước là nguồn thu từ thuế.
Nộp thuế là quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả mọi cá nhân cơ quan tổ
chức. Khi lợi nhuận của các doanh nghiệp bảo hiểm giảm xuống thì sự
19


đóng góp của các công ty bảo hiểm vào ngân sách sẽ giảm. Vì vậy
việc chi tiêu của chính phủ cũng bị giảm đi một phần, làm lợi ích
chung của xã hội cũng bị mất đi một phần không nhỏ.
 Trong trường hợp trục lợi bảo hiểm diễn ra trong lĩnh vực bảo hiểm xã
hội hay bảo hiểm y tế sẽ làm tăng khoản chi trả của các quỹ bảo hiểm
này. Khi xảy ra thâm hụt quỹ (thu không đủ bù chi) ngân sách nhà
nước buộc phải hỗ trợ bù thiếu làm giảm ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước giảm kéo theo việc đầu tư cho xã hội cũng giảm và
lợi ích chung của xã hội bị mất đi là không nhỏ.
- Thứ hai, tổng phí bảo hiểm thu của các doanh nghiệp giảm do hiện tượng
trục lợi cũng làm mất đi một khoản đầu tư cho nền kinh tế (bất động sản,
chứng khoán…). Sự làm ăn kém hiệu quả sẽ khiến các DNBH khó có thể
tham gia các chương trình từ thiện quốc gia, các nguồn hỗ trợ cho phúc
lợi xã hội vô tình bị giảm...
- Thứ ba, hành vi trục lợi gây ảnh hưởng đến kỷ cương pháp luật, rối loạn

môi trường kinh doanh, gây tác động tiêu cực tới tình hình kinh tế - xã
hội.
 Hành vi gian lận và trục lợi bảo hiểm không chỉ ảnh hưởng tới từng
công ty riêng lẻ mà nó làm suy yếu cả ngành bảo hiểm nói chung. Bởi
đây là những hành vi vi phạm đạo đức và chuẩn mực xã hội, bị xã hôi
lên án, làm cho tính nhân đạo cộng đồng của ngành Bảo hiểm bị suy
thoái, ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh lành mạnh. Trong
khi đó, bảo hiểm là ngành kinh tế có vai trò ổn định kinh tế-xã hội và
thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy, việc gian lận khiến thị trường bảo
hiểm Việt Nam sẽ trở thành một điểm đến có sự dè dặt trong sân chân
chung của kinh tế thế giới, tức gián tiếp ảnh hưởng xấu tới việc thu
hút đầu tư nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
20


 Trục lợi bảo hiểm gây bất công xã hội. Đảng và Nhà nước đang hướng
tới việc xây dựng một nhà nước trong đó “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Nhưng nếu vẫn còn tồn tại
những người thiếu ý thức chấp hành pháp luật, chỉ nghĩ đến lợi ích
riêng của cá nhân mình bằng các hành vi gian dối sẽ tạo ra sự bất
công, những kẻ lừa đảo thì sống trong giàu có, còn những người
nghèo thì vẫn hoàn nghèo, do đó không thể xây dựng được 1 xã hội
thật sự công bằng, văn minh. Hơn nữa, bảo hiểm có vai trò thành lập
nên một quỹ tài chính để giúp đỡ những người gặp rủi ro. Vì vậy, nếu
hành vi gian lận trót lọt thì những kẻ phi pháp lại được lợi. Điều này
gây bất công xã hội.
 Hậu quả to lớn nhất là nguy cơ về đạo đức. Nền kinh tế nước ta đang
phát triển, thị trường bảo hiểm còn non trẻ nên những hành vi gian lận
cũng mới chỉ ở dạng bộc phát, lẻ tẻ. Nhưng nếu không có các biện
pháp ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm khắc thì những hành vi này sẽ

trở thành thói quen xấu nủa người dân, đôi khi dễ rơi vào một làn sóng
phong trào tham gia bảo hiểm với mục đích trục lợi, thậm chí phát
triển thành các hành vi tội phạm có tổ chức, bởi tính chất phát triển và
quy mô tổ chức của những vụ trục lợi sẽ kéo theo sự tha hóa, biến chất
của một loạt đội ngũ nhân viên các ngành bảo hiểm, các ngành công
an, viện kiểm sát, y tế,....từ đó tạo tiền đề cho hành vi tham nhũng
phát triển không chỉ trong ngành Bảo Hiểm mà còn ở cả những ngành
khác trong nền kinh tế. Vê lâu dài sẽ hình thành nên một xã hội thiếu
lành mạnh, thiếu tinh thần lao động và coi thường kỷ cương luật pháp.
Tóm lại, hành vi trục lợi bảo hiểm đã gây ảnh hưởng xấu đến không chỉ
tới hoạt động kinh doanh của công ty bảo hiểm mà còn ảnh hưởng tới đạo đức
xã hội và luật pháp của Nhà nước.

21


1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến trục lợi BHNT
BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm có rất nhiều đặc thù riêng, do liên
quan đến sinh mạng và tuổi thọ của con người cũng như có thời hạn hợp đồng
khá dài, ngày càng đáp ứng được nhiều mục đích của người tham gia bảo hiểm
vì thế mà bên cạnh những yếu tố tích cực nó cũng tiềm ẩn những yếu tố rủi ro và
khe hở dẫn đến sự trục lợi của những kẻ xấu coi bảo hiểm như một nguồn quỹ
phúc lợi...Các yếu tố cơ bản có thể ảnh hưởng đến TLBH trong BHNT như sau:
a. Đặc điểm của sản phẩm BHNT
 BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro
Đây là đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với bảo hiểm phi nhân thọ.
Mỗi người tham gia BHNT sẽ định kì nộp một khoản tiền nhỏ (phí bảo hiểm)
cho công ty bảo hiểm , ngược lại công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một số
tiền lớn (gọi là STBH) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận
từ trước khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra.

STBH được trả khi người được bảo hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định và
được ấn định trong hợp đồng. Hoặc được trả cho thân nhân và gia đình người
được bảo hiểm khi người này không may bị chết sớm ngay cả khi họ mới tiết
kiệm được một khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí bảo hiểm.
Số tiền này giúp những người còn sống trang trải những khoản chi phí cần
thiết như: thuốc men, mai táng, trả nợ....
Đó chính là tính chất tiết kiệm, lại vừa mang tính rủi ro của BHNT. Nội
dung tiết kiệm khi mua BHNT khác với các hình thức tiết kiệm khác ở chỗ, công
ty bảo hiểm đảm bảo trả cho người tham gia bảo hiểm hay người thân của họ
một khoản tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ.
Khi người được bảo hiểm không may gặp rủi ro, trong thời hạn bảo hiểm đã

22


được ấn định, những người thân của họ sẽ nhận được những khoản trợ cấp hay
STBH từ công ty bảo hiểm.
Tuy nhiên, đây cũng là một yếu tố có thể lạm dụng để trục lợi, bởi yếu tố
rủi ro trong BHNT mang tính thời gian dài, thông thường hợp đồng BHNT dài ít
nhất 5 năm, có những hợp đồng trọn đời, khiến cho những yếu tố thay đổi bên
ngoài hợp đồng có lợi cho người tham gia mà công ty chưa kịp bổ sung trong
hợp đồng theo luật định. Bên cạnh đó, với số tiền phí mới đóng, còn rất nhỏ mà
khi gặp rủi ro vẫn được hưởng chi trả hay STBH lớn khiến nhiều kẻ có ý định
xấu tận dụng nhằm thu lợi cá nhân. Tận dụng nét đặc trưng cơ bản này của
BHNT mà nhiều kẻ xấu đã lợi dụng để có thể trục lợi, nhất là yếu tố thời gian,
khác biệt hẳn với bảo hiểm phi nhân thọ thường chỉ là một năm hợp đồng...
 BHNT đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của người
tham gia bảo hiểm.
Mục đích của bảo hiểm phi nhân thọ chủ yếu là đáp ứng nhu cầu khắc
phục hậu quả khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp sự cố thì của BHNT đáp ứng

được nhiều mục đích hơn qua từng hợp đồng. BHNT hưu trí sẽ đáp ứng được
nhu cầu tài chính trong tương lai, giúp họ nhận được một khoản tiền hàng tháng
như lương hưu công chức hay trợ cấp BHXH; hợp đồng BHNT tử vong sẽ giúp
người được bảo hiểm để lại cho người cón sống một số tiền khi họ chẳng may bị
rủi ro, từ số tiền này giúp những người còn sống rất nhiều việc...
Bên cạnh đó hợp đồng BHNT đôi khi còn được sử dụng như vật thế chấp
để người tham gia bảo hiểm có thể vay vốn hay BHNT tín dụng thường được
bán để các đối tượng đi vay mua xe hơi, đồ dùng...v.v.
Như vậy hợp đồng BHNT đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của
con người. Song chính những mục đích ấy có thể trở thành chỗ để nhiều kẻ xấu
lợi dụng. Ví dụ như: một người tham gia bảo hiểm họ sử dụng hợp đồng BHNT
23


của mình để vay vốn, họ vừa được vay vốn để có thể mang đi đầu tư kiếm lợi
nhuận cao hơn lãi phải trả, trong khi đó họ vẫn có thể được hưởng quyền lợi bảo
hiểm nếu xảy ra rủi ro theo hợp đồng...Việc đáp ứng nhiều mục đích sẽ có nguy
dẫn đến gian lận, TLBH cao hơn và khó có thể kiểm soát hết mục đích thực sự
của khách hàng...
 Các loại hợp đồng trong BHNT rất đa dạng và phức tạp
Tính đa dạng và phức tạp của trong hợp đồng thể hiện rất rõ qua các sản
phẩm của BHNT. Mỗi sản phẩm lại có nhiều loại hợp đồng khác nhau về: số
năm hợp đồng, STBH, phí, độ tuổi, .v.v.
Trong mỗi hợp đồng BHNT lại có nhiều bên tham gia: người bảo hiểm,
người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo
hiểm. Do đó, tuỳ vào khả năng, mục đích của khách hàng mà tính đa dạng và
phức tạp của hợp đồng BHNT lại càng rõ rệt hơn, bên cạnh đó lại có kèm điều
khoản bổ sung...Vì thế, nếu xuất phát từ ý định gian lận, TLBH của những kẻ
xấu để tham gia BHNT với mục đích và sự chuẩn bị sẵn thì rõ ràng thật khó có
thể nhận dạng ngay được ý đồ đó...

 Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố
Vế cơ bản phí BHNT phụ thuộc vào những yếu tố:
- Độ tuổi của người được bảo hiểm.
- Tuổi thọ bình quân của con người.
- STBH ,
- Thời hạn tham gia bảo hiểm ,
- Phương thức thanh toán,
24


- Lãi suất đầu tư, lạm phát...v.
- v.v...
Như vậy việc định phí bảo hiểm là vô cùng phức tạp, khi khách hàng có ý
đồ TLBH, sẽ cân nhắc để nộp phí bảo hiểm ít nhất mà lại có thể hưởng quyền lợi
bảo hiểm cao hoặc sử dụng các biện pháp khai báo sai sự thật như: khai tuổi
thấp để có thể đóng phí thấp...

25


×