Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN biện pháp đổi mới cách kiểm tra miệng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn tiếng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.85 KB, 28 trang )

UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI CÁCH KIỂM TRA MIỆNG
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY
MÔN TIẾNG ANH

Người thực hiện: ABCDEF
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT ……
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Anh

Năm học 2019 - 2020


MỤC LỤC
TÓM TẮT SÁNG KIẾN............................................................................................3
1. HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN:............................................................5
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN:................................................................................................7
2.1. Kiểm tra đánh giá trong qúa trình dạy học là gì?............................................7
2.2. Các hình thức kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học...............................9
2.3. Những yêu cầu sư phạm khi đánh giá kết quả học tập của học sinh...............9
2.4. Những nguyên tắc để đánh giá kết quả học tập của học sinh.......................10
2.5. Cơ sở đánh giá kết quả học tập của học sinh................................................11
2.6. Quy trình của việc đánh giá kết quả học tập.................................................11
3. CƠ SỞ THỰC TIỄN............................................................................................12
4.THỰC TRẠNG ....................................................................................................13
4.1 Thuận lợi........................................................................................................13
4.2 Khó khăn........................................................................................................13
5. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN..........................................................14


5.1. Đổi mới khâu chuẩn bị cho kiểm tra miệng..................................................14
5.2. Đổi mới thời gian kiểm tra miệng.................................................................15
5.3. Đổi mới hình thức câu hỏi trong kiểm tra miệng..........................................15
5.4. Đổi mới phương thức nhận xét.....................................................................16
5.5. Đổi mới cách cho điểm và ghi điểm.............................................................17
5.6. Đổi mới cách chọn học sinh kiểm tra miệng.................................................18
5.7. Một số cách kiểm tra miệng cụ thể...............................................................19
5.7.1. Đối với việc kiểm tra từ vựng.................................................................19
5.7.2. Đối với tiết học Reading........................................................................20
5.7.3. Đối với tiết học Speaking.......................................................................20
5.7.4. Đối với tiết học Listening:......................................................................21
5.7.5. Đối với tiết học Writing..........................................................................22
5.7.6. Đối với tiết học ngữ pháp ( Language Focus).......................................22
6. HIỆU QUẢ LỢI ÍCH THU ĐƯỢC DO ÁP DỤNG BIỆN PHÁP.......................23
7. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA BIỆN PHÁP.......................................................24
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..........................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................28

2


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Thực tế việc kiểm tra miệng trong các tiết học Tiếng Anh hiện nay còn nhiều
bất cậphạn chế, phần lớn học sinh rất thụ động, học một cách may móc để đối phó
thậm chí một số em do không có nền tảng nên lười nhác trong việc học bài cũ.
Trước thực tế đó, tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: biện pháp đổi mới
cách kiểm tra miệng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn tiếng anh
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
Thời điểm áp dụng : năm học 2019 - 2020

Đơn vị áp dụng sáng kiến : trường THPT ABCXYZ (cụ thể lớp 10A1…..)
3.Nội dung sáng kiến
Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến
Hình thức kiểm tra đơn giản, dễ thực hiện, có thể áp dụng cho việc kiểm tra
bài cũ hoặc củng cố bài.
Học sinh sẽ bớt đi tâm lý lo sợ, e ngại khi kiểm tra miệng khi phải đứng
trước giáo viên và các bạn và biết tăng cường ý thức tự học.
Hình thức kiểm tra mới giúp giáo viên kiểm tra nhiều nội dung kiến thức mà
không tốn nhiều thời gian.
Giáo viên có thể kiểm tra nhanh trong khoảng thời gian ngắn (5 phút) và linh
hoạt chọn cách lấy điểm sao cho phù hợp để đảm bảo tính công bằng và tạo điều
kiện, cơ hội cho những học sinh chưa làm tốt học lại để có thể làm bài tốt hơn
Khả năng áp dụng của sáng kiến
Việc áp dụng biện pháp sáng kiến không tốn kém về thời gian, tiền bạc đồng
thời cũng không đòi hỏi các phương pháp kĩ thuật, thiết bị hiện đại nên có thể áp
3


dụng rộng rãi ở các khối lớp. Tuy nhiên, để áp dụng những cải tiến này một cách
hiệu quả, đòi hỏi sự chuẩn bị rất chu đáo của giáo viên.
Lợi ích thiết thực của sáng kiến
Qua việc áp dụng sáng kiến tôi thấy thái độ học tập của các em học sinh
mang tính tự giác cao, các em không còn tư tưởng học để đối phó.không khí lớp
học đã sinh động hơn và kết quả học tập của học sinh cũng được cải thiện đáng kể
Thông qua các hình thức đổi mới kiểm tra miệng này giáo viên sẽ phát hiện
được khả năng của học sinh cũng như biết được em nào còn yếu kém để kịp thời
giúp đỡ các em bổ sung kiến thức và kỹ năng
4.Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Sau thời gian áp dụng phương pháp mới này, hầu hết học sinh của tôi có
điểm kiểm tra miệng cao hơn kỳ học trước.không có em bị điểm kém và điểm 0

Những đổi mới mà tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng đã mang lại
những kết quả đáng kể trong việc nâng cao kết quả học tập của học sinh đối với bộ
môn Tiếng Anh, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.
5.Đề xuất kiến nghị
Chương trình sách giáo khoa nên được giảm tải để giáo viên có thời gian hơn
trong việc kiểm tra miệng học sinh
Cán bộ quản lí giáo dục cần thay đổi quan niệm từ tiết học trật tự, nghiêm túc
sang tiết học sôi nổi, có tổ chức.
Hình thức đánh giá và thi cử nên được cải tiến, các đề kiểm tra không nên
100% trắc nghiệm, vì như vậy sẽ không đánh giá được các kỹ năng Speaking,
Writing.. của học sinh. Qua đó hạn chế tính ỷ lại, lười nhác của học sinh trong việc
tích luỹ kiến thức, kỹ năng, từ vựng….

4


1. HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN:
Trong thực tiễn giáo dục trung học phổ thông hiện nay, môn tiếng anh tuy là
môn chính nhưng bị nhiều học sinh coi nhẹ, chỉ xem như môn điều kiện để lên lớp
hoặc để được khen thưởng. Việc hoc sinh không chú trọng, không đầu tư cho việc
học môn tiếng anh có nhiều nguyên nhân, khách quan cũng có, chủ quan không
phải là ít. Môt tronng những nguyên nhân chủ quan là việc kiểm tra đánh giá trong
môn tiếng anh còn nặng nề, đơn điệu, nhàm chán, áp đặt trong đó có hình thức
kiểm tra đánh giá miệng. Kiểm tra đánh giá miệng mà chủ yếu là kiển tra bài cũ
đầu tiết học là một hình thức kiểm tra quan trọng trong quá trình dạy học, nó có tác
dụng kích thích hứng thú học tập của học sinh, tạo cho học sinh niềm say mê, học
bài cũ và chuẩn bị bài mới, chủ động, tích cực trong quá trình học bài trên lớp.
Nhưng thực tế thì ngược lại, nhiều học sinh không hứng thú, ngại, chán, thậm chí
sợ việc bị kiểm tra miệng. Không ít học sinh có điểm miệng rồi tự cho rằng thế là
xong, không phải học bài cũ, chuẩn bị bài mới, chủ động, tích cực xây dựng bài

nữa. Bởi hình thức kiểm tra miệng trong môn tiếng anh từ trước đến giờ ít có sự đổi
mới. Việc đổi mới hình thức kiểm tra miệng trong môn tiếng anh là một yêu cầu
thiết thực, cấp thiết trong quá trình dạy học ở bậc trung học phổ thông
Kiểm tra miệng là một hoạt động quan trọng. Hoạt động đó không chỉ diễn ra
ở thời gian đầu của mỗi tiết học mà còn có thể diễn ra xuyên suốt trong một tiết
học. Nếu giáo viên lơ là không thực hiện tốt việc kiểm tra miệng thì quá trình tiếp
thu kiến thức của học sinh sẽ bị gián đoạn , các em sẽ bị hổng các kiến thức, kỹ
năng cần có trong mỗi tiết học. Điều này sẽ ảnh hưởng đến kết quả của các bài
kiểm tra định kỳ (1 tiết, học kỳ,...) .
Trên thực tế việc kiểm tra miệng trong các tiết học Tiếng Anh hiện nay còn
nhiều bất cập do áp lực của lượng kiến thức , kỹ năng cần phải truyền tải và tiếp thu
trong mỗi tiết dạy nên thời gian dành cho việc kiểm tra miệng hầu như rất ít, thậm
chí có thể bỏ qua. Bên cạnh đó phần lớn học sinh rất thụ động, học một cách may
móc để đối phó thậm chí một số em do không có nền tảng nên lười nhác trong việc
học bài cũ. Trước thực tế đó, tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm “biện pháp

5


đổi mới cách kiểm tra miệng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn tiếng
anh” để giúp các em tích cực chủ động hơn trong học tập
Mục đích và phương pháp nghiên cứu:
Nhằm đổi mới cách đánh giá kết quả học tập của học sinh theo sự chỉ đạo
của Bộ giáo dục và đào tạo. Qua đó giúp học sinh chủ động hơn trong học tập, tích
lũy kiến thức, kỹ năng đồng thời tạo không khí sinh động trong các giờ học.
Phương pháp nghiên cứu: quan sát, kiểm tra thực tế,…
Giới hạn của đề tài:
Đề tài chỉ nghiên cứu việc đổi mới cách kiểm tra miệng trong các tiết dạy
môn Tiếng Anh ở trường THPT ABCDEF
Kế hoạch thực hiện:

Đề tài được thực hiện từ tháng x năm 2019 đến tháng y năm 2020

6


2. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu cấp bách có tính chất đột phá
để nâng cao chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải tiến
hành một cách đồng bộ đổi mới từ nội dung chương trình sách giáo khoa, phương
pháp dạy học cho đến kiểm tra đánh kết quả dạy học. Kiểm tra đánh giá có vai trò
rất to lớn đến việc nâng cao chất lượng đào tạo. Hoạt động dạy và học luôn cần có
những thông tin phản hồi để điều chỉnh kịp thời nhằm tạo ra hiệu quả ở mức cao
nhất thể hiện ở chất lượng học tập của học sinh. Kiểm tra thường xuyên giúp cho
giáo viên điều chỉnh, bổ sung những kiến thức, kỹ năng, thái độ mà môn học đề ra
đồng thời sẽ giúp cho học sinh hình thành được động cơ, thái độ học tập đúng đắn
từ đó tích lũy được kiến thức, kỹ năng cần thiết.
Kết quả của kiểm tra đánh giá là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt
động học và quản lý giáo duc. Nếu kiểm tra đánh giá sai dẫn đến nhận định sai về
chất lượng đào tạo gây tác hại to lớn trong việc sử dụng nguồn nhân lực. Vậy đổi
mới kiểm tra đánh giá trở thành nhu cầu bức thiết của ngành giáo dục và toàn xã
hội ngày nay. Kiểm tra đánh giá đúng thực tế, chính xác và khách quan sẽ giúp
người học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng tạo trong học tập. Chính vì vậy,
để thực hiện một cách hiệu quả quá trình kiểm tra đánh giá, mỗi giáo viên cần phải
hiểu rõ và nắm vững một số kiến thức liên quan đến quá trình kiểm tra đánh giá.
2.1. Kiểm tra đánh giá trong qúa trình dạy học là gì?
Kiểm tra đánh giá được hiểu là sự theo dõi, tác động của người kiểm tra đối
với người học nhằm thu những thông tin cần thiết để đánh giá. "Đánh giá có nghĩa
là xem xét mức độ phù hợp của một tập hợp các thông tin thu được với một tập hợp
các tiêu chí thích hợp của mục tiêu đã xác định nhằm đưa ra quyết định theo một
mục đích nào đó" (J.M.De Ketele)

2.1.1. Kiểm tra

7


Trong Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý định nghĩa kiểm tra là xem xét
thực chất, thực tế. Theo Bửu Kế, kiểm tra là tra xét, xem xét, kiểm tra là soát xét lại
công việc, kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét. Còn theo
Trần Bá Hoành, kiểm tra là cung cấp những dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho
việc đánh giá.
Như vậy, các nhà khoa học và các nhà giáo dục đều cho rằng kiểm tra với
nghĩa là nhằm thu thập số liệu, chứng cứ, xem xét, soát xét lại công việc thực tế để
đánh giá và nhận xét.
2.1.2. Đánh giá
Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả
công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những mục
tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực
trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu qủa công việc.
Đánh giá trong giáo dục, theo Dương Thiệu Tống là quá trình thu thập và xử
lý kịp thời, có hệ thống thông tin về hiện trạng và hiệu quả giáo dục. Căn cứ vào
mục tiêu dạy học, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động trong
giáo dục tiếp theo. Cũng có thể nói rằng đánh giá là quá trình thu thập phân tích và
giải thích thông tin một cách hệ thống nhằm xác định mức độ đạt đến của các mục
tiêu giáo dục về phía học sinh. Đánh giá có thể thực hiện bằng phương pháp định
lượng hay định tính.
Như vậy đánh giá là việc đưa ra những kết luận nhận định, phán xét về trình
độ học sinh. Muốn đánh giá kết quả học tập của học sinh thì việc đầu tiên là phải
kiểm tra, soát xét lại toàn bộ công việc học tập của học sinh, sau đó tiến hành đo
lường để thu thập những thông tin cần thiết, cuối cùng là đưa ra một quyết định. Do
vậy kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh là hai khâu có quan hệ mật

thiết với nhau. Kiểm tra nhằm cung cấp thông tin để đánh giá và đánh giá thông
qua kết quả của kiểm tra. Hai khâu đó hợp thành một quá trình thống nhất là kiểm
tra đánh giá.

8


2.2. Các hình thức kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học
2.2.1. Các hình thức kiểm tra
Trong quá trình dạy học, có bốn hình thức kiểm tra sau đây:
Kiểm tra miệng
Kiểm tra 15 phút
Kiểm tra 45 phút
Kiểm tra cuối học kì
2.2.2. Các hình thức đánh giá
Trong quá trình dạy học, có ba hình thức đánh giá chủ yếu sau đây:
Đánh giá chẩn đoán: Được tiến hành trước khi dạy một chương hay một vấn
đề quan trọng nào đó giúp cho giáo viên nắm được tình hình những kiến thức kiên
quan có trong học sinh, những điểm học sinh nắm vững, những lỗ hổng cần bổ
khuyết... để quyết định cách dạy cho thích hợp.
Đánh giá từng phần: Được tiến hành nhiều lần trong giảng dạy nhằm cung
cấp nhưng thông tin ngược để giáo viên và học sinh kịp thời điều chỉnh cách dạy và
cách học, ghi nhận xét kết quả từng phần để tiếp tục thực hiện chương trình một
cách vững chắc.
Đánh giá tổng kết và đưa ra quyết định: Được tiến hành khi kết thúc môn
học, khóa học bằng những kì thi nhằm đánh giá tổng quát kết quả học tập, đối chiếu
với những mục tiêu đề ra, từ đó quyết định những biện pháp cụ thể để giảng dạy và
giúp đỡ học sinh
2.3. Những yêu cầu sư phạm khi đánh giá kết quả học tập của học sinh
Khi đánh giá cần phải tuân thủ những yêu cầu sau:

Đánh giá phải xuất phát từ mục tiêu dạy học.
Công cụ đánh giá phải đảm bảo mức độ chính xác nhất định.
Đánh giá phải mang tính khách quan, toàn diện, có hệ thống và công khai.
Đánh giá phải đảm bảo tính thuận tiện của việc sử dụng công cụ đánh giá.

9


2.4. Những nguyên tắc để đánh giá kết quả học tập của học sinh
Để đánh giá kết quả học tập cần dựa vào những nguyên tắc sau đây
Đánh giá là quá trình tiến hành, có hệ thống để xác định phạm vi đạt được
của các mục tiêu đề ra. Vậy, phải xác định rõ mục tiêu đánh giá là gì.
Khi đánh giá phải chọn mục tiêu đánh giá rõ ràng, các mục tiêu phải được
biểu hiện dưới dạng những điều có thể quan sát được.
Giáo viên cần phải biết rõ những hạn chế của từng công cụ đánh giá để sử
dụng chúng có hiệu quả.
Khi đánh giá giáo viên phải biết nó là phương tiện để di đến mục đích, chứ
bản thân không phải là mục đích. Mục đích đánh giá là để có nhưng quyết định
đúng đắn, tối ưu nhất cho quá trình dạy học.
Đánh giá bao giờ cũng gắn với việc học tập của học sinh, nghĩa là trước tiên
phải chú ý đến việc học tập của học sinh. Sau đó mới kích thích sự nỗ lực học tập
của học sinh, cuối cùng mới đánh giá bằng điểm số.
Đánh giá bao giờ cũng đi kèm theo nhận xét để học sinh nhận biết những sai
sót của mình về kiến thức kỹ năng, phương pháp để học sinh nghiên cứu, trao đổi
thêm kiến thức.
Qua những lỗi mắc phải của học sinh, giáo viên cần rút kinh nghiệm để phát
hiện ra những sai sót trong quá trình dạy và đánh giá của mình để thay đổi cách dạy
sao cho phù hợp với học sinh.
Trong đánh giá nên sử dụng nhiều phương pháp và hình thức khác nhau
nhằm tăng độ tin cậy và chính xác.

Lôi cuốn và khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình đánh giá.
Giáo viên phải thông báo rõ các loại hình câu hỏi để kiểm tra đánh giá giúp
học sinh định hướng khi trả lời.
Phải dựa trên những cơ sở của phương phá dạy học mà xem xét kết quả của
một câu trả lời, của một bài kiểm tra, kết hợp với chức năng chẩn đoán hoặc quyết
định về mặt sư phạm.

10


Trong các câu hỏi xác định về mặt định lượng, giáo viên thông qua các câu
hỏi yêu cầu học sinh giải thích bằng lời để xác định rõ nhận thức của học sinh.
Phương pháp và cách thức tiến hành kiểm tra đánh giá phải diễn ra trong
hoàn cảnh thoải mái, học sinh cảm thấy tự nguyện, không lo lắng hay sợ sệt.
Không nên đặt những câu hỏi mà bản thân giáo viên không thể trả lời một
cách chắc chắn được.
2.5. Cơ sở đánh giá kết quả học tập của học sinh
Để đánh giá kết quả học tập của học sinh cần dựa vào những cơ sở sau đây:
Mục tiêu môn học
Mục đích học tập
Mối quan hệ giữa mục tiêu của môn học, mục đích học tập và đánh giá kết
quả học tập.
Giữa mục tiêu của môn học, mục đích học tập và đánh giá kết quả học tập có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu mục tiêu của môn học và mục đích học tập
được xác định đúng đắn thì chúng hỗ trợ cho nhau trong việc đánh giá, đạt được
yêu cầu đề ra của công việc đánh giá kết quả học tập của học sinh. Mục tiêu của
môn học và mục đích học tập là cơ sở cho việc xác định nội dung chương trình,
phương pháp và quy trình dạy học và học tập. Đồng thời nó cung là cơ sở để chọn
phương pháp và quy trình đánh giá kết quả học tập của học sinh. Đánh giá kết quả
học tập dựa trên tiêu chí của mục tiêu dạy học sẽ nhận được thông tin phản hồi

chính xác nhằm bổ sung, hoàn thiện quá trình giáo dục.
2.6. Quy trình của việc đánh giá kết quả học tập
Căn cứ vào mục tiêu dạy học và mục đích học tập để xác định mục tiêu đánh
giá;
Lượng hóa các mục tiêu dạy học để đặt ra các mức độ cần đạt về kiến thức,
kỹ năng, thái độ... nhằm xác định nội dung và các tiêu chí đánh giá;

11


Lựa chọn phương pháp đánh giá phù hợp với mục tiêu, nội dung đã đề ra
trên cơ sở các đặc điểm của đối tượng được đo lượng, thẩm định và trên cơ sở hoàn
cảnh xã hội;
Soạn thảo công cụ: Viết câu hỏi, đặt bài toán dựa trên mục tiêu đề ra và nội
dung cần đánh giá;
Sắp xếp câu hỏi, bài toán tù dễ đến khó, chú ý đến tính tương đương của các
đề (nếu có nhiều đề) và duyệt lại đáp án;
Tiến hành đo lường;
Phân tích kết quả, đánh giá độ tin cậy và độ giá trị của bài thi;
Điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện công cụ đánh giá bài thi.Đánh giá trong
giáo dục là một vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn vì nó mang tính tổng hợp
nhiều yếu tố. Vì vậy để đánh giá chính xác một học sinh, một lớp, hay một khóa
học, điều đàu tiện người giáo viên phải làm là xây dựng quy trình, lựa chọn một
phương pháp cũng như thu thập các thông tin cần thiết cho việc đánh giá. Như vậy,
quy trình đánh giá có thể bao gồm bốn bước: đo, lượng giá, đánh giá và ra quyết
định.
3. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Ý thức tự giác học tập của nhiều học sinh chưa cao,các em thường dùng sách
“Học tốt Tiếng Anh” để đối phó với giáo viên
Trong các đề thi kiểm tra hiện nay chỉ tập trung vào kiểm tra ngữ pháp và kỹ

năng đọc hiểu, lại bằng hình thức trắc nghiệm 100% nên nhiều học sinh đã lơ là
trong việc học bài cũ và thực hành các kỹ năng
Việc kiểm tra bài cũ truyền thống thường là gọi 1 hoặc 2 học sinh lên bảng
trả lời câu hỏi. Việc này vừa tốn nhiều thời gian, lại gây tâm lý căng thẳng cho học
sinh hơn nữa lại không thể kiểm tra được nhiều em cùng một lúc. Vì vậy không thể
đánh giá được khả năng của học sinh

12


4.THỰC TRẠNG .
Với những hiểu biết cụ thể về cơ sở lí luận của quá trình kiểm tra đánh giá,
tôi đã tích cực quan sát và tìm hiểu từ cả giáo viên và học sinh ở trường tôi và cả
những trường lân cận để nhận thức rõ về thực trạng của quá trình kiểm tra đánh giá
hiện nay ở các trường trung học phổ thông.
4.1 Thuận lợi
Môn Tiếng Anh là một trong những bộ môn được sự quan tâm của Ban giám
hiệu nhà trường.
Được sự lãnh chỉ đạo sâu sát của chi bộ, của Ban giám hiệu.
Đội ngũ cán bộ giáo viên môn Tiếng Anh năng nổ, nhiệt tình trong quá trình
giảng dạy.
4.2 Khó khăn
Một bộ phận học sinh còn thiếu ý thức trong học tập, chưa ham thích đối với
môn Tiếng Anh
Chất lượng của bộ môn Tiếng Anh hàng năm vẫn còn thấp. Nhất là tỉ lệ thi
tốt nghiệp.
Đội ngũ giáo viên môn Tiếng Anh tích cực, chủ động, chịu khó trong giảng
dạy nhưng chưa tìm ra được giải pháp thích hợp, hữu hiệu trong việc giúp học sinh
yêu thích môn Tiếng Anh để nâng cao chất lượng bộ môn. Một số giáo viên thì vẫn
thực hiện kiểm tra miệng theo cách truyền thống, thường là gọi 1 hoặc 2 học sinh

lên bảng trả lời câu hỏi. Việc này vừa tốn nhiều thời gian, lại gây tâm lý căng thẳng
cho học sinh hơn nữa lại không thể kiểm tra được nhiều em cùng một lúc. Vì vậy
không thể đánh giá được khả năng của học sinh.
Nhà trường cũng rất quan tâm tuy nhiên cơ sở vật chất, trang thiết bị còn hạn
chế.
Từ việc nhận thức rõ thực trạng trên đây, tôi đã dành thời gian tìm hiểu,
nghiên cứu, trăn trở tìm ra những biện pháp mới trong khâu kiểm tra miệng tại các
tiết dạy Tiếng Anh, tạo ra những thay đổi đáng kể trong quá trình đánh giá học sinh,
13


thúc đẩy quá trình dạy học bộ môn Tiếng Anh theo hướng tích cực, từ đó nâng cao
chất lượng giáo dục ở trường tôi nói chung.
5. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
* Điểm mới, điểm khác biệt của giải pháp so với các giải pháp cũ:
Đối với tập thể lớp đông học sinh , một số giáo viên còn gặp khó khăn để
làm sao vừa tổ chức các hoạt động kiểm tra miệng vừa có thể đảm bảo thời lượng
và chất lượng tiết học. Ứng dụng các biện pháp này có những điểm mới như sau:
Hình thức kiểm tra đơn giản, dễ thực hiện, có thể áp dụng cho việc kiểm tra
bài cũ hoặc củng cố bài.
Học sinh sẽ bớt đi tâm lý lo sợ, e ngại khi kiểm tra miệng khi phải đứng
trước giáo viên và các bạn và biết tăng cường ý thức tự học.
Hình thức kiểm tra mới giúp giáo viên kiểm tra nhiều nội dung kiến thức mà
không tốn nhiều thời gian. Kết quả kiểm tra được lưu và đánh giá theo dạng
Student Portfolio (hồ sơ lưu) giúp giáo viên có thể nhìn thấy quá trình tiến bộ và
mức độ chuyên cần của học sinh cũng như dễ dàng thông báo kết quả học tập từng
lúc của các em với GVCN hoặc phụ huynh học sinh để có được sự phối hợp và hỗ
trợ kịp thời.
Giáo viên có thể kiểm tra nhanh trong khoảng thời gian ngắn (5 phút) và linh
hoạt chọn cách lấy điểm sao cho phù hợp để đảm bảo tính công bằng và tạo điều

kiện, cơ hội cho những học sinh chưa làm tốt học lại để có thể làm bài tốt hơn.
Để kiểm tra miệng đạt được hiệu quả tối đa, tôi đã tổ chức thực hiện những
giải pháp cụ thể sau đây:
5.1. Đổi mới khâu chuẩn bị cho kiểm tra miệng.
Công việc chuẩn bị trước hết là phải xác đinh thật chính xác cần kiểm tra
những gì . Giáo viên cần xác định được mức độ tối thiểu kiến thức và kỹ năng mà
học sinh đã thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt ra cho học sinh phải
chính xác , rõ để học sinh không hiểu thành hai nghĩa khác nhau dẫn đến việc trả
lời lạc đề

14


Giáo viên phải thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo khoa hay ra
các bài tập tương tự để tránh việc các em học nhằm đối phó với giáo viên. Tạo điều
kiện thuận lợi để học sinh có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy đủ nhất những hiểu
biết của các em
Câu hỏi kiểm tra chuẩn bị cho học sinh, tôi có trình bày trong giáo án rồi đọc
cho học sinh hoặc tôi làm những hand-out nhỏ, rồi khi kiểm tra tôi phát cho học
sinh tự đọc.
Ngoài cách kiểm tra cá nhân, giáo viên cũng có thể áp dụng các biện pháp
khác trong suốt quá trình giảng dạy, cho các em làm trên giấy, sau đó đổi và sửa bài
cho nhau. Cách này mang lại hiệu quả ở chỗ tất cả các em đều tập trung, đặc biệt
qua đó giáo viên có thể đánh giá mặt bằng chung của kết quả giảng dạy khi nhìn
vào kết quả của các em
5.2. Đổi mới thời gian kiểm tra miệng.
Nếu như trước đây, tôi chỉ kiểm tra miệng vào đầu mỗi tiết học, thì trong
năm học 2019 – 2020 tôi đã mạnh dạn áp dụng kiểm tra miệng bất cứ thời gian nào
trong tiết học.
Ví dụ: Khi dạy phần " Language Focus" - Unit 1. English 10, sau khi kết

thúc phần " Grammar", tôi đưa ra câu hỏi " Where are adverbs of frequency put in
the sentence?” để kiểm tra miệng học sinh.
5.3. Đổi mới hình thức câu hỏi trong kiểm tra miệng.
Câu hỏi đưa ra để kiểm tra miệng không nên chỉ dùng mình hình thức tự
luận, mà nên áp dụng cả hình thức trắc nghiệm. Tôi đã kết hợp linh hoạt 2 hình
thức câu hỏi này trong quá trình kiểm tra.
Loại câu hỏi tự luận tôi thường dành cho những nội dung kiến thức ngắn,
hoặc để kiểm tra cấu trúc câu và cấu trúc ngữ pháp.
Loại câu hỏi trắc nghiệm tôi thường dùng để kiểm tra những nội dung kiến
thức dài, yêu cầu sự ghi nhớ nhiều và những nội dung kiến thức dễ gây nhầm lẫn
cho học sinh.

15


Câu hỏi kiểm tra miệng nên kiểm tra nhiều kĩ năng, không nên tập trung vào
bất cứ một kĩ năng nào. Có thể là giáo viên đọc câu hỏi rồi yêu cầu học sinh trả lời,
học sinh vừa thực hiện kĩ năng nghe và kĩ năng nói khi trả lời. Hoặc giáo viên
chuẩn bị hand-out ở nhà, yêu cầu học sinh đọc hiểu rồi trả lời, lúc này học sinh vừa
luyện kĩ năng đọc hiểu, vừa thực hiện kĩ năng nói. Hoặc yêu cầu học sinh viết câu
trả lời lên bảng sau khi nghe câu hỏi, lúc này học sinh vừa luyện nghe, vừa luyện
viết.
(Chèn ảnh học sinh đứng trên bảng đọc câu hỏi trắc nghiệm )
5.4. Đổi mới phương thức nhận xét.
- Người thực hiện nhận xét:
Trước đây, tôi thường là người thực hiện đa số nhận xét, nhưng năm học này,
tôi đã mạnh dạn khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình đánh giá. Tôi chỉ
thực hiện vai trò nhận xét đánh giá cho điểm cuối cùng hoặc trong những trường
hợp khó quyết định. Sau mỗi câu trả lời hoặc bài tập mà học sinh được gọi kiểm tra
miệng đã đưa ra, tôi không nhận xét, mà thường khích lệ, dành phần nhận xét đó

cho những học sinh khác. Từ đó vừa đánh giá được học sinh trực tiếp trả lời, vừa
đánh giá được sự chú ý và kiến thức của những học sinh còn lại. Và tôi cho điểm cả
những học sinh trực tiếp trả lời hoặc làm bài, cả những học sinh nhận xét. Đôi khi,
tôi yêu cầu chính những học sinh vừa trr lời nhận xét, đánh giá câu trả lời của mình.
Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều
học sinh : trong lúc gọi một số học sinh lên bảng thì giáo viên ra cho các học sinh ở
dưới lớp câu hỏi khác sau đó sẽ thu vở nháp của một số em để chấm.
- Ngôn ngữ và thái độ nhận xét:
Sau khi học sinh đưa ra câu trả lời, giáo viên phải đưa ra nhận xét và cho
điểm. Nhận xét và điểm số của giáo viên giúp học sinh biết mức độ đúng sai của
câu trả lời, từ đó nhận thức rõ lượng kiến thức mà mình đã nắm được. Hơn thế
nữa, những lời nhận xét của giáo viên góp phần tạo động lực học tập cho học sinh,
vì vậy, sau mỗi câu trả lời (dù đúng hoàn toàn, đúng một phần hoặc không đúng) tôi

16


vẫn tìm những lời nhận xét mang tính khích lệ học sinh để đưa ra nhận xét cuối
cùng cho học sinh.
Thái độ và cách đối xử của giáo viên với học sinh có ý nghĩa to lớn trong khi
kiểm tra miệng. Giáo viên cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt động
của học sinh và trên cơ sở đó rút ra kết luận về tình trạng kiến thức của học sinh.
Sự hiểu biết của giáo viên về cá tính học sinh, sự tế nhị và nhạy cảm sư phạm trong
nhiều trường hợp là những yếu tố cơ bản giúp thấy rõ thực chất trình độ kiến thức
và kỹ năng của học sinh được kiểm tra
Trong quá trình học sinh đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu không
có lí do gì cần thiết giáo viên cũng không nên ngắt lời của học sinh. Cùng là một
sai sót nhưng giáo viên phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào thì nên đợi
học sinh trả lời xong
(Chèn ảnh học sinh đang đứng nhận xét bài bạn khác)

5.5. Đổi mới cách cho điểm và ghi điểm.
Tôi chuẩn bị cho mỗi lớp mình dạy một sổ điểm miệng riêng. Tôi chia sổ
thành 3 cột: D1, D2 và D
- Cột D1 dùng để ghi điểm cho học sinh trực tiếp lên bảng để trả lời câu hỏi hoặc
làm bài tập.
- Cột D2 dùng để ghi điểm cho học sinh ngồi dưới lớp để trả lời câu hỏi, nhận xét
hoặc làm bài tập.
- Cột D ghi điểm trung bình cộng của cột D1 và cột D2.
=> Điểm miệng chính thức của học sinh được ghi vào sổ điểm cá nhân do Bộ Giáo
Dục ban hành là điểm trung bình cộng của D1 và D2.
Ví dụ: Sổ điểm miệng riêng của lớp 10 A1 (Học kỳ 1 - năm học: 2019 2020)

17


Số
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
…..

Họ và tên học sinh

Nguyễn Thị A
Nguyễn Văn B
Nguyễn Thị C
Lê Ngọc A
Lê Thị B
Nguyễn Văn C
Lê Ngọc D

D1

D2

D

10
8
10
7
7
9
10

10
10
10
9
7
5
8


10
9
10
8
7
7
9

5.6. Đổi mới cách chọn học sinh kiểm tra miệng.
Trước đây tôi thường lựa chọn học sinh để kiểm tra miệng bằng cách gọi mỗi
tiết học một vài học sinh lần lượt theo danh sách lớp, vì thế có những học sinh
không học bài cũ vì các em biết trước là chưa đến lượ mình, có những học sinh mặc
dù không hiểu bài nhưng vẫn học thuộc lòng theo vở ghi vì thế điểm lại rất cao.
Điều này dẫn đến sự mất công bằng trong đánh giá kết quả học tập của các em và
tính ỷ lại, thiếu tự giác học tập, kết quả học tập thấp.
Trong năm học 2019-2020, tôi đã thay đổi cách lựa chọn học sinh tham gia
kiểm tra miệng với nhiều hình thức mới như tôi chuẩn bị một hộp gồm các mẫu
giấy chứa tên của tất cả các học sinh được gấp lại, khi nào kiểm tra miệng tôi sẽ
chọn hoặc nhờ một học sinh chọn các mẫu giấy bất kì, học sinh nào có tên trong
mẫu giấy sẽ trả lời câu hỏi kiểm tra miệng. Ngoài ra tôi còn sử dụng phầm mềm
,dụng cụ dạy học như chiếc nón kỳ diệu cho học sinh quay dừng lại đến bạn nào thì
bạn đó lên bảng kiểm tra miệng
Việc lựa chọn học sinh tham gia kiểm tra miệng không theo quy luật này đã
phát huy được tính tích cực, chủ động ở tất cả các học sinh, không còn tình trạng

18


học đối phó, không khí lớp học sôi động, không có học sinh nào là không chuẩn bị
bài cũ.

(Chèn ảnh bốc thăm mẩu giấy để chọn hs lên bảng)
5.7. Một số cách kiểm tra miệng cụ thể.
Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kỹ
năng mà giáo viên có thể áp dụng các cách kiểm tra miệng như sau:
5.7.1. Đối với việc kiểm tra từ vựng.
Cách 1: Gọi một lượt 4 học sinh lên bảng. Giáo viên đưa ra câu hỏi chung
cho tất cả, học sinh nào trả lời được trước thì giáo viên cho phép. Các học sinh còn
lại sẽ trả lời các câu hỏi phụ hoặc bổ sung cho bạn trả lời trước
Ví dụ: Kiểm tra từ vựng của tiết Reading Unit 10- English 10
Yêu cầu mà GV đưa ra: “ Write a word in English that means : ô nhiễm”
HS 1 : đưa từ (polluted)
HS 2 : xác định từ loại (adjective)
HS 3 : đưa ra từ đồng nghĩa (contaminated)
Hs 4: đưa ra từ trái nghĩa ( clean)
Với cách này sẽ giúp học sinh sẽ bớt đi e ngại khi kiểm tra miệng và có được
nhiều sự lựa chọn hơn
Cách 2: Gọi 4 học sinh lên bảng, mỗi học sinh mang theo 1 tờ giấy có đánh
số thứ tự từ 1 đến 10, những học sinh trong lớp còn lại sẽ dùng vở nháp để ghi các
từ do giáo viên yêu cầu
GV đọc các từ lần lượt từ 1 đến 20 bằng tiếng Việt và yêu cầu học sinh ghi
các từ đó tương ứng bằng tiếng Anh
Sau đó thu bài của 4 em này để chấm và chọ học sinh chấm chéo điểm theo dãy
bàn của các em bên dưới. Mỗi từ đúng tương ứng với 1 điểm. Cũng bằng cách này
GV cũng có thể kiểm tra phần Pronunciation của học sinh bằng cách phát các
handouts có một số từ và yêu cầu học sinh chọn từ có phần gạch chân đọc khác với
các từ còn lại hoặc chọn từ có trọng âm khác với các từ còn lại.

19



5.7.2. Đối với tiết học Reading
Ngay trong các hoạt động While- Reading , giáo viên cũng có thể kiểm tra để lấy
điểm miệng.
Ví dụ 1: Khi dạy phần "Reading" ( Unit 1 - English 10)
Tôi sử dụng ngay phần "task 1" để kiểm tra lấy điểm miệng. Vì hoạt động này
không khó nên tôi đã chọn những học sinh có sức học trung bình để kiểm tra.
Ví dụ 2: Reading Unit 3 – English 10: T- F statements
Tôi phát "hand-outs" cho học sinh, yêu cầu các em đọc kĩ bài đọc và các câu đã
đưa ra để xác định xem những câu đư ra là đúng hay sai so với nội dung bài đọc.
1. Marie went to school in Warsaw
2. Her dream was to become a private tutor
3. She married Pierre Curie in 1894
4. She was the first woman professor at the Sorbonne
Cách thực hiện : Sau khi phát handouts, giáo viên yêu cầu học sinh làm theo cá
nhân, đọc bài text rồi sau đó làm các bài tập này trong khoảng 10 phút. Trong
khoảng thời gian này giáo viên đi vòng quanh lớp để hỗ trợ cho các em và quan sát
không cho các em nhìn nhau. Sau khoảng thời gian qui định, giáo viên thu bài của
một số em, sau đó yêu cầu cả lớp trả lời và chấm điểm ngay tại lớp. Và cột điểm
này sẽ cho vào cột D2.
5.7.3. Đối với tiết học Speaking
Đây là một kỹ năng rất quan trọng, nếu thực hiện tốt thì việc kiểm tra miệng học
sinh kỹ năng này sẽ có tác dụng rất lớn đối việc khuyến khích các em học môn
Tiếng Anh. Tuy nhiên tùy theo trình độ của các em mà giáo viên nên có những yêu
cầu phù hợp nhằm khuyến khích và động viên các em thực hành tiếng .
Trong giờ Speaking, tùy theo các dạng bài tập mà sẽ yêu cầu các em thực hành
theo cặp, nhóm hoặc cá nhân. Để động viên, khuyến khích các em tham gia, giáo
viên chỉ nên cho những dạng bài tập phù hợp với trình độ các em và cho điểm thực
hành ngay trên lớp.

20



Sau khi hướng dẫn, gợi ý và làm mẫu với một số học sinh khá giỏi trong lớp,
giáo viên yêu cầu học sinh thực hành. Trong thời gian các em đang thực hành, giáo
viên có thể đi quanh để giúp đỡ các em nếu thấy cần thiết. Sau đó giáo viên gọi một
số cặp đứng lên thực hành, giáo viên đánh giá, nhận xét và cho điểm học sinh.
Ví dụ: Task 2- English 10- Unit 14: The World Cup
Works in pair. Ask and answer questions about the World Cup.
1. Where and when was the......World Cup held?
2. Which team played in the final match?
3. Which team became the champion?
4. What was the score of the match?
Sau khi hướng dẫn, gợi ý và làm mẫu với một học sinh khá trong lớp, tôi yêu
cầu học sinh thực hành theo cặp, một em hỏi và một em trả lời. Trong thời gian các
em đang thực hành, tôi có thể đi quanh để giúp đỡ các em nếu thấy cần thiết. Sau
khoảng 8- 10 phút tôi gọi một số cặp đứng lên thực hành, sau đó nhận xét và cho
điểm
5.7.4. Đối với tiết học Listening:
Đối với tiết học Listening, việc kiểm tra miệng tương đối khó thực hiện hơn vì
thông thường nội dung bài nghe dài, các em học sinh phải tập trung nghe và làm
các bài tập trong sách giáo khoa, hơn nữa vốn từ của các em cũng còn hạn chế. Vì
thế, giáo viên có thể kiểm tra miệng các em thông qua hình thức vấn đáp để vừa
kiểm tra được kỹ năng nghe, nói vừa kiểm tra được kiến thức mà các em học được
từ bài học
Việc kiểm tra này được thực hiện như sau:
Cách thực hiện: Gọi học sinh để trả lời một câu hỏi mà các em đã được học và
củng cố rất kỹ trong tiết trước (5 điểm), câu thứ hai em chọn một bạn ( đang ngồi
dưới lớp) hỏi em một câu trong bài rồi trả lời (2 điểm) , Câu thứ 3 do chính em học
sinh này hỏi một bạn khác ( đang ngồi dưới lớp) (3 điểm). Số điểm mà em học sinh


21


này đạt được sẽ được ghi vào cột D1, Số điểm mà 2 học sinh khác do đặt câu hỏi
đúng hoặc trả lời đúng sẽ được ghi vào cột D2.
Ví dụ: Kiểm tra miệng tiết Listening Unit 1- English 10.
Các câu hỏi được dùng để kiểm tra miệng( đã học trong tiết trước)
1. What does Mr.Lam do?
2. Who is Mr. Lam’s first passenger?
3. Where does he have lunch?
4. Where does he take a rest?
Cách kiểm tra này đã phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh, tạo điều
kiện để kích thích tư duy, tính năng động về mọi hoạt động ở trên lớp. Tuy nhiên
giáo viên phải linh hoạt gợi ý cho học sinh đặt câu hỏi cho phù hợp với nội dung
cần kiểm tra, để không bị lạc đề và đỡ tốn thời gian vào bài mới.
5.7.5. Đối với tiết học Writing.
Kỹ năng này ít được áp dụng vào các bài kiểm tra thường xuyên ở lớp vì
chiếm thời gian lớn và không phù hợp với kiểu đề trắc nghiệm .Vì vậy để giúp các
em tích cực hơn trong việc học kỹ năng Writing, giáo viên có thể thiết kế lại một số
nội dung của bài viết để tránh tình trạng học sinh sử dụng sách tham khảo để đối
phó hoặc đưa ra các dạng bài tập phù hợp hơn như sentence building, sentence
transformation .... để các em làm rồi sau đó giáo viên sửa và cho điểm một số em,
hoặc cho điểm theo nhóm.
5.7.6. Đối với tiết học ngữ pháp ( Language Focus).
Tôi thường sử dụng một số bài tập trắc nghiệm trong phần production và tự
thiết kế lại một số bài tập mới tương tự bài tập trong sách giáo khoa sau đó gọi học
sinh lên bảng làm để lấy điểm hoặc thu bài của một số em để chấm
Ví dụ : Ở Unit 16 - English 10, trong phần "Production", tôi chuẩn bị "handouts" ở nhà, đưa vào bài tập trắc nghiệm để kiểm tra mức độ độ nắm bắt kiến thức
của học sinh và lấy điểm miệng.


22


Exercise 1: Choose the best option
1. He is ……….than his brother
a. tall

b. more tall

c. taller

d. taller than

2. Lan is as............as Mai
a. careful

b. carefully

c. more careful d. careful than

3. This book is………than that one.
a. gooder

b. best

c. better

d. more good

4. Mai is …………….in her class.

a. more hard-working

b. most hard-working

c. the more hard-working

d. the most hard-working

6. HIỆU QUẢ LỢI ÍCH THU ĐƯỢC DO ÁP DỤNG BIỆN PHÁP.
Để đánh giá hiệu quả của việc áp dụng đề tài này, tôi đã so sánh và thống kê
kết quả điểm kiểm tra miệng của các lớp 10A1, 10A2,10A3 trong năm học 2019 –
2020 như sau:
Trước khi áp dụng đề tài:
Số liệu thống kê điểm kiểm tra miệng học kỳ I năm học 2019-2020
Lớp
10A1
10A2
10A3

Tổng

số 9

học sinh
45
46
48

-10 7-8


điểm
5
6
5

điểm
10
12
14

5-6

3-4

0-2

điểm
21
19
17

điểm
6
7
9

điểm
3
2
3


Sau khi áp dụng đề tài:
Số liệu thống kê điểm kiểm tra miệng học kỳ II năm học 2019 - 2020
Lớp
10A1

Tổng
học sinh
45

số 9

-10 7-8

điểm
9

điểm
21

5-6

3-4

0-2

điểm
13

điểm

2

điểm

23


10A2
10A3

46
48

11
9

20
19

13
12

3
8

Qua quá trình áp dụng đề tài “biện pháp đổi mới cách kiểm tra miệng nhằm nâng
cao chất lượng giảng dạy môn tiếng anh” vào thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy học
sinh tự tin, tích cực và hứng thú hơn trong việc sử dụng kiến thức ngôn ngữ trên
lớp. Tôi nhận thấy có những kết quả như sau:
Không khí lớp học sinh động hơn, thái độ học tập của các em mang tính tự

giác hơn, các em không còn tư tưởng học chỉ để đối phó. Hơn nữa, kết quả học tập
của học sinh cũng được cải thiện đáng kể.
Giáo viên có động lực và nhiệt tình, thoải mái hơn trong các giờ dạy. Thông
qua các hình thức kiểm tra miệng thường xuyên như thế này, giáo viên sẽ phát hiện
được khả năng của học sinh cũng như biết được em nào còn yếu kém để kịp thời
giúp đỡ các em bổ sung kiến thức và kỹ năng cần thiết.
Học sinh tự giác học tập tùy vào khả năng của bản thân, đối với học sinh trung
bình, yếu kém thì các hoạt động này sẽ giúp các em giảm đi trạng thái căng thẳng,
âu lo và hứng thú hơn khi bước vào tiết học, các em có thể phát triển vốn từ vựng
cũng như phát huy tính tích cực sáng tạo trong giao tiếp, trong học tập, phát triển
tốt hơn các kỹ năng nghe, nói, các em trở nên nhanh nhẹn và tự tin hơn.
Ngoài ra, giáo viên có thể đánh giá khá chính xác khả năng của học sinh để có
bước tự điều chỉnh phương pháp dạy học của mình cho phù hợp với trình độ hiểu
biết, nhận thức của học sinh, tạo cho học sinh thói quen tự học tự ôn thì các em sẽ
nhớ kiến thức tốt hơn.
7. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA BIỆN PHÁP
Các hình thức kiểm tra thường xuyên, đặc biệt kiểm tra miệng nêu trên đều có
thể ứng dụng vào phần kiểm tra từ vựng, ngữ pháp, phát âm hoặc cấu trúc, các
mảng kiến thức khác nhau, đặc biệt là các bài ôn tập của các khối 10, 11 và 12.
Qua thực tế giảng dạy của lớp mình và tùy thuộc vào trình độ học sinh, giáo viên

24


có thể sử dụng linh hoạt các hoạt động này để áp dụng cho các đối tượng học sinh
khác nhau của tất cả các khối lớp

25



×