Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

bài tập các biện pháp ngăn chăn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.64 KB, 8 trang )

Bài tập: Hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự.
Theo cách hiểu chung nhất, biện pháp ngăn chặn là một trong các biện pháp
cưỡng chế TTHS được pháp luật TTHS quy định, do người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng quyết định áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang
hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của
họ, không để họ tiếp tục phạm tội mới hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử,
hoặc nhằm bảo đảm việc thi hành án.
Điều 109. BLHS quy định về Các biện pháp ngăn chặn như sau:
1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc
tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội
hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm
đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
2. Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm
giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Như vậy các biện pháp ngăn chặn bao gồm:
-

Giữ trong trường hợp khẩn cấp,
bắt người phạm tội quả tang,
bắt người đang bị truy nã,
bắt bị can, bị cáo để tạm giam,
bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Tạm giữ
Tạm giam
Bảo lĩnh
Đăt tiền để bảo đảm
Cấm đi khỏi nơi cư trú


Tạm hoãn xuất cảnh
* Hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn:
So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã quy định chặt chẽ hơn căn
cứ và điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đề cao hơn trách nhiệm của
các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhất là


trách nhiệm của Viện kiểm sát, qua đó bảo đảm thực hiện tốt hơn những nguyên
tắc của tố tụng hình sự, bảo đảm quyền con người, quyền công dân của những
người bị áp dụng biện pháp ngăn chăn.

Tuy nhiên, nghiên cứu tổng thể các quy định của BLTTHS và qua thực tiễn
áp dụng pháp luật cho thấy, một số quy định về các biện pháp ngăn chặn của
BLTTHS còn chưa phù hợp với thực tiễn, chưa tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc
của tố tụng hình sự, trong đó có nguyên tắc Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm
về thân thể của công dân và gây khó khăn trong việc giải quyết các vụ án vụ án
hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trước tình hình đó, nghiên cứu các
quy định của BLTTHS nói chung, các quy định về về các biện pháp ngăn chặn
nói riêng để kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, bảo đảm thực hiện tốt hơn
các nguyên tắc tố tụng hình sự, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ
quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được kịp thời, chính xác là yêu cầu bức
thiết.
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 đã xác định một trong những nhiệm vụ của cải cách tư pháp là
“Xác định rõ căn cứ để tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối
với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định
việc áp dụng biện pháp tạm giam”.
Trước những đòi hỏi của thực tế và để thực hiện nhiệm vụ trên, chúng ta phải
rà soát lại các quy định của BLTTHS hiện hành, xác định những điểm bất hợp lý
để quy định chặt chẽ hơn các căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam và

thu hẹp một cách hợp lý thẩm quyền ra quyết định biện pháp tạm giam. Đồng
thời, sửa đổi, bổ sung các quy định về các biện pháp ngăn chặn khác để có thể
tăng khả năng áp dụng rộng rãi hơn các biện pháp này thay thế biện pháp tạm
giam.
1. Về vấn đề phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Theo quy định tại khoản 4 Điều 110 BLTTHS, Trong thời hạn 12 giờ kể từ
khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a
và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ
hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm
quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.


Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm
c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến
việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay
hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận
người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định
tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm
theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.
Với những quy định trên có thể thấy, trong các trường hợp bắt khẩn cấp được
BLTTHS quy định thì sau khi việc bắt khẩn cấp đã được thực hiện và Cơ quan
điều tra đã lấy lời khai của người bị bắt, thì Viện kiểm sát mới xem xét, quyết
định việc phê chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt khẩn cấp. Đây là điều không
hợp lý. Theo chúng tôi, bắt khẩn cấp là một hoạt động độc lập với hoạt động
tạm giữ. Sau khi bắt khẩn cấp sẽ là việc xem xét có tạm giữ người bị bắt hay

không cho nên việc phê chuẩn của Viện kiểm sát sau khi việc bắt khẩn cấp đã
được thực hiện thực chất là phê chuẩn việc tạm giữ đối với người đã bị bắt khẩn
cấp vì nếu Viện kiểm sát phê chuẩn thì người bị bắt khẩn cấp sẽ bị tạm giữ, còn
nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì người bị bắt khẩn cấp sẽ phải được trả tự
do.
Từ lập luận đó, chúng tôi cho rằng cần phải xem xét lại các quy định liên
quan đến việc bắt khẩn cấp và tạm giữ để sửa đổi, bổ sung theo hướng sửa đổi
quy định về việc Viện kiểm sát phê chuẩn bắt khẩn cấp bằng việc Viện kiểm sát
phê chuẩn quyết định tạm giữ.
2. Về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Cùng với căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung được quy định tại
Điều 119 BLTTHS quy định về các điều kiện để tạm giam. Nghiên cứu các quy
định này có thể thấy một số điểm chưa phù hợp.
Một là, theo quy định tại khoản 1 Điều 119 BLTTHS, tạm giam có thể được
áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt
nghiêm trong, phạm tội rất nghiêm trọng. Trên thực tế, nhiều trường hợp khi
xem xét, quyết định việc tạm giam người phạm tội khó có thể xác định chính
xác ngay người đó phạm tội rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng không
(việc xác định trong nhiều trường hợp phải qua quá trình điều tra, chứng minh,
xác định sự thật khách quan của vụ án). Ngay cả trong trường hợp tại thời điểm
xem xét, quyết định việc tạm giam đã xác định được chính xác một người phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng nhưng nếu không có
căn cứ để cho rằng người đó có thể sẽ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc sẽ bỏ trốn, thì cũng không cần thiết phải


tạm giam. Do vậy, nếu coi một người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc
phạm tội rất nghiêm trọng là điều kiện để có thể tạm giam thì có thể xảy ra
những trường hợp lạm dụng quy định này để tạm giam cả đối với người không
cần thiết phải tạm giam.

Hai là, theo quy định tại khoản 2 Điều 119 BLTTHS, tạm giam có thể được
áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm
trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và
có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Theo chúng tôi, quy định này cũng cần được
xem xét lại vì vào thời điểm xem xét, tạm giam một người có thể chưa xác định
được chính xác tính chất tội phạm mà người đó thực hiện là tội phạm loại gì.
Trường hợp đã xác định được chính xác một người phạm tội ít nghiêm trọng,
nhưng BLHS quy định hình phạt tù từ hai năm tù trở xuống và có căn cứ cho
rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội và không thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác, thì theo
quy định tại khoản 2 Điều 119 BLTTHS, cũng không thể áp dụng biện pháp tạm
giam. Đây là quy định không phù hợp, vì gây khó khăn cho việc điều tra và giải
quyết vụ án, nhất là đối với những trường hợp người phạm tội không có nơi cư
trú, làm việc ổn định hoặc không xác định được nơi cư trú, làm việc của người
phạm tội.
Từ những phân tích trên, các quy định về tạm giam trong BLTTHS năm 2015
cần được xem xét lại để sửa đổi, bổ sung theo hướng sau:
- Không nên dựa trên cách phân loại tội phạm tại Điều 8 BLHS để quy
định điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam. Về nguyên tắc, người phạm tội đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đều có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nếu
có căn cứ quy định tại Điều 109 BLTTHS, trong đó có biện pháp tạm giam.
- Để hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam cần quy định chặt chẽ hơn các
căn cứ để tạm giam, nhưng về nguyên tắc không được làm bó tay các cơ quan
tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Theo đó, chỉ được ra
quyết định tạm giam trong trường hợp có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo có thể
trốn hoặc sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục
phạm tội và không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn
đối với họ. Trong trường hợp bị can, bị cáo đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác mà vi phạm nghĩa vụ đã cam kết thì có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam

(bảo đảm sự phù hợp, tính đồng bộ với các quy định về các biện pháp ngăn chặn
khác)
- Sửa đổi, bổ sung căn cứ, điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác
ngoài biện pháp tạm giam để có thể mang tính khả thi, thay thế được biện pháp
tạm giam.


Tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, có thể thấy, theo quy định tại Điều 144
BLTTHS Cộng hoà Pháp, việc tạm giam bị can được áp dụng để bảo vệ nhân
chứng, dấu hiệu phạm tội, để ngăn chặn việc gây áp lực đối với người bị hại,
người làm chứng hoặc để ngăn chặn sự thông đồng giữa bị can với những người
đồng phạm. Việc tạm giam là cần thiết để bảo vệ đương sự, chấm dứt việc phạm
tội, ngăn ngừa tái phạm, bảo đảm sự giám sát của Toà án đối với đương sự hoặc
để giữ gìn trật tự xã hội. Cũng có thể ra lệnh tạm giam khi bị can cố tình trốn
tránh những nghĩa vụ liên quan đến việc áp dụng các biện pháp giám sát tư
pháp.
3. Về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam và ra lệnh tạm giam
Trong số các biện pháp ngăn chặn thì biện pháp tạm giam là biện pháp
nghiêm khắc nhất, nó tác động đến một trong những quyền cơ bản nhất của
công dân là quyền tự do về thân thể. Không phải ngẫu nhiên mà pháp luật tố
tụng hình sự các nước quy định đối tượng được quyền quyết định áp dụng biện
pháp này rất hạn chế (nhiều nước quy định việc có áp dụng biện pháp tạm giam
hay không phải được đưa ra Toà án xem xét, quyết định).
Theo quy định tại khoản khoản 1 Điều 113 và khoản 5 Điều 119 BLTTHS,
những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam và ra lệnh
tạm giam bao gồm cả Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Toà án các
cấp. Theo chúng tôi, quy định phạm vi chủ thể được ra lệnh tạm giam như vậy
là quá rộng. BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng thu hẹp phạm vi
đối tượng chủ thể được ra lệnh tạm giam. Trong giai đoạn điều tra, việc ra lệnh

bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam chỉ nên giao cho Viện trưởng Viện
kiểm sát. Thay vì việc Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra có quyền ra
lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam như quy định của BLTTHS
hiện hành thì chỉ nên quy định cho các chủ thể này có nghĩa vụ thu thập các tài
liệu, chứng cứ để đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định bắt bị can để
tạm giam và ra lệnh tạm giam. Vì biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn
đặc biệt nên cũng không nên giao cho Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được
quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam mà chỉ nên giao thẩm
quyền này cho Viện trưởng Viện kiểm sát. Chỉ trong trường hợp Viện trưởng
Viện kiểm sát vắng mặt thì một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ nhiệm
mới được quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam. Trong giai
đoạn hồ sơ vụ án chuyển Toà án chuẩn bị xét xử thì chỉ nên quy định cho Thẩm
phán giữ chức vụ Chánh án Toà án các cấp và Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao được quyền ra lệnh bắt bị cáo để tạm giam và ra lệnh tạm
giam. Tại phiên toà xét xử, thẩm quyền này thuộc về Hội đồng xét xử,
4. Về biện pháp bảo lĩnh


Điều 92 BLTTHS quy định về biện pháp bảo lĩnh, với tính cách là một trong
những biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Nghiên cứu quy
định về bảo lĩnh tại điều luật trên có thể thấy một số hạn chế cần được xem xét
lại để sửa đổi, bổ sung như sau:
Một là, theo quy định tại Điều 121 BLHS, Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho
bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Trong trường hợp Tổ chức
nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ
đã cam đoan. Trên thực tế, việc áp dụng biện pháp cho Tổ chức nhận bảo lĩnh
hầu như không được thực hiện, bởi lẽ, không và khó có thể thiết lập được cơ
chế ràng buộc trách nhiệm của Tổ chức khi Tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm
nghĩa vụ đã cam đoan. Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự nhiều nước, chúng
tôi không thấy có quy định về việc cho Tổ chức được nhận bảo lĩnh. Theo

chúng tôi, để bảo đảm tính khả thi, Điều 121 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ
sung theo hướng bỏ quy định về việc Tổ chức được nhận bảo lĩnh.
Hai là, theo quy định tại Điều 121 BLTTHS, khi nhận bảo lĩnh người nhận
bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và
bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát hoặc Toà án. Với việc được nhận bảo lĩnh, bị can, bị cáo được
nhận bảo lĩnh không bị cách ly khỏi xã hội nên ngoài việc có thể trốn và tiếp tục
phạm tội, bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh có thể có những hành vi gây cản trở
cho hoạt động điều tra, xét xử. Do vậy, theo chúng tôi, cần bổ sung vào điều luật
này nghĩa vụ của người nhận bảo lĩnh là phải cam đoan không để bị can, bị cáo
gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử bằng những hành vi như can thiệp
đối với nhân chứng để họ khai báo gian dối hoặc cố ý tiêu huỷ, làm sai lệch đồ
vật, tài liệu được coi là chứng cứ của vụ án hoặc tác động đến bị can, bị cáo
khác để họ khai báo gian dối...
Ba là, Vì biện pháp bảo lĩnh gắn với nghĩa vụ của cả người nhận bảo lĩnh và
người được nhận bảo lĩnh nên cần có sự đồng ý va cam kết thực hiện nghĩa vụ
từ hai phía: người nhận bảo lĩnh và bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh. Điều 121
BLTTHS hiện hành chưa quy định việc bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh phải
đồng ý đối với việc người khác nhận bảo lĩnh cho mình và cam đoan thực hiện
những nghĩa vụ nhất định. Những nội dung này cần được bổ sung cho phù hợp.
Tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, có thể thấy, theo quy định tại Điều 103
BLTTHS Liên bang Nga, việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh của cá nhân với tư
cách là biện pháp ngăn chặn được thực hiện theo đề nghị bằng văn bản của một
hoặc một số người nhận bảo lĩnh và phải được người bảo lĩnh đồng ý. Theo quy
định tại Điều 56 Luật Tố tụng hình sự Trung Quốc, khi được nhận bảo lĩnh,
người được nhận bảo lĩnh phải tuân thủ những nghĩa vụ: Không được rời khỏi
thành phố, huyện hoặc thị trấn nơi cư trú khi chưa được phép của cơ quan giám


sát; có mặt đúng lúc tại Toà án khi được triệu tập; không được can thiệp dưới

bất kỳ hình thức nào với nhân chứng để họ khai báo; không được tiêu huỷ, làm
sai lệch chứng cứ hoặc thông cung. Đây là kinh nghiệm hay để chúng ta học tập
khi sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về bảo lĩnh.
Bốn là, theo quy định tại khoản 3 Điều 121 BLTTHS thì người nhận bảo lĩnh
vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phảo chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan.
Theo chúng tôi, cũng cần quy định rõ căn cứ để xác định người nhận bảo lĩnh vi
phạm nghĩa vụ đã cam kết để quy trách nhiệm. Việc quy định này có thể theo
hướng sau: Nếu người nhận bảo lĩnh cố ý vi phạm nghĩa vụ cam kết bằng việc
tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức cho bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh có hành vi
vi phạm nghĩa vụ đã cam kết hoặc tuy không cố ý tạo điều kiện cho bị can, bị
cáo được nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ cam kết nhưng khi biết việc bị can, bị
cáo đã vi phạm nghĩa vụ đã cam kết đã không thông báo ngay cho cơ quan có
thẩm quyền thì phải chịu trách nhiệm về việc vi phạm nghĩa vụ nhận bảo lĩnh.
Đồng thời, cũng cần cụ thể hoá trách nhiệm của người nhận bảo lĩnh khi họ vi
phạm nghĩa vụ nhận bảo lĩnh, tuỳ tính chất, mức độ vi phạm có thể là bị xử phạt
hành chính (phạt tiền) hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự (trong trường hợp do
lỗi cố ý vi phạm của người nhận bảo lĩnh đã gây hậu quả nghiêm trọng. Theo
tinh thần này thì BLHS cũng cần được sửa đổi theo hướng quy định hành vi vi
phạm nghĩa vụ bảo lĩnh gây hậu quả nghiêm trọng là tội phạm).
5. Về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
Theo quy định tại điều 122 BLTTHS, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm là một trong những biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với bị can, bị cáo để
thay thế biện pháp tạm giam và bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án.
Nghiên cứu quy định tại Điều 122 BLTTHS, nhận thấy cần được xem xét để
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với thực tế:
Một là, nếu coi đây là biện pháp để thay thế và góp phần hạn chế việc áp
dụng biện pháp tạm giam thì cũng phải coi mục đích của việc áp dụng biện pháp
này không chỉ là bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án triệu tập người đó mà còn là để bảo đảm họ không tiếp

tục phạm tội (nếu bị can, bị cáo phạm tội thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ bị tịch
thu sung quỹ Nhà nước và bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác).
Hai là, để góp phần hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam cần mở rộng
phạm vi áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác, trong đó có việc mở rộng đối
tượng được đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Theo chúng tôi, ngoài bị
can, bị cáo, nên mở rộng đối tượng đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm


cho cả tổ chức và cá nhân khác (coi đây như một dạng “bảo lĩnh” bằng tiền
hoặc tài sản).
Tham khảo kinh nghiệm lập pháp của Liên bang Nga, có thể thấy Điều 106
BLTTHS Liên bang Nga đã quy định biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm, trong đó cho phép người bị tình nghi hoặc bị can hoặc những cá nhân,
pháp nhân khác được đặt ký quỹ tiền, những giấy tờ có giá trị thanh toán hoặc
tài sản có giá trị cho cơ quan áp dụng biện pháp ngăn chặn này để bảo đảm sự
có mặt của người bị tình nghi, bị can theo giấy triệu tập của dự thẩm viên, kiểm
sát viên hoặc Toà án và phòng ngừa họ phạm tội mới. Nếu người đặt tiền hoặc
tài sản không phải là người bị tình nghi, bị can thì người đặt tiền hoặc tài sản
được giải thích về bản chất việc bị tình nghi, buộc tội dẫn đến phải áp dụng biện
pháp ngăn chặn này, đồng thời được giải thích về những nghĩa vụ của họ và hậu
quả của việc họ không thực hiện hoặc vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Đây là
kinh nghiệm tốt để chúng ta học tập khi tiến hành sửa đổi, bổ sung BLTTHS.



×