Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TÓM TẮT LUẬN VĂN CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.26 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HOÀI
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn
tỉnh Hải Dương)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Luyện

Phản biện 1: GS.TS Đỗ Ngọc Quang

Phản biện 2: TS Lê Lan Chi

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi 13 giờ ngày 29 tháng 01 năm 2015.
Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm thông tin - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan


Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
7
1.1. Người chưa thành niên phạm tội và thủ tục giải quyết
các vụ án là người chưa thành niên trong tố tụng hình
sự
7
1.1.1. Người chưa thành niên phạm tội 7
1.1.2. Thủ tục giải quyết các vụ án là người chưa thành niên
trong tố tụng hình sự
10
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành
niên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
Khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự
Khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người chưa
thành niên phạm tội
Đặc điểm áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội
12
12

16
17
1.3. Bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
19
1.3.1. Các tiêu chí quốc tế về quyền con người của người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự
19
1.3. 2. Bảo vệ quyền của người chưa thành niên khi áp dụng
các biện pháp ngăn chặn
22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
25
2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội
25
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước khi
ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988
25
2.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
2003
27
2.2.
2.3.
Thực trạng pháp luật hiện hành quy định về các biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên

Thực tiễn áp dụng các biện các biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh
Hải Dương
28
39
2.3.1. Tình hình áp dụng biện pháp bắt người 39
2.3.2. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giữ 42
2.3.3. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam 45
2.3.4. Tình hình áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú 47
2.3.5. Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh 49
2.3.6. Tình hình áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản 52
2.4. Nhận xét, đánh giá về việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn
tỉnh Hải Dương
53
2.4.1. Những ưu điểm 53
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 56
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG
63
3.1. Cơ sở của các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa
thành niên phạm tội
63
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương
66

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật quy định biện pháp ngăn chặn liên
quan đến người chưa thành niên phạm tội
66
3.2.2. Nâng cao chất lượng và kỹ năng áp dụng thực tiễn của
đội ngũ cán bộ có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội
74
3.2.3. Phát huy vai trò của người bào chữa, tổ chức luật sư
trong bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên bị áp
dụng các biện pháp ngăn chặn
76
3.2.4. Một số giải pháp khác 77
KẾT LUẬN 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia luôn đi đầu trong vấn đề chăm sóc và bảo vệ
trẻ em. Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến hành nhiều biện pháp, hoạt
động cụ thể để chăm sóc, giáo dục trẻ em. Trong đó, đặc biệt chú ý quan tâm
đến vấn đề chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ và phòng ngừa, ngăn chặn người
chưa thành niên phạm tội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta thấy tồn tại một thực trạng
đáng lo ngại đó là tình hình phạm tội do người chưa thành niên thực hiện với
tính chất và mức độ gây nguy hiểm cho xã hội ngày càng gia tăng. Đặc biệt
là các tội phạm liên quan đến ma túy, giết người, cướp của, hiếp dâm cùng
với việc sử dụng các loại vũ khí, hung khí nguy hiểm, tụ tập thành các băng
nhóm hoạt động theo kiểu xã hội đen, gây ra tình trạng bất ổn cho xã hội và
khó khăn cho công tác điều tra, xử lý.
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự (TTHS), các
biện pháp ngăn chặn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, giúp hoạt động TTHS

xác định tội phạm, người phạm tội và vụ án. Việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn có ảnh hưởng lớn đến quá trình giải quyết vụ án hình sự và hiệu
quả cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Nghiên cứu thực tế những năm qua việc áp dụng cáp biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong cả nước nói chung cũng
như địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng còn những hạn chế nhất định.Vì vậy,
nắm vững các biện pháp ngăn chặn quy định trong Chương VI Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 là điều cần thiết, giúp các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tránh được những vi phạm đáng tiếc xảy ra, đồng thời
nâng cao hiệu quả trong việc ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội,
phục vụ đắc lực hoạt động điều tra.
Xuất phát từ những lý do trên, việc tác giả chọn đề tài " Các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội (trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương)" làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định các biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS đã được nhiều nhà
khoa học trong nước quan tâm nghiên cứu. Tiến sĩ Nguyễn Văn Nguyên có
công trình "Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của
chúng" (Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 1995); Nguyễn Mai Bộ có
công trình "Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự" (Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Điệp "Các
biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp"; Luận án tiến sĩ của Nguyễn Trọng
Phúc "Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam"…
Trong các công trình nghiên cứu của, các học giả mới chỉ đề cập đến
vấn đề lý luận chung về các biện pháp ngăn chặn hoặc phân tích các quy
định của pháp luật thực định về các biện pháp đó, mới chỉ nghiên cứu một
cách tổng thể trên phạm vi rộng mà chưa đề cập đến những khó khăn vướng
mắc và những giải pháp về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với

người chưa thành niên phạm tội trên từng địa phương cụ thể. Cho đến nay
vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng ngăn chặn đối
với người chưa thành niên phạm tội ở tỉnh Hải Dương.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề " Các biện pháp ngăn chặn
đối với người chưa thành nhiên phạm tội (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn
địa bàn tỉnh Hải Dương)" cần tiếp tục được nghiên cứu, để có những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội không chỉ trên địa bàn tỉnh Hải Dương, mà
còn có thể tham khảo áp dụng trên toàn quốc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp
luật về các biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Qua đó, phát hiện những
khó khăn, vướng mắc, thiếu sót trong quá trình thực hiện của các cơ quan
21 22
nhà nước có thẩm quyền, để đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu làm rõ nhận thức chung về các biện pháp ngăn chặn và
những quy định trong BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên phạm tội.
- Khảo sát, đánh giá việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, thiếu sót, khó khăn, vướng
mắc khi thực hiện các quy định của BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên phạm tội. Đồng thời đưa ra các giải pháp khắc phục
tồn tại đó và nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên thực tiễn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc những vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật TTHS và thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên là bị can, bị cáo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu quy định của BLTTHS Việt Nam về các biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo.
- Về địa bàn khảo sát: Luận văn chỉ khảo sát thực trạng áp dụng các
biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trên
địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Về thời gian khảo sát: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn 2009-
2013.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách nhân đạo
đối với người chưa thành niên phạm tội, về vấn đề cải cách tư pháp, về công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các tội phạm do người chưa thành
niên thực hiện.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
cụ thể và đặc thù của khoa học Luật hình sự như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp diễn dịch, phương
pháp quy nạp; nghiên cứu tâm lý lứa tuổi, phương pháp thống kê, điều tra xã
hội học để đánh giá, hệ thống hóa hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn
đối với người chưa thành niên phạm tội.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa làm rõ hơn về phương diện
lý luận và thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS Việt Nam

hiện nay. Đề tài đã phân tích, đánh giá, tổng hợp thực tiễn áp dụng vác biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải
Dương. Qua đó, tìm ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót, khó khăn, vướng
mắc khi thực hiện. Đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật
TTHS về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội. Qua đó, nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội phạm,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nhất là đối với người chưa
thành niên.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các
cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viện cao học và sinh
viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra,
Viện Kiểm sát, Tòa án trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
21 22
với người chưa thành niên phạm tội được chính xác, khách quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải
Dương.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỦ TỤC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1.1. Người chưa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới
18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các
đặc điểm về tâm, sinh lý và đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm.
1.1.2. Thủ tục giải quyết các vụ án là người chưa thành niên
trong tố tụng hình sự
Người chưa thành niên phạm ngoài những thủ tục chung thì
BLTTHS dành riêng một chương quy định về TTHS và chính sách xử lý đặc
biệt với người chưa thành niên phạm tội (tại Chương XXXII, từ Điều 302
đến Điều 310).
Điều 302 BLTTHS quy định về yêu cầu đối với Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán khi THTT phải xác định rõ các yếu tố về tuổi, trình đọ
phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội
của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có
người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Pháp luật TTHS có những quy định đặc biệt để áp dụng
biện pháp ngăn chặn trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành
niên. Đối với các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên,
ngoài những yêu cầu chung quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120
của BLTTHS, thì theo quy định tại Điều 303 BLTTHS và những quy định
có liên quan thì việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với
người chưa thành niên chỉ có thể được áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi trong trường hợp họ phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới

18 tuổi chỉ có thể áp dụng trong trường hợp họ phạm tội nghiêm trọng do cố
ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Về việc giám sát bị cáo là người chưa thành niên: theo quy định tại
Điều 304 BLTTHS thì nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với người chưa thành niên là không cần thiết, Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Tòa án có thể ra quyết định giao bị can, bị cáo chưa thành niên
cho cha mẹ, người đỡ đầu của họ giám sát để đảm bảo sự có mặt của bị can,
bị cáo khi có giấy triệu tập của cơ quan THTT.
Về thi hành án phạt tù: Theo quy định thì không được áp
dụng chế độ tạm giữ người chưa thành niên như đối với người đã thành niên,
mà họ phải được giam giữ riêng, các chế độ với người chưa thành niên cũng
được ưu ái hơn.
1.2. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính
phòng ngừa do người có thẩm quyền được quy định trong BLTTHS áp dụng
21 22
đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là phạm
tội nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm
1.2.2. Khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội
Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội là biện pháp cưỡng chế trong TTHS do người có thẩm quyền áp
dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa
bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) và từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội
của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành

động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
1.2.3. Đặc điểm áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên
- Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong TTHS bao
gồm 6 biện pháp: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo nhằm cho phép lựa chọn tối ưu trong từng
trường hợp cụ thể, đáp ứng yêu cầu của hoạt động TTHS cũng như lợi ích
của những người tham gia tố tụng.
- Do người có thẩm quyền áp dụng: chủ thể không chỉ là Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, và Tòa án mà một số chủ thể khác cũng có quyền áp
dụng biện pháp ngăn chặn như người chỉ huy đồn biên phòng, chỉ huy máy
bay, tàu biển…, chủ thể áp dụng là căn cứ phân biệt biện pháp ngăn chặn
trong TTHS và biện pháp ngăn chặn trong hành chính.
- Đối tượng bị áp dụng là bị can, bị cáo và cũng có thể là người
chưa bị khởi tố về hình sự.
- Mục đích chung nhất của biện pháp ngăn chặn là ngăn chặn hành
vi tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc cản trở việc điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án hình sự.
1.3. BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VIỆC ÁP
DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN
1.3.1. Các tiêu chí quốc tế về quyền con người của người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự
Liên hợp quốc đã ban hành nhiều văn kiện về tư pháp người chưa
thành niên như: Công ước về quyền trẻ em năm 1989 cùng với hai Nghị định
thư không bắt buộc của công ước này (Nghị định thư về “sử dụng trẻ em
trong xung đột vũ trang”, Nghị định thư về “buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ
em và văn hóa phẩm khiêu dâm”, đều được Việt Nam phê chuẩn ngày
20/12/2001); Những quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp
luật đối với Người chưa thành niên còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh, được Đại

hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1985; Hướng dẫn Riyadh,
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 24/12/1990; Những quy
tắc tối thiểu, phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên
bị tước quyền tự do, được Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990.
1.3.2. Bảo vệ quyền của người chưa thành niên khi áp dụng các
biện pháp ngăn chặn
Đảm bảo cho việc đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm có hiệu quả,
bảo đảm hoạt động của các cơ quan thực hiện tố tụng được thuận lợi, thể
hiện sự chuyên chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong việc
đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Thể hiện sự nghiêm minh của Nhà nước trong việc ngăn chặn chống tội
phạm, không để cho người có hành vi phạm tội bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc
tiêu hủy tài liệu, chứng cứ, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, xét xử tội phạm
Đảm bảo dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được quy
định trong Hiến pháp.
Nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, các cơ quan bảo vệ pháp
luật nói riêng về sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp này trong hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
21 22
2.1. PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước
khi ban hành bộ luật tố tụng hình sự 1988
Chúng ta có thể kể đến một số văn bản được ban hành trước khi có
BLTTHS 1988 có đề cập đến vấn đề các biện pháp ngăn chặn:

- Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 về cách tổ chức các tòa án và các
ngạch thẩm phán;
- Sắc lệnh 131/SL ngày 20/7/1946 về việc khám xét nhà tư nhân;
- Luật 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân
thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân.
- Sắc lệnh 002/SL-T ngày 18/6/1957 quy định những trường hợp
phạm pháp quả tang, những trường hợp khẩn cấp và những trường hợp khám
người phạm pháp quả tang.
- Sắc lệnh luật số 02/SL-76 ngày 15/03/1976 quy định về bắt, giam,
khám người, khám nhà ở, đồ vật.
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Ngày 28/6/1988, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, khóa VIII đã
thông qua BLTTHS có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989 quy định một
chương V độc lập, với 14 điều luật từ Điều 61 đến Điều 77 để điều chỉnh
những nội dung cơ bản của hệ thống các biện pháp ngăn chặn, trong đó, có
một số khác biệt so với các văn bản pháp luật trước đó, cụ thể là:
- Điều 64 chỉ quy định ba trường hợp và thay thế trường hợp thứ tư
là bắt người đang lẩn trốn thành bắt người bị truy nã, đồng thời, điều chỉnh
bốn trường hợp này trong cùng một điều luật;
- Điều 63 chỉ quy định ba trường hợp bắt khẩn cấp;
- Quy định thêm bốn biện pháp ngăn chặn mới, gồm: cấm đi khỏi
nơi cư trú theo Điều 74; bảo lĩnh theo Điều 75; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để đảm bảo theo Điều 76.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH QUY ĐỊNH
VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN
2.2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt người
chưa thành niên phạm tội
Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong TTHS được áp dụng đối với bị

can, bị cáo, người bị tình nghi thực hiện tội phạm hoặc người phạm tội quả
tang hoặc đang có lệnh truy nã nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa
họ phạm tội mới tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra, truy tố xét xử
và thi hành án hình sự.
BLTTHS 2003 quy định về bắt người bao gồm:
* Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 BLTTHS)
* Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS)
* Bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
2.2.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tạm giữ
người chưa thành niên phạm tội
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do cơ quan và những
người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị
bắt theo lệnh truy nã.
Điều 86 BLTTHS 2003 quy định về biện pháp tạm giữ.
2.2.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
tạm giam người chưa thành niên phạm tội
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm
trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội ít
nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2
năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn ra hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
BLTTHS 2003 quy định về biện pháp tạm giam:
- Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam được quy định tại khoản 1
21 22
Điều 88
- Thẩm quyền ra lệnh tạm giam: quy định tại Điều 80 BLTTHS
- Thủ tục tạm giam: Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm
quyền, lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của

người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam, lý do tạm giam, thời
hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản. Cơ quan ra lệnh tạm
giam phải báo ngay cho gia đình người bị tạm giam biết.
- Thời hạn tạm giam: Điều 120 BLTTHS
- Chế độ tạm giữ, tạm giam: Điều 89 BLTTHS 2003.
- Điều 90 BLTTHS năm 2003 quy định khi áp dụng biện pháp tạm giữ,
tạm giam, nếu người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14
tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người
chăm sóc.
2.2.4. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về cấm đi
khỏi nơi cư trú người chưa thành niên phạm tội
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng buộc bị can, bị cáo không được đi
khỏi nơi cư trú của mình và phải có mặt theo giấy triệu tập.
Đối tượng bị áp dụng thường là bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng,
phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, thái độ thành khẩn và có đủ cơ sở
cho rằng họ sẽ không bỏ trốn, không gây cản trở cho việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.
Thẩm quyền và thủ tục cấm đi khỏi nơi cư trú: quy định tại khoản 1
Điều 80 BLTTHS. Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền
ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
2.2.5. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
bảo lĩnh người chưa thành niên phạm tội
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức
làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và đảm bảo sự
có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập.
2.2.6. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm người chưa thành niên phạm tội
Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo là biện pháp ngăn chặn trong

TTHS do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị
cáo để đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập.
2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HẢI DƯƠNG
2.3.1. Tình hình áp dụng biện pháp bắt người
Bảng 2.1: Số đối tượng áp dụng biện pháp bắt tại tỉnh Hải Dương (2009-2013)
Năm
Tổng số đối
tượng đã bị
xử lý về hình
sự (1)
Tổng số
đối tượng
bị bắt
(2)
Tỷ lệ
(%)
(2)/(1)
Số đối tượng
chưa thành
niên bị xử lý
về hình sự (3)
Số đối tượng
chưa thành
niên bị bắt
(4)
Tỷ lệ
(%)
(4)/(3)

2009 1359 672 49,44 93 47 50,53
2010 1416 702 49,57 100 53 53,00
2011 1504 846 56,25 144 83 57,63
2012 1790 1147 64,07 103 65 63,10
2013 1618 985 60,87 72 43 59,72
Nguồn: Báo cáo công tác kiểm sát-Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải
Dương.
2.3.2. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giữ
Bảng 2.2: Số đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ trên địa bàn tỉnh
Hải Dương (2009- 2013)
Năm
Tổng số đối
tượng bị xử
lý về hình
sự (1)
Tổng số
đối tượng
bị tạm
giữ (2)
Tỷ lệ
(%)
(2)/(1)
Số đối tượng
chưa thành
niên bị xử lý
về hình sự (3)
Số đối tượng
chưa thành
niên bị tạm
giữ (4)

Tỷ lệ
(%)
(4)/(3)
2009 1359 236 17,36 93 16 17,20
2010 1416 342 24,15 100 23 23,00
2011 1504 421 27,99 144 47 32,63
2012 1790 530 29,60 103 28 27,18
2013 1618 474 29,29 72 15 20,83
21 22
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Hải Dương.
2.3.3. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam
Bảng 2.3. Số đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam tại tỉnh Hải Dương
(2009-2013)
Năm
Tổng số đối
tượng đã bị
xử lý về hình
sự (1)
Tổng số
đối tượng
đã bị tạm
giam (2)
Tỷ lệ
(%)
(2)/(1)
Số đối tượng
chưa thành
niên bị xử lý
về hình sự (3)

Số đối tượng
chưa thành
niên bị tạm
giam (4)
Tỷ lệ
(%)
(4)/(3)
2009 1359 789 58,05 93 52 55,91
2010 1416 802 56,63 100 57 57,00
2011 1504 855 56,84 144 81 56,25
2012 1790 967 54,02 103 54 52,42
2013 1618 875 54,07 72 39 54,16
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Hải Dương
2.3.4. Tình hình áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
Bảng 2.4: Số đối tượng bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
tại tỉnh Hải Dương (2009-2013)
Năm
Tổng số đối
tượng đã bị
xử lý về
hình sự
(1)
Tổng số
đối tượng
bị cấm đi
khỏi nơi
cư trú (2)
Tỷ lệ
(%)

(2)/(1)
Số đối tượng
chưa thành
niên bị xử lý
về hình sự
(3)
Số đối tượng
chưa thành
niên bị cấm đi
khỏi nơi
cư trú (4)
Tỷ lệ
(%)
(4)/(3)
2009 1359 425 31,27 93 43 46,23
2010 1416 476 33,61 100 45 45,00
2011 1504 523 34,77 144 75 52,08
2012 1790 629 35,13 103 56 54,36
2013 1618 611 37,76 72 39 54,16
Nguồn: Báo cáo công tác kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương.
2.3.5. Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh
Bảng 2.5: Số đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh
tại tỉnh Hải Dương (2009-2013)
Năm
Tổng số
đối tượng
bị xử lý về
hình sự
(1)
Tổng số đối

tượng bị áp
dụng biện
pháp bảo
lĩnh (2)
Tỷ lệ
(%)
(2)/(1)
Số đối tượng
chưa thành
niên bị xử lý về
hình sự (3)
Số đối tượng
chưa thành
niên bị áp dụng
biện pháp
bảo lĩnh (4)
Tỷ lệ
(%)
(4)/(3)
2009 1359 63 4,63 93 19 20,43
2010 1416 68 4,80 100 21 21,00
2011 1504 87 5,78 144 33 22,91
2012 1790 93 5,19 103 23 22,33
2013 1618 81 5,00 72 15 20,83
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Hải Dương (2009-2013).
2.3.6. Tình hình áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản
Ngày 14 tháng 11 năm 2013, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng,
Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao ban
hành Thông tư liên tịch số 17/2013/TTLT-BTP-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC

hướng dẫn về việc đặt tiền để đảm bảo theo quy định tại Điều 93 BLTTHS.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng biện pháp này trong 5 năm qua trên địa
bàn tỉnh Hải Dương rất ít khi được sử dụng vì còn nhiều vướng mắc và chưa
cụ thể trong các quy định của pháp luật.
2.4. Nhận xét, đánh giá về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương
2.4.1. Những ưu điểm
Đội ngũ cán bộ công chức có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn
chặn trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã từng bước nâng cao trình độ chuyên
nghiệp vụ, nắm vững kiến thức pháp luật khi áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội. Ngoài ra, còn có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan THTT, trên cơ sở tuân thủ pháp luật, hạn chế sự
phối hợp mang tính chất thỏa thuận. Do đó, đã hạn chế được sai phạm,
quyền lợi của người chưa thành niên được đảm bảo.
Những năm gần đây việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với đối
tượng đặc biệt này đã đi dần sát và đúng tinh thần của BLTTHS, chỉ áp dụng
các biện pháp ngăn chặn tước tự do đối với người chưa thành niên phạm tội
21 22
khi thật cần thiết, còn trong những trường hợp có thể áp dụng các biện pháp
như bảo lĩnh và cấm đi khỏi nơi cư trú mà vẫn đảm bảo được tiến trình điều
tra, truy tố, xét xử thì người chưa thành niên vẫn được ưu tiên áp dụng các
biện pháp ngăn chặn không tước tự do.
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế
* Những hạn chế
Trên thực tế, nhiều trường hợp áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên còn lúng túng, có lúc trở nên sai phạm, không tuân
thủ những quy định của pháp luật. Việc quá tải ở nhà tạm giữ, việc xử lý
hành chính và tạm giữ tố tụng còn lẫn lộn nên không phân hóa được đối
tượng, thậm chí còn trường hợp tạm giữ chung người chưa thành niên với
đối tượng đã thành niên.

* Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, các quy định của BLTTHS còn nhiều vấn đề chưa đồng bộ,
chưa thống nhất, còn chồng chéo gây khó khăn cho việc áp dụng.
Thứ hai, do sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các cơ quan.
Thứ ba, do hạn chế về nhận thức, năng lực, kỹ năng nghiệp vụ của
người THTT.
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG
3.1. CƠ SỞ CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
Thứ nhất, việc quy định các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội phải dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ
được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại.
Thứ hai, việc quy định các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội phải dựa trên tinh thần Nghị quyết 49-
NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
Thứ ba, việc quy định các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa
thành niên phải dựa trên những luận chứng khoa học thể hiện sự kết hợp hài
hòa giữa khoa học pháp lý với các ngành khoa học khác
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm
tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật quy định biện pháp ngăn chặn liên
quan đến người chưa thành niên phạm tội
* Đối với biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành
niên phạm tội
Theo chúng tôi có thể sửa đổi, bổ sung Điều 303 quy định về việc
bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên như sau:

Điều 303: Bắt, tạm giữ, tạm giam
1. Chỉ áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo là người
chưa thành niên khi việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác không có
hiệu quả.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ,
tạm giam nếu phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. phạm tội rất nghiêm trọng do
cố ý và thuộc một trong các trường hợp sau:
a/ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được
chính xác nhân thân của bị can;
b/ Có thể bỏ trốn;
c/ Có thể tiếp tục phạm tội hoặc đã bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác nhưng bỏ trốn;
d/ Có thể mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo
gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu vụ
án hoặc có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử.
3. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ,
tạm giam nếu phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng, tội
nghiêm trọng, ít nghiêm trọng do cố ý và thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 303 Bộ luật này.
21 22
4. Trong thời hạn 24 giờ, cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm
giam người chưa thành niên phải thông báo cho người đại diện theo pháp
luật của họ biết, kể từ khi bắt, tạm giữ, tạm giam
* Đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
Chúng tôi đồng ý với quan điểm cần sửa đổi Điều 91 BLTTHS
2003 về cấm đi khỏi nơi cứ trú theo hướng:
- Quy định cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn thay cho
việc áp dụng biện pháp tạm giam, do vậy đối tượng áp dụng biện pháp này là
với bị can, bị cáo bị can, bị cáo có nơi cư trú, căn cước lai lịch rõ ràng và
trong trường hợp xét thấy có thể không cần áp dụng biện pháp tạm giam

nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án.
- Quy định rõ thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú:
Thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú không được quá thời hạn
điều tra, quyết định việc truy tố hoặc chuẩn bị xét xử quy định tại Bộ luật này.
Trường hợp bị cáo không bị bắt tạm giam sau khi tuyên án và bị áp dụng biện
pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì thời hạn áp dụng biện pháp này cho đến khi
người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật.
- Bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan có mặt theo giấy triệu tập,
không bỏ trốn hay tiếp tục phạm tội; không mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi
giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả
mạo chứng cứ, tài liệu vụ án hoặc có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy
tố, xét xử. Nếu vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường, thị
trấn phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý
theo thẩm quyền. Trường hợp này bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác.
* Đối với biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh
Đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 92 BLTTHS 2003 theo hướng:
- Quy định bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay cho việc áp dụng
biện pháp tạm giam, do vậy đối tượng áp dụng biện pháp này là bị can đang
bị tạm giữ, tạm giam, bị cáo đang bị tạm giam hoặc bị can, bị cáo xét thấy
không cần thiết phải tạm giam.
- Quy định rõ những đối tượng không được bảo lĩnh: bị can, bị cáo
phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; bị can phạm tội nghiêm
trọng nhưng đã có tiền án hoặc phạm tội có tính chất côn đồ hung hãn, sử
dụng bạo lực, hung khí để phạm tội.
- Quy định điều kiện đối với người nhận bảo lĩnh: cá nhân nhận
bảo lĩnh là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có tư cách, phẩm chất tốt, không liên
quan đến vụ án, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có thu nhập ổn định và
nơi cứ trú cùng địa phương với bị can, bị cáo được bảo lĩnh để giám sát.

- Quy định trách nhiệm của người được bảo lĩnh: bị can, bị cáo
phải làm giấy cam đoan, có mặt đúng thời gian, địa điểm triệu tập; không bỏ
trốn hoặc tiếp tục phạm tội; không can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào với
nhân chứng khi họ khai báo; không được tiêu hủy hoặc làm sai lệch chứng
cứ hoặc thông cung hoặc thực hiện các hành vi khác gây cản trở hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử.
- Thời hạn áp dụng biện pháp bảo lĩnh không được quá thời hạn điều
tra, quyết định việc truy tố hoặc chuẩn bị xét xử quy định tại Bộ luật này. Trường
hợp bị cáo không bị bắt tạm giam sau khi tuyên án và bị áp dụng biện pháp
bảo lĩnh thì thời hạn áp dụng biện pháp bảo lĩnh cho đến khi người bị kết án
phải chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật.
* Đối với biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm
Đề nghị cần sửa đổi Điều 93 theo hướng:
- Cần quy định các trường hợp không được áp dụng biện pháp đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm gồm: các đối tượng xâm phạm an ninh
quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến
tranh; bị can, bị cáo phạm tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là chung
thân, tử hình; về nhân thân không áp dụng đối với người tái phạm nguy
hiểm, phạm tội có tính chất côn đồ, có tính chuyên nghiệp, không có nơi cư
trú rõ ràng…
- Thời hạn áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm không được quá
thời hạn điều tra, quyết định việc truy tố hoặc chuẩn bị xét xử quy định tại Bộ luật
21 22
này. Trường hợp bị cáo không bị bắt tạm giam sau khi tuyên án và bị áp dụng
biện pháp đặt tiền hoặc sổ tiết kiệm tiền gửi, kim khí quý, đá quý để bảo đảm
thì thời hạn áp dụng biện pháp này cho đến khi người bị kết án phải chấp hành
hình phạt tù theo quy định của pháp luật.
- Quy định rõ thẩm quyền quyết định biện pháp đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm gồm có: Viện kiểm sát quyết định cho bị can đặt
tiền trong giai đoạn điều tra, truy tố; Tòa án quyết định cho bị can đặt tiền

trong giai đoạn xét xử.
- Bổ sung thêm quy định bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan,
nếu vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ bị sung vào
công quỹ Nhà nước.
3.2.2. Nâng cao chất lượng và kỹ năng áp dụng thực tiễn của đội
ngũ cán bộ có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội
Phấn đấu cán bộ có chức danh tư pháp đều phải có trình độ đại học luật
và phải qua đào tạo về nghề nghiệp. Phải thi sát hạch trước khi bổ nhiệm và
bổ nhiệm có thời hạn cán bộ có chức danh tư pháp.
Chú ý đến việc bồi dưỡng tri thức pháp luật có liên quan đến việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS.
Tăng cường số lượng điều tra viên, nâng cao chất lượng công tác của
đội ngũ điều tra viên trong các cơ quan cảnh sát điều tra các cấp.
Các cơ quan THTT cần đầu tư thời gian, kinh phí cho hoạt động tổng
kết thực tiễn nhằm hướng tới việc bảo đảm pháp chế trong hoạt động tố
tụng.
Quan tâm tới vấn đề đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp lý, tâm lý học trẻ
em, giáo dục và phương pháp làm việc với trẻ em cho những người THTT.
3.2.3. Phát huy vai trò của người bào chữa, tổ chức luật sư trong bảo
vệ quyền lợi của người chưa thành niên bị áp dụng các biện pháp ngăn
chặn
Theo Luật TTHS, các cơ quan THTT có nghĩa vụ yêu cầu luật sư bào chữa
cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong một số giai đoạn tố tụng.
Luật sư sẽ được tham dự vào các buổi lấy lời khai của người chưa thành
niên bị tạm giữ (hay tại ngoại), tham dự vào hoạt động hỏi bị can, đối chất giữa
các bị can, lấy lời khai củ người làm chứng, người bị hại, thực nghiệm điều tra,
trao đổi đề xuất với cơ quan THTT. Khi tham gia vào các hoạt động trên, luật
sư, người bào chữa không những sẽ tìm ra những chứng cứ có lợi cho người
chưa thành niên phạm tội, mà còn theo dõi, kiểm tra các hành vi, hoạt động của

các cơ quan THTT. Nếu phát hiện thấy có sự vi phạm pháp luật, luật sư, người
bào chữa sẽ có những yêu cầu, kiến nghị, đề xuất kịp thời để bảo vệ tốt quyền và
lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, hạn chế oan sai ngay từ đầu.
Tuy nhiên, cũng còn nhiều luật sư, người bào chữa chưa có đủ lập luận,
luận cứ bào chữa chưa thuyết phục, chưa đưa ra được những căn cứ để bác
bỏ quan điểm của những người THTT.
Hạn chế đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân: do trình độ của luật sư,
người bào chữa còn nhiều hạn chế; do quy định của pháp luật vẫn chưa thực
sự chặt chẽ; do nhận thức pháp luật của một số người THTT về mở rộng
tranh tụng là không đầy đủ.
Muốn phát huy vai trò của luật sư, người bào chữa trong việc thực thi
các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội thì đòi hỏi
phải có sự sửa đổi, bổ sung kịp thời một số quy định trong BLTTHS hiện
hành. Bên cạnh đó, tăng cường đội ngũ luật sư cả về số lượng cũng như trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, không ngừng học hỏi cập nhật kiến thức pháp
luật thường xuyên. Ngoài ra, các cơ quan THTT cũng tạo điều kiện để luật
sư, người bào chữa có thể tiếp cận vụ án ngay từ đầu, góp phần bảo vệ tốt
hơn nữa quyền lợi củ người chưa thành niên.
3.2.4. Một số giải pháp khác
* Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các biện pháp ngăn
chặn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
Báo chí, đài phát thanh, truyền hình chính là tiếng nói của Đảng, Nhà
nước và nhân dân. Nó có vai trò và ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội
hiện nay. Đội ngũ phóng viên các báo, đài là những người có kinh nghiệm
thực tế, có thể đi sâu, đi sát mọi vấn đề. Qua đó, họ có thể phát hiện việc áp
21 22
dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên trong các vụ án có
đúng không? Thông qua các bài báo đưa tin, họ giúp các cơ quan THTT xem
xét, điều chỉnh các quyết định, kể cả các quyết định không đúng pháp luật.
Các báo chí, đài phát thanh, truyền hình nên có chuyên mục phổ biến

pháp luật, cần phải đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho các phóng
viên, biên tập viên chuyên mục phổ biến pháp luật
* Làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn trong TTHS
Thực hiện tốt công tác kiểm tra định kỳ và đột xuất với các hoạt động
áp dụng biện pháp ngăn chặn trong TTHS của các ngành, các lực lượng, các
đơn vị có thẩm quyền
Tăng cường kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam đối tượng với từng
trường hợp cụ thể.
Chú trọng đúng mức đến việc giải quyết các đơn thư khiếu nại tố cáo về
sai phạm của cơ quan chức năng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn để
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và công dân.
* Vận động quần chúng tham gia vào việc thực thi các biện pháp
ngăn chặn
Vận động quần chúng tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói riêng là một biện pháp
cơ bản, thường xuyên của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Tăng cường các biện pháp giáo dục, giúp đỡ những người phạm tội
chưa thành niên bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn như cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lĩnh ở địa phương.
KẾT LUẬN
Các biện pháp ngăn chặn là một bộ phận hợp thành quan trọng trong hệ
thống các biện pháp cưỡng chế TTHS, là công cụ phương tiện hữu hiệu để
các cơ quan THTT hình sự áp dụng trong điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án. Thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dượng vừa qua đã tuân thủ đầy đủ các
quy định của BLTTHS năm 2003, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng
chống và ngăn chặn tội phạm.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đã đạt được, quá trình áp dụng
các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội đã bộc lộ

một số tồn tại thiếu sót, ảnh hưởng đến quá trình tố tụng, đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người chưa thành niên, đến uy tín của các cơ quan tố tụng.
Những tồn tại này do rất nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là do nhận thức
của những người THTT. Trước yêu cầu đổi mới toàn diện của đất nước nói
chung và diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh nói
riêng, đòi hỏi phải không ngừng nâng cao kiến thức pháp luật và nghiệp vụ
của người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, để khắc phục
những nguyên nhân, tồn tại trong quá trình áp dụng. Đồng thời tìm ra những
hạn chế, thiếu sót để kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao trong thực
tiễn hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
Luận văn đã nghiên cứu và làm rõ thực trạng áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Hải
Dương, chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong quá trình áp dụng những
biện pháp này trong những năm gần đây và nguyên nhân của nó.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đã cố gắng đưa ra một số giải pháp nâng cao
hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội như hoàn thiện pháp luật;
nâng cao chất lượng và kỹ năng thực tiễn áp dụng đội ngũ cán bộ có thẩm
quyền THTT; phát huy vai trò của người bào chữa, luật sư trong hoạt động
bảo vệ người chưa thành niên bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn; phát huy
vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng, sự giám sát của nhân dân trong
thực thi các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội.
21 22

×