Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.52 KB, 19 trang )

LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP
I. Lý thuyết chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường
Phải nói rằng thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi trên
các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo, trong giao tiếp hàng ngày
của các chuyên gia kinh tế, các chính sách của các nhà kinh doanh. Nhưng cho
đến nay vẫn chưa có sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về
năng lực cạnh tranh của công ty
Theo cách tiếp cận năng lực cạnh tranh ở tầm quốc gia
Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm diễn đàn kinh tế thế giới (gọi tắt là
WEF). Theo định nghĩa của WEF thì năng lực cạnh tranh của một quốc gia là
khả năng đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể
chế vững vàng tương đối và các đặc trưng kinh tế khác
(WEF-1997).
Như vậy năng lực cạnh tranh của một quốc gia được xác định trước hết
bằng mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc đân và sự có mặt (hay thiếu
vắng) các yếu tố quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính
sách kinh tế đã được thực hiện. Ví dụ điển hình là Nhật bản, sau chiến tranh thế
giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản trở nên hoang tàn, nhân dân chìm trong cảnh
mất mùa, thiếu thốn. Vậy mà đến năm 1968 Nhật bản đã trở thành một nước có
nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới (sau Mỹ) và được xếp hàng các cường
quốc kinh tế lớn nhất, kỷ lục về sự tăng trưởng kinh tế này là một trong những
đỉnh cao để xác định năng lực cạnh tranh lớn của nền kinh tế Nhật bản. Cũng
theo WEF thì các yếu tố xác định năng lực cạnh tranh được chia làm 8 nhóm
chính bao gồm 200 chỉ số khác nhau, các nhóm yếu tố xác định năng lực cạnh
tranh tổng thể chủ yếu có thể kể ra là:
Nhóm 1: Mức độ mở cửa nền kinh tế thế giới bao gồm các yếu tố thuế
quan, hàng rào phi thuế quan, hạn chế nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái.
Nhóm 2: Nhóm các chỉ số liên quan đến vai trò và hoạt động của chính


phủ bao gồm mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính phủ, thuế và
mức độ trốn thuế, chính sách tài khoá.
Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính bao gồm các nội dung về khả năng thực
hiện các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài chính
đầy đủ và tiết kiệm.
Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ bao gồm năng lực phát triển công nghệ
trong nước, khai thác công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát
triển công nghệ thông qua các kênh chuyển giao công nghệ khác.
Nhóm 5: Các yếu tố và kết cấu hạ tầng như giao thông liên lạc và kết cấu
hạ tầng khác.
Nhóm 6: Quản trị bao gồm các chỉ số và quản trị nguồn nhân lực và các
yếu tố quản trị không liên quan đến nguồn nhân lực.
Nhóm 7: Các yếu tố về lao động bao gồm các chỉ số về trình độ tay nghề
và năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả của các
chương trình xã hội , quan hệ lao động trong một ngành.
Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế gồm các yếu tố về chất lượng, các thể chế
về pháp lý, các luật và văn bản pháp quy khác.
Dựa vào các nhóm chỉ số này có thể đánh giá, xem xét để rút ra kết luận
về việc định liệu các chính sách, biện pháp đã được sử dụng ở một Quốc gia có
thực sự nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế không. Chẳng hạn những năm
qua chính phủ Việt Nam đã đưa ra chủ trương khuyến khích phát triển các loại
hình doanh nghiệp hợp tác liên doanh, liên kết với nước ngoài nhằm học hỏi
kinh nghiệm chuyển giao công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Thế nhưng hiệu quả
kinh tế đem lại không lấy gì làm chắc chắn.
Cách tiếp cận dựa trên quan điểm của M.Poter về chỉ số năng suất
Ông cho rằng chỉ có chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về
năng lực cạnh tranh quốc gia bởi vì đây là yếu tố cơ bản cho việc nâng cao sức
sống của một đất nước. Xét về dài hạn chỉ số năng suất này phụ thuộc vào trình
độ phát triển và tính năng động của các doanh nghiệp. Do đó năng lực cạnh
tranh của một quốc gia phụ thuộc vào việc các yếu tố nào trong nền kinh tế

quốc dân, giữ vai trò quyết định cơ bản cho phép các công ty sáng tạo và duy trì
và lợi thế cạnh tranh trên mọi lĩnh vực cụ thể. Với cách nhìn nhận vấn đề như
vậy M.Poter đã đưa ra một khuôn khổ các yếu tố tạo nên lợi thế canh tranh của
một quốc gia và Ông gọi đó là “khối lượng kim cương các lợi thế cạnh tranh”
bao gồm các nhóm được phân chia một cách tương đối.
 Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất (thể hiện vị thế của một
quốc gia về nguồn lao động được đào tạo, có tay nghề, về tài
nguyên, kết cấu hạ tầng, tiềm năng khoa học và công nghệ).
 Nhóm các điều kiện về cầu: Phản ánh bản chất của nhu cầu thị
trường trong nước đối với sản phẩm và dịch vụ của một ngành.
 Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lược của doanh nghiệp
và của đối thủ cạnh tranh.
 Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan có
khả năng cạnh trạnh quốc tế.
Tiếp cận năng lực cạnh tranh ở cấp ngành, cấp doanh nghiệp.
Quan điểm của M.Poter
Dựa theo quan điểm quản trị chiến lược được phản ánh trong các cuốn
sách của M.Poter, khảnăng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là năng
chiếm lĩnh thị trường, tiêu thụ các sản phẩm cùng loại (hay sản phẩm thay thế)
của công ty đó. Với cách tiếp cận này mỗi ngành dù là trong hay ngoài nước
năng lực cạnh tranh được quy định bởi các yếu tố sau:
 Số lượng các doanh nhgiệp mới tham gia.
 Sự có mặt của các sản phẩm thay thế
 Vị thế của khách hàng
 Uy tín của nhà cung ứn
 Tính quyết liệt của đối thủ cạnh tranh
Nghiên cứu những yếu tố cạnh tranh này sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp
xây dựng và lựa chọn chiến lược kinh doanh cạnh tranh phù hợp với trong giai
đoạn, thời kỳ phát triển thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Quan điểm tân cổ điển về năng lực cạnh tranh của một sản phẩm

Quan điểm này dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống, để xem xét
năng lực cạnh tranh của một sản phẩm thông qua lợi thế so sánh về chi phí sản
xuất và năng suất. Như vậy năng lực cạnh tranh của một ngành, công ty được
đánh giá cao hay thấp tuỳ thuộc vào chi phí sản xuất có giảm bớt hay không vì
chi phí các yếu tố sản xuất thấp vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế
cạnh tranh
Quan điểm tổng hợp của VarDwer, E.Martin và R.Westgren
VarDwer, E.martin và R.Westgren là những đồng tác giả của cuốn
“Assessing the competiviveness of Canada’s agrifood Industry”- 1991. Theo
các tác giả này thì năng lực cạnh tranh của một ngành, của công ty được thể
hiện ở việc tạo ra và duy trì lợi nhuận, thị phần trên các thị trường trong nước và
nước ngoài. Như vậy lợi nhuận và thị phần, hai chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh
tranh của công ty. Chúng có mối quan hệ tỷ lệ thuận, lợi nhuận và thị phần càng
lớn thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao. Ngược lại, lợi
nhuận và thị phần giảm hoặc nhỏ phán ánh năng lực cạnh tranh của công ty bị
hạn chế hoặc chưa cao. Tuy nhiên chúng chỉ là những chỉ số tổng hợp bao gồm
chỉ số thành phần khác nhau như:
 Chỉ số về năng suất bao gồm năng suất lao động và tổng năng suất các
yếu tố sản xuất
 Chỉ số về công nghệ bao gồm các chỉ số về chi phí cho nghiên cứu và
triển khai
 Sản phẩm bao gồm các chỉ số về chất lượng, sự khác biệt
 Đầu vào và các chi phí khác: giá cả đầu vào và hệ số chi phí các
nguồn lực.
Nói tóm lại có rất nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về năng lực
cạnh tranh. Song bài viết này không nhằm mục đích phân tích ưu nhược điểm
của quan điểm đó mà chỉ mong muốn giới thiệu khái quát một số quan niệm
điển hình giúp cho việc tiếp cận một phạm trù phổ biến nhưng còn nhiều tranh
cãi về khái niệm được dễ dàng hơn.
2. Các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

2.1. Các yếu tố bên ngoài
2.1.1. Môi trường vĩ mô
a. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên có thể
khai thác, các điều kiện về địa lý như địa hình, đất đai, thời tiết, khí hậu,… Điều
kiện tự nhiên có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh của từng loại doanh nghiệp khác
nhau: tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến doanh
nghiệp khai thác; điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết tác động trực tiếp đến các
doanh nghiệp sản xuất nông, lâm, thủy hải sản và từ đó tác động đến các doanh
nghiệp chế biến; địa hình và sự phát triển hạ tầng tác động đến việc lựa chọn địa
điểm của mọi doanh nghiệp; khí hậu, độ ẩm, không khí tác động mạnh đến
nhiều ngành sản xuất, từ khâu thiết kế sản phẩm đến công tác lưu kho…
b. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế có vai trò hàng đầu và có ảnh hưởng quyết định đến
hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Nếu nền kinh tế trong nước và
kinh tế quốc tế tăng trưởng cao sẽ làm tăng thu nhập của hộ gia đình và doanh
nghiệp, dẫn đến tăng khả năng thanh toán cho nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu đầu
tư. Thị trường của doanh nghiệp sẽ được mở rộng, áp lực cạnh tranh giảm,
doanh nghiệp sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất, thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái nó sẽ tác động năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp theo hướng ngược lại, làm cho thị trường bị thu hẹp và áp lực cạnh tranh
lớn hơn. Doanh nghiệp có nguy cơ bị giảm lợi nhuận, thua lỗ thậm chí phá sản.
c. Môi trường chính trị
Môi trường chính trị trong nước và quốc tế ảnh hưởng rất lớn đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Môi trường chính trị trong nước ổn định sẽ tạo
điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh,
đầu tư nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường.
Các nhân tố chủ yếu phản ánh thay đổi chính trị của thế giới là các quan
hệ chính trị hình thành trên toàn cầu hoặc ở khu vực như vấn đề toàn cầu hóa,
hình thành, mở rộng hoặc phá bỏ các liên minh song phương hoặc đa phương,

giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của thế giới và khu vực. Các nhân tố này tác
động tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp của mỗi quốc gia
nói riêng và của các doanh nghiệp nước ta nói riêng. Nhìn chung nếu những bất
đồng về chính trị giữa các quốc gia được xóa bỏ, quan hệ giữa các nước được
bình thường hóa thì thị trường của doanh nghiệp sẽ được mở rộng, doanh
nghiệp cũng có điều kiện giao lưu, học hỏi, tiếp thu công nghệ mới; Trong khi
đó nếu một quốc gia vì xung đột chính trị mà đóng cửa, bế quan tỏa cảng thì
một mặt, một số doanh nghiệp trong nước có khả năng mở rộng thị phần trong
nước vì không gặp phải áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, nhưng mặt khác các
doanh nghiệp trong nước sẽ bị tụt hậu về năng lực sản xuất, trình độ công nghệ,
năng lực quản lý…
d. Môi trường văn hóa- xã hội
Các vấn đề về văn hóa xã hội như phong tục tập quán, lối sống, trình độ
dân trí có ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu của nhu cầu trên thị tường. Doanh
nghiệp phải nắm bắt được văn hóa xã hội địa phương mới có thể sản xuất được
sản phẩm thỏa mãn thị hiếu của người tiêu dùng. Van hóa xã hội còn tác động
trực tiếp đến việc hình thành môi trường văn hóa doanh nghiệp, thái độ cư xử,
ứng xử của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp, khách hàng và cả đối với các
đối thủ cạnh tranh.
e. Môi trường khoa học công nghệ
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, sự phát triển nhanh
chóng trong mọi lĩnh vực khoa học kỹ thuật đều ảnh hưởng trực tiếp đến năng
lực cạnh tranh của mọi doanh nghiệp có liên quan. Chuyển giao công nghệ đã,
đang và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của mọi doanh nghiệp Áp dụng
những kỹ thuật công nghệ tiên tiến nhất sẽ giúp tăng năng suất lao động, tăng
chất lượng sản phẩm, tạo ra những sản phẩm mới cải tiến mẫu mã… giúp doanh
nghiệp ngày càng thu hút được khách hàng. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam
muốn nhanh chóng vươn lên, tạo ra năng lực cạnh tranh để đứng vững ngay trên
sân nhà và vươn ra thị trường thế giới thì không thể không chú ý nâng cao khả
nghiên năng cứu và phát triển công nghệ; không chỉ là chuyển giao, làm chủ

công nghệ nhập ngoại mà phải có khả năng sáng tạo được kỹ thuật công nghệ
tiên tiến.
2.1.2. Môi trường vi mô (môi trường ngành)
a. Khách hàng
Khách hàng của doanh nghiệp là những người có cầu với sản phẩm của
doanh nghiệp. Nhu cầu của người tiêu dùng là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng có
tính quyết định đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lượng cầu tác động đến mức độ và cường độ cạnh tranh trong ngành. Nếu quy
mô thị trường lón mà lại không có nhiều doanh nghiệp tham gia thị trường thì
sức ép cạnh tranh với doanh nghiệp sẽ giảm; còn nếu thị trường đã bão hòa mà
số lượng doanh nghiệp gia nhập ngày càng nhiều thì cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp sẽ khiến lợi nhuận ngày càng giảm sút.
Khách hàng là người tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thị hiếu và
những yêu cầu cụ thể của khách hàng về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, tính
nhạy cảm của khách hàng với giá cả… đều tác động đến việc thiết kế sản phẩm
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu của khách hàng sẽ
giành được thắng lợi trong cạnh tranh, ngược lại, doanh nghiệp nào không chú ý
đến nhu cầu của khách hàng chắc chắn sẽ gặp thất bại. Do nhu cầu của khách
hàng là một phạm trù không có giới hạn nên doanh nghiệp còn phải biết khai
thác và biến nhu cầu của khách hàng thành cầu thực sự.
b. Nhà cung cấp
Các nhà cung cấp hình thành các thị trường cung cấp yếu tố đầu vào khác

×