Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tổng quan về bảo hiểm dự án xây dựng ngoài khơi trong ngành dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.9 KB, 25 trang )

Tổng quan về bảo hiểm dự án xây dựng ngoài khơi trong ngành
dầu khí.
I. Giới thiệu chung về bảo hiểm dầu khí.
Ngành công nghiệp dầu khí là một trong những ngành sôi động nhất trên
thế giới. Hiện nay, ngành dầu khí đã và đang trở thành một trong những ngành
kinh tế chủ lực của Việt Nam, là ngành xuất khẩu hàng đầu của đất nước. Năm
2008, giá trị xuất khẩu dầu thô đạt 10,36 tỷ USD. Hầu như toàn bộ trữ lượng
dầu khí của nước ta đều nằm trong thềm lục địa. Trên phần diện tích thềm lục
địa có chiều sâu nước đến 200m đã phát hiện ra trữ lượng dầu khoảng 540 triệu
tấn và 610 tỷ m3 khí. Trữ lượng dầu khí tiềm năng dự báo khoảng 900 đến 1200
tỷ m3 dầu và 2100 đến 2800 tỷ m3 khí. Như vậy, trữ lượng tiềm năng tập trung
chủ yếu ở các vùng nước sâu. Dự tính đến năm 2010, Việt Nam có thể khai thác
30 đến 32 triệu tấn dầu quy đổi. Nhờ có nguồn dầu khí khai thác được chúng ta
có thể phát triển các ngành công nghiệp điện lực, hoá chất (phân bón và hoá
dầu) với quy mô lớn. Như vậy việc thăm dò và khai thác dầu khí ngày càng có
một vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Vị trí đó được thể
hiện thông qua vai trò to lớn của Ngành công nghiệp dầu khí, cụ thể như sau:
- Là ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, có đóng góp lớn vào tổng
thu nhập quốc dân. (GDP).
- Góp phần làm giảm sự thâm hụt cán thương mại bằng việc cung cấp các
sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài.
- Tạo công ăn, việc làm và tăng thu nhập cho nhiều người dân lao động,
đặc biệt là các lao động trẻ.
- Là ngành công nghiệp thu hút ngoại tệ về cho đất nước thông qua hoạt
động xuất khẩu các sản phẩm của ngành.
- Là nhân tố cơ sở, là tiền đề để phát triển một số ngành công nghiệp và
dịch vụ khác như hoá chất, điện lực, bảo hiểm…
Với những vai trò quan trọng như thế nên ngành công nghiệp dầu khí đang
rất được Đảng và Nhà Nước quan tâm chú trọng phát triển.
Tuy nhiên, ngành công nghiệp dầu khí lại có nét đặc thù riêng như là:
Trữ lượng dầu chủ yếu nằm sâu trong lòng đất và ở dưới đáy biển cho nên


hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trở nên khó khăn và phức tạp. Cụ thể:
+ Nó đòi hỏi nhiều về mặt thời gian, nhân lực cũng như về kỹ thuật công
nghệ. Điều đó dẫn đến nhu cầu về vốn lớn để phát triển ngành công nghiệp dầu
khí.
+ Hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí có thể gặp phải rất nhiều rủi ro,
tổn thất.
Các tổn thất trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí.
Trong ngành công nghiệp dầu khí, các nhà khai thác chính thường phải
thuê các nhà thầu thực hiện công việc thăm dò và khai thác. Chính vì vậy, phải
xác định được các rủi ro cũng như phân định được trách nhiệm giữa các nhà
thầu và nhà khai thác. Việc phân định thường được xác định trên cơ sở hợp
đồng và phụ thuộc vào một số nhân tố thương mại.
Các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thăm dò và khai thác dầu khí là:
- Thiệt hại về tài sản;
- Tai nạn, thương tật và chết đối với người làm công;
- Trách nhiệm pháp lý phát sinh đối với người thứ Ba;
- Ô nhiễm môi trường;
- Phun trào (thuộc phạm vi Bảo Hiểm chi phí bổ sung cho nhà khai thác);
- Di chuyển mảnh đổ nát (xác tàu đắm) hoặc các mảnh vỡ;
- Các tổn thất gián tiếp;
- Các hiểm hoạ chiến tranh và chính trị, khủng bố.
Các nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí.
Do tính chất phức tạp trong các hoạt động của ngành công nghiệp dầu khí
nên các nghiệp vụ bảo hiểm cũng rất phong phú và đa dạng.
Đặc trưng Bảo hiểm dầu khí là mỗi một giai đoạn có rất nhiều nghiệp vụ
bảo hiểm liên quan đến từng công việc cụ thể. Do đó chúng ta có thể xem xét
các nghiệp vụ trong từng giai đoạn cụ thể như sau:
Trong qua trình thăm dò
Công việc đầu tiên của một công ty dầu khí là nghiên cứu chi tiết về địa lý
ở khu vực mà họ có ý định khai thác dầu. Công việc này rất tốn kém vì chi phí

cho một giếng khoan thăm dò cũng đắt ngang bằng với chi phí cho một giếng
khoan khai thác. Trong quá trình này, liên quan đến những nghiệp vụ bảo hiểm
sau:
- Bảo hiểm mọi rủi ro cho thiết bị khai thác nổi: Nghiệp vụ này bảo
hiểm cho các rủi ro liên quan đến trang thiết bị khai thác, bất kể là chúng ở nhà
kho, trên mặt đất, trên boong tàu hay máy bay, trên không trung hay trong quá
trình vận chuyển.
- Bảo hiểm trách nhiệm pháp lý đối với bên thứ Ba: các công ty dầu làm
việc ở nơi nào cũng dễ trở thành mục tiêu khiếu nại của người dân địa phương
vì họ có thể gây ra ô nhiễm môi trường quanh vùng.
- Giai đoạn thăm dò địa chấn phải sử dụng đến chất nổ để giám sát sự
đột biến của các sóng trên vỏ trái đất cũng như sử dụng các thiết bị ghi âm. Cả
hai thiết bị này đều được bảo hiểm. Việc sử dụng chất nổ cũng làm tăng rủi ro
phát sinh trách nhiệm đối với người thứ Ba.
- Các nhà thăm dò thường yêu cầu bảo hiểm cho các đĩa lưu trữ số liệu.
Có hai hình thức cần phải phân biệt. Thứ nhất, bảo hiểm sự thay thế cho chính
những chiếc đĩa này, giá trị bảo hiểm chỉ cần bằng giá trị mới của các đĩa dữ
liệu. Thứ hai, bảo hiểm gồm cả việc tái tạo số liệu ghi trong đĩa, giá trị bảo hiểm
không chỉ là giá trị mới của bản thân các đĩa lưu trữ mà còn bao gồm các công
việc cần thiết để tái tạo lại số liệu ghi trên đĩa nếu số liệu đó bị mất hoặc hư hại.
- Khi giai đoạn khoan bắt đầu, thiết bị khoan thường được do một nhà
thầu sở hữu và việc di chuyển các thiết bị đó đến khu vực khoan được thực hiện
bằng một hợp đồng. Những hợp đồng như vậy sẽ đề cập đến trách nhiệm của
công ty dầu đối với giàn khoan và thiết bị thuê cần được bảo hiểm.
- bảo hiểm đối với các giếng khoan bao gồm việc bảo hiểm chi phí
khống chế giếng và chi phí khoan lại. Chi phí khống chế giếng bao gồm chi phí
về vật liệu, dịch vụ cung ứng của các cá nhân hay hãng chuyên về khống chế
giếng và những chi phí cho việc khoan trực tiếp hay các hoạt động tương tự cần
thiết để làm cho giếng có thể khống chế được. Chi phí khoan lại bao gồm chi
phí khoan lại giếng đã bị tổn thất có liên quan đến một số hiểm hoạ như phụt nổ,

phun trào. Trong trường hợp có tai nạn về tràn dầu hay ô nhiễm dầu thì hợp
đồng “ tiếp theo một rủi ro bảo hiểm” được mở rộng cho các chi phí làm sạch
môi trường hoặc hạn chế việc lan tràn ô nhiễm.
- Bảo hiểm tai nạn người làm công: do tính chất công việc rất nguy
hiểm nên xác suất rủi ro đối với người làm công là rất lớn. Vì vậy, các công ty
dầu khí cần phải mua bảo hiểm cho họ.
Trong quá trình khai thác
Giống như quá trình thăm dò, quá trình khai thác cũng cần bảo hiểm những
rủi ro về chi phí phát sinh đối với người khai thác, nhưng khác nhau về hạn mức
trách nhiệm bảo hiểm.
Trong giai đoạn này có thể phải tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng như
đường sá, đường ống, nhà kho… Tuỳ theo vị trí từng khu mỏ, nhà khai thác yêu
cầu các nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Các phương tiện ở trên bờ có thể được
bảo hiểm theo đơn bảo hiểm tiêu chuẩn mọi rủi ro về xây dựng cho chủ thầu và
trách nhiệm pháp lý đối với người thứ ba. Đối với các hoạt động ngoài khơi cần
áp dụng hình thức bảo hiểm rộng hơn và tổng hợp hơn.
Hợp đồng bảo hiểm cho các hoạt động khai thác có thể bao gồm việc bảo
hiểm cho thiệt hại vật chất, hậu quả của tổn thất hoặc bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh và bảo hiểm trách nhiệm pháp lý đối với người thứ ba. Phạm vi bảo hiểm
tuỳ thuộc vào điều kiện trách nhiệm và vị trí khai thác.
Trong quá trình sản xuất và chế biến
Quá trình sản xuất và chế biến dầu khí được tiến hành trên đất liền, nhưng
các rủi ro và hạn mức trách nhiệm cũng tăng lên đáng kế so với hai giai đoạn
trước và nó cũng đòi hỏi hoạt động quản lý rủi ro phải được tiến hành một cách
chặt chẽ. Các nghiệp vụ bảo hiểm trong giai đoạn này thường bao gồm bảo
hiểm tài sản như nhà xưởng, kho tàng, máy móc…, bảo hiểm trách nhiệm pháp
lý đối với bên thứ ba kể cả trách nhiệm theo luật định đối với sản phẩm khi vận
chuyển và khi phân phối. Thông thường thì phạm vi bảo hiểm do các công ty
dầu yêu cầu tuỳ thuộc vào vị trí, nhận thức và mức độ nguy hiểm trong hoạt
động của họ.

II. Bảo hiểm dự án xây dựng ngoài khơi trong ngành dầu khí.
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng ngoài
khơi trong ngành dầu khí.
Hoạt động khai thác dầu khí dưới mặt nước đã được bắt đầu từ ngay sau
khi kết thúc Chiến tranh Thế Giới thứ II tại các Vịnh và nhánh sông ở vùng biên
giới của Mê Hi Cô. Sau đó nó được mở rộng ra khai thác dầu khí trên đất liền.
Công việc khai thác dầu khí đòi hỏi phải có mũi khoan, các trang thiết bị
chuyên dụng với chi phí rất đắt.
Vào những năm 1960, một số lượng lớn các giàn khoan đã được lắp đặt tại
vùng vịnh của Mê Hi Cô. Hoạt động khai thác dầu khí ngoài khơi đã bắt đầu
phát triển và phổ biến hơn.
Vào những năm tiếp theo, các công ty khai thác dầu đã phát hiện ra dầu và
khí gas ở dưới mực nước biển sâu hơn và ở vùng biển xa đất liền hơn.
Cả hai nhân tố trên đã làm cho việc khai thác trở nên khó khăn hơn, phức
tạp hơn và chi phí thì tăng lên rất nhiều.
Thông thường một dự án ngoài khơi được tạo nên từ rất nhiều phần, và
không có phần nào trong số chúng được làm ở ngoài khơi, chúng được làm ở
trên đất liền, thường là từ rất nhiều nơi khác nhau, sau đó được vận chuyển một
quãng đường dài để đưa ra vị trí xây dựng ngoài khơi theo đúng một trật tự. Đó
là cả một tập hợp các hoạt động tinh vi và phức tạp, đòi hỏi kỹ thuật chính xác
và công nghệ tiên tiến để đảm bảo dự án được thực hiện an toàn và đúng tiến
độ.
Việc vận chuyển ra ngoài khơi được thực hiện bởi thuyền vận chuyển
trọng tải lớn hoặc bằng sà lan. Sau khi kết thúc quá trình vận chuyển, người thi
công phải lắp ghép các khối thép và bê tông khổng lồ. Đó là một quá trình khó
khăn. Một công việc khác cũng không kém phần cam go đó là việc xây dựng hệ
thống ống dẫn dầu. Các nhà thầu phải xây dựng hệ thống ống dẫn dầu từ ngoài
khơi tại nơi khai thác đến nhà máy lọc dầu…
Và cũng không nằm ngoài quy luật tự nhiên, đó là khi thực hiện một chuỗi
các hoạt động khó khăn phức tạp trong một thời gian dài như thế họ đã gặp phải

không ít những rủi ro, tổn thất. Đó chính là lý do các công ty khai thác dầu đã
chuyển sang hình thức công ty cổ phần nhằm chia sẻ rủi ro. Công ty khai thác
dầu sẽ chọn ra một nhà điều hành, người này sẽ được trả tiền để đại diện cho
công ty điều hành hoạt động khai thác dầu. Đồng thời người này phài có khả
năng cam kết bảo đảm cho công việc họ thực hiện. Nhà thầu có thể tự bảo hiểm
cho công việc mình làm bằng các chương trình quản trị rủi ro hoặc thu xếp các
hợp đồng bảo hiểm. Nhu cầu bảo hiểm dự án xây dựng ngoài khơi đã ra đời từ
đó. Và ngày nay, nghiệp vụ bảo hiểm này đã rất phổ biến trên hầu hết các nước,
đặc biệt là những nước có hoạt động khai thác dầu.
2.2. Vai trò của Bảo Hiểm dự án xây dựng ngoài khơi đối với ngành dầu khí.
Khai thác dầu khí trên biển là một trong những hoạt động chủ yếu của
ngành dầu khí. Hoạt động khai thác dầu khí ngoài khơi có thể gặp rất nhiều biến
cố, rủi ro về tài sản, về con người, về trách nhiệm đối với bên thứ Ba. Chính vì
vậy, bảo hiểm dự án xây dựng ngoài khơi đã ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu được
bảo hiểm của các công ty dầu khí và đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển
của ngành công nghiệp dầu khí. Trong đó phải kể đến bảo hiểm dự án xây dựng
ngoài khơi với các vai trò to lớn như :
- Ổn định về mặt tài chính cho các công ty dầu khí trước những rủi ro tổn
thất. Vì khi những tổn thất xẩy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, các công ty bảo hiểm
sẽ bồi thường cho các công ty khai thác dầu hoặc thay mặt cho công ty khai thác
dầu bồi thường thiệt hại cho bên thứ Ba.
- Giúp cho hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí có thể được thực hiện
trở lại một cách bình thường sau khi có những biến cố và rủi ro xảy ra.
- Giúp các nhà quản lý trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí vững
tin hơn khi phải đưa ra các quyết định khó khăn, phức tạp. Có bảo hiểm, các nhà
quản lý sẽ bớt căng thẳng hơn, bớt lo lắng hơn trước những tổn thất và có thể
đưa ra được những quyết định táo bạo để đưa đến thành công.
- Giúp cho những người trực tiếp thực hiện hoạt động khai thác dầu trên
biển được yên tâm làm việc. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của người
lao động, từ đó ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả lao động.

- Tăng cường hoạt động đầu tư vào lĩnh vực dầu khí. Vì khi có bảo hiểm
góp phần hạn chế và san sẻ rủi ro, các nhà đầu tư sẽ mạnh dạn đầu tư vào lĩnh
vực dầu khí nhiều hơn.
2.3. Những nội dung cơ bản của Bảo Hiểm dự án xây dựng ngoài khơi.
2.3.1. Người được Bảo Hiểm
Mỗi công trình là một quy hoạch tổng thể, nó liên quan đến rất nhiều bên.
Những người được bảo hiểm chính là:
- Các công ty khai thác dầu;
Các công ty liên doanh có thể đang hoặc sẽ tồn tại.
Các công ty mẹ và/hoặc công ty con và/hoặc các công ty thành viên
và/hoặc các công ty liên kết và/hoặc các công ty liên đới hiện đang tồn tại.
- những người được bảo hiểm khác
Các nhà quản lý dự án
Bất kỳ công ty, hãng, người hay một bên nào khác (bao gồm các nhà thầu
chính và/hoặc các nhà thầu phụ và/hoặc các nhà sản xuất và/hoặc các nhà cung
cấp) mà những người được bảo hiểm đã nêu ở trên có ký kết (các) hợp đồng
bằng văn bản trực tiếp liên quan đến dự án.
2.3.2 Đối tượng và Phạm vi Bảo Hiểm
2.3.2.1. Đối tượng bảo hiểm:
Nghiệp vụ này bảo hiểm cho các hoạt động được tiến hành trong quá trình
thực hiện dự án với điều kiện các hoạt động này đã được tính trong giá trị bảo
hiểm. Các hoạt động bảo hiểm này bao gồm: mua sắm nguyên vật liệu, xây
dựng, chế tạo, hạ thủy, bốc dỡ hàng, vận chuyển trên đất liền, đường biển hoặc
đường hàng không (bao gồm cả vận chuyển tại các cảng hay địa điểm theo yêu
cầu), lưu kho, lai kéo, ràng buộc, chôn lấp, lắp ráp và/hoặc các hoạt động ghép
nối, kiểm tra và vận hành chạy thử, bảo trì, các hoạt động ban đầu và bảo
dưỡng, các nghiên cứu, thiết kế, kỹ thuật, quản lý dự án, kiểm tra, chạy thử, đặt
ống, đào hào và vận hành. Các hoạt động bảo hiểm cũng bao gồm những hậu
quả phát sinh trực tiếp từ các hoạt động khoan, nhưng chỉ khi có thông báo cho
Người bảo hiểm và được Người bảo hiểm đồng ý.

2.3.2.2. Phạm vi bảo hiểm:
Tuân theo các thoả thuận bảo hiểm, các điều khoản, điều kiện, và điểm loại
trừ áp dụng, đơn bảo hiểm này bảo hiểm cho các hoạt động được tiến hành
trong quá trình thực hiện dự án với điều kiện là hoạt động đó đã nằm trong giá
trị bảo hiểm. Các hoạt động được bảo hiểm bao gồm: mua sắm, xây dựng, chế
tạo, hạ thuỷ, bốc dỡ, vận chuyển trên bộ, trên biển hoặc trên không (bao gồm cả
việc đỗ tại cảng hay địa điểm theo yêu cầu), lưu kho, lai kéo, ràng buộc, lắp đặt,
chôn lấp, lắp ráp và/hoặc các hoạt động ghép nối kiểm tra và nghiệm thu, bảo
trì, các hoạt động ban đầu và bảo dưỡng, các nghiên cứu về dự án, thiết kế kỹ
thuật, quản lý dự án, kiểm tra, chạy thử…nghiệm thu. Các hoạt động được bảo
hiểm cũng bao gồm những hậu quả phát sinh trực tiếp từ hoạt động khoan,
nhưng chỉ khi những hoạt động đó được thông báo cho những người bảo hiểm
và những người bảo hiểm đồng ý.
Phần I: Thiệt hại vật chất:
 Rủi ro được bảo hiểm:
Tuân theo các điều khoản/điều kiện và điểm loại trừ của các đơn bảo hiểm,
Phần I bảo hiểm các rủi ro về tổn thất và/hoặc thiệt hại vật chất đối với các tài
sản được bảo hiểm theo bảo hiểm, với điều kiện tổn thất hay thiệt hại đó phát
sinh từ một sự cố trong thời hạn bảo hiểm.
Các rủi ro được bảo hiểm mở rộng hay co hẹp theo các điều khoản và điều
kiện tuỳ thuộc vào thoả thuận giữa Người bảo hiểm và người được bảo hiểm
theo yêu cầu của người được bảo hiểm.
Điều khoản và điều kiện:
1. Lỗi và sai sót
Bất kì lỗi hay sai sót nào không cố ý hay không có chủ tâm sẽ không làm
phương hại tới người được bảo hiểm, với điều kiện là lỗi và sai sót đó được hiệu
chỉnh ngay khi người được bảo hiểm phát hiện ra và được thông báo cho những
người bảo hiểm trước khi có sự cố nào xảy ra làm phát sinh khiếu nại.
2. Sửa đổi và điều chỉnh dự án
Theo điều khoản này, Những người bảo hiểm đồng ý bảo hiểm cho toàn bộ

các sửa đổi và điều chỉnh đối với các thông số kĩ thuật của dự án theo các điều
khoản và điều kiện của đơn bảo hiểm cho một thời hạn nào đó (60 ngày- theo
đơn WELCAR 2001) kể từ ngày tiến hành các sửa đổi hoặc điều chỉnh đó, với
điều kiện là người dược bảo hiểm chính phải thông báo cho những người bảo
hiểm về bất kì sửa đổi cần thiết hoặc quan trọng nào ngay lập tức trong vòng 60
ngày. Để có thể bảo hiểm cho các sửa đổi và điều chỉnh cần thiết hoặc quan
trọng đó trong một thời hạn trên 60 ngày, phải có sự thoả thuận giữa người được
bảo hiểm và những người bảo hiểm về phí bảo hiểm bổ sung.
3. Điều khoản về rủi ro ô nhiễm
Điều khoản này cho phép bảo hiểm cho thiệt hại hay tổn thất vật chất đối
với tài sản được bảo hiểm trực tiếp gây ra bởi hành động của bất kì cơ quan có
thẩm quyền nào của Chính phủ trong phạm vi quyền hạn của mình nhằm phòng
ngừa và giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm hoặc hiểm hoạ bị ô nhiễm, với điều kiện là
hành động của cơ quan có thẩm quyền đó không phải phát sinh từ nhu cầu do
thiếu mẫn cán của nhà điều hành của người được bảo hiểm chính trong việc
ngăn ngừa và giảm thiểu nguy cơ hoặc hiểm hoạ ô nhiễm này.
Phạm vi bảo hiểm xác định ở trên có thể được mở rộng để bảo hiểm bất kì
tổn thất hoặc thiệt hại vật chất nào gây ra bởi hay bị tác động do phải thực hiện
lệnh của bất cứ cơ quan hay tổ chức nào của Chính phủ sau khi tham khảo ý
kiến của các quan chức và kĩ sư của người được bảo hiểm có liên quan đến dự
án được bảo hiểm nhưng chỉ trong phạm vi quyền lợi được bảo hiểm theo phần
I và luôn luôn xảy ra sau tổn thất hoặc thiệt hại vật chất phát sinh từ một rủi ro
được bảo hiểm.
4. Bộ phận bị lỗi
Điều khoản này cho phép bảo hiểm các tổn thất và/hoặc thiệt hại vật chất
đối với tài sản được bảo hiểm phát sinh trong thời hạn của Đơn Bảo Hiểm và
phát sinh từ một bộ phận bị lỗi: lỗi thiết kế, nguyên vật liệu bị lỗi, lỗi hay khiếm
khuyết tay nghề hay lỗi ẩn tì cho dù cho dù lỗi thiết kế có phát sinh từ trước khi
Đơn Bảo Hiểm có hiệu lực.
Tuy nhiên, cũng theo điều khoản này thì phần I sẽ không bảo hiểm cho các

tổn thất hay thiệt hại đối với bất kì bộ phận bị lỗi nào do bản thân nó. Trừ khi
thoả mãn các yêu cầu sau đây:
a. Bộ phận bị lỗi đó bị tổn thất hay thiệt hại vật chất trong thời hạn của Đơn Bảo
Hiểm
b. Tổn thất hay thiệt hại vật chất do một rủi ro được bảo hiểm nằm ngoài bộ phận
đó gây ra; và
c. Bộ phận bị lỗi không gây ra hay góp phần gây tổn thất hay thiệt hại vật chất.
Trong mọi trường hợp, phần I không bảo hiểm cho bất kỳ chi phí hay phí
tổn nào phát sinh làm cho thiết kế tốt hơn hoặc thay đổi thiết kế.
Theo điều khoản này, “Bộ Phận Bị Lỗi” có nghĩa là bất kỳ bộ phận nào của
đối tượng bảo hiểm bị lỗi và/hoặc không phù hợp hay không đúng với mục đích
sử dụng thực tế hoặc theo dự kiến.

×