Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Thực trạng huy động nguồn vốn dân cư cho đầu tư phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.14 KB, 45 trang )

Thực trạng huy động nguồn vốn dân cư cho đầu tư phát triển.
1.1.Khái quát về tình hình kinh tế-xã hội của thành phố Hà Nội.
Hà Nội - mảnh đất có truyền thống nghìn năm văn hiến và lừng lẫy chiến
công đánh giặc, nơi định đô của các vương triều phong kiến tự chủ Việt Nam tự
hào là trung tâm đầu não chính trị của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á với bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9-1945, nay là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngay từ buổi đầu cách mạng, Hà
Nội đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Ngày 2-9-1945,
chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng
trường Ba Đình. Là trái tim đất nước, Hà Nội hội tụ các cơ quan lãnh đạo của
Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể xã hội. Thủ đô cũng là
nơi diễn ra các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các kỳ họp Quốc hội, mà
từ đó đã đưa ra các nghị quyết, đường lối, sách lược đối nội và đối ngoại cho
từng giai đoạn xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đại sứ quán của nhiều
quốc gia trên thế giới đều đặt ở Hà Nội. Mọi hoạt động ngoại giao, thăm viếng,
trình quốc thư, hội đàm, ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác được tiến hành tại
đây. Người Hà Nội còn giữ mãi hình ảnh những ngày hoạt động tưng bừng và
sôi động; những cuộc đón tiếp anh em bầu bạn từ bốn phương xa đến với Việt
Nam. Hà Nội tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn mà Việt Nam đăng
cai như Hội nghị cấp cao các nước có sử dụng tiếng Pháp, Hội nghị cấp cao các
nước ASEAN...
Nếu như cách đây gần 1000 năm, Thăng Long đã có Văn Miếu-Quốc Tử
Giám, trường đại học đầu tiên của nước ta, thì nay Hà Nội là nơi tập trung 44
trường đại học và cao đẳng của đất nước, với hơn 330 nghìn học sinh - sinh
viên. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tất cả các trường ở Việt Nam đều dùng
tiếng Việt. Bên cạnh đó là 25 trường trung học chuyên nghiệp với 15 nghìn học
viên, tăng gấp 13 lần năm học sau giải phóng. Tính bình quân cứ 3 người Hà
Nội có một người đang đi học. Nhiều học sinh Hà Nội đạt giải cao trong các kỳ
thi quốc gia và quốc tế. Hà Nội còn là địa phương đầu tiên trong cả nước được
công nhận phổ cập xong cấp trung học cơ sở, có một số trường đặc biệt dạy trẻ
em khuyết tật.


Sau một thời gian dài của thời kỳ bao cấp, từ đầu thập niên 1990, kinh tế
Hà Nội bắt đầu ghi nhận những bước tiến mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân của thành phố thời kỳ 1991–1995 đạt 12,52%, thời kỳ 1996–2000 là
10,38%. Từ năm 1991 tới 1999, GDP bình quân đầu người của Hà Nội tăng từ
470 USD lên 915 USD, gấp 2,07 so với trung bình của Việt Nam. Theo số liệu
năm 2000, GDP của Hà Nội chiếm 7,22% của cả quốc gia và khoảng 41% so
với toàn vùng Đồng bằng sông Hồng.
Giai đoạn phát triển của thập niên 1990 cũng cho thấy Hà Nội đã có những
thay đổi về cơ cấu kinh tế. Từ 1990 tới 2000, trong khi tỷ trọng ngành công
nghiệp tăng mạnh từ 29,1% lên 38% thì nông–lâm nghiệp và thuỷ sản từ 9%
giảm xuống còn 3,8%. Tỷ trọng ngành dịch vụ cũng giảm trong khoảng thời
gian này, từ 61,9% xuống còn 58,2%. Ngành công nghiệp của Hà Nội vẫn tập
trung vào 5 lĩnh vực chính, chiếm tới 75,7% tổng giá trị sản xuất công nghiệp,
là cơ–kim khí, điện–điện tử, dệt–may–giày, chế biến thực phẩm và công nghiệp
vật liệu. Bên cạnh đó, nhiều làng nghề truyền thống như gốm Bát Tràng, may ở
Cổ Nhuế, đồ mỹ nghệ Vân Hà... cũng dần phục hồi và phát triển.
Năm 2007, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng,
trong khi con số của cả Việt Nam là 13,4 triệu. Hà Nội là một trong những địa
phương nhận được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu
USD và 290 dự án. Thành phố cũng là địa điểm của 1.600 văn phòng đại diện
nước ngoài, 14 khu công nghiệp cùng 1,6 vạn cơ sở sản xuất công nghiệp.
Nhưng đi đôi với sự phát triển kinh tế, những khu công nghiệp này đang khiến
Hà Nội phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường. Bên cạnh những công ty
nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế Hà Nội. Năm 2003, với gần 300.000 lao động, các doanh nghiệp tư nhân
đã đóng góp 77% giá trị sản xuất công nghiệp cùa thành phố. Ngoài ra, 15.500
hộ sản xuất công nghiệp cũng thu hút gần 500.000 lao động. Tổng cộng, các
doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 22% tổng đầu tư xã hội, hơn 20% GDP, 22%
ngân sách thành phố và 10% kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội. Sau khi mở rộng
địa giới hành chính, với hơn 6 triệu dân, Hà Nội có 3,2 triệu người đang trong

độ tuổi lao động. Mặc dù vậy, thành phố vẫn thiếu lao động có trình độ chuyên
môn cao. Nhiều sinh viên tốt nghiệp vẫn phải đào tạo lại, cơ cấu và chất lượng
nguồn lao động chưa dịch chuyển theo yêu cầu cơ cấu ngành kinh tế. Hà Nội
còn phải đối đầu với nhiều vấn đề khó khăn khác. Năng lực cạnh tranh của
nhiều sản phẩm dịch vụ cũng như sức hấp dẫn môi trường đầu tư của thành phố
còn thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chậm, đặc biệt cơ cấu nội ngành
công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực mũi nhọn. Chất lượng quy hoạch
phát triển các ngành kinh tế ở Hà Nội không cao và thành phố cũng chưa huy
động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư.
Thành phố Hà Nội có số dân khoảng 6,1 triệu ngưới.Dân cư Hà Nội phân
bố không đều giữa các lãnh thổ hành chính và giữa các vùng sinh thái. Mật độ
dân số trung bình của Hà Nội là 2881 người/km
2
(mật độ trung bình ở nội thành
19163 người/km
2
, riêng quận Hoàn Kiếm là 37265 người/km
2
, ở ngoại thành
1721 người/km
2
). Mật độ này cao gấp gần 12 lần so với mức trung bình của cả
nước, gần gấp đôi mật độ dân số của vùng đồng bằng sông Hồng và là thành
phố có mật độ cao nhất cả nước.
Việc dân số tăng quá nhanh cùng quá trình đô thị hóa không được quy
hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở thành một thành phố chật chội, ô nhiễm và giao
thông nội ô thường xuyên ùn tắc. Nhiều di sản kiến trúc của thành phố đang dần
biến mất, thay thế bởi những ngôi nhà ống nằm lộn xộn trên khắp các con phố.
Hà Nội còn là một thành phố phát triển không đồng đều với nhiều khu vực
ngoại thành lạc hậu, nơi người dân vẫn chưa có được những điều kiện sinh hoạt

thiết yếu.
Hà Nội là trung tâm chính trị,kinh tế văn hóa giáo dục của cả nước.Bên
cạnh đó còn nhiều bất cập như mật độ dân số tăng nhanh cộng với quy hoạch
kiến trúc đô thị còn lộn xộn vì vậy nhất thiết phải tăng cường thu hút vốn cho
đầu tư phát triển để xây dựng Hà Nội thành một thành phố bền vững trong
tương lai.Bên cạnh việc huy động vốn từ ngân sách,từ các nguồn vốn nước
ngoài thì nguồn vốn trong dân cư về dài hạn là vô cùng quan trọng.Thực tế phát
triển thế giới cho thấy,bất kỳ nước nào cũng đều sử dụng nguồn lực nội bộ là
chính.Nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài,dù là viện trợ,cho vay hay đầu tư từ
nước ngoài cũng không thể thay thế nguồn vốn trong nước.Hơn nữa các nguồn
vốn nước ngoài không phải là vốn cho không mà đều có điều kiện và phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố.Về lâu dài vốn vay phải trả cả gốc lẫn lãi,còn FDI phải
dành một phần cho chuyển lãi và vốn gốc về chính quốc.
Xét dưới góc độ tổng quát,nguồn vốn trong dân cư có vai trò:
-Lăm tăng vốn đầu tư toàn xã hội,trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư trong
nước.
-Đáp ứng sự linh hoạt phương thức,qui mô,lĩnh vực đầu tư,từ đó góp phần
làm tăng hiệu quả đầu tư của xã hội.
Với GDP bình quân đầu người vào mức cao của cả nước thì việc huy động
tối đa các nguồn vốn dân cư cho đầu tư phát triển kinh tế là cần thiết hơn bao
giờ hết.
1.2.Thực trạng huy động nguồn vốn dân cư cho đầu tư phát triển.
Để thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thì cần phải có
một nguồn vốn lớn.Chính sách huy động và sử dụng vốn là một bộ phqqnj quan
trọng trong chính sách tài chính -tiền tệ quốc gia,nó liên quan đến chính sách
phân phối thu nhập trong phạm vi toàn xã hội,tác động trực tiếp đến các mối
quan hệ tích lũy,tiêu dùng và các chính sách tiền tệ tín dụng.
Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp hoá và hiện đại hoá
trong 20 năm đầu của thế kỷ 21, Việt Nam phải hoàn tất củng cố hệ thống cơ sở
hạ tầng. Điều này yêu cầu một nguồn vốn khổng lồ, bao gồm quỹ Nhà nước và

vốn từ các cá nhân cả trong nước và nước ngoài, cũng như sự hợp tác chặt chẽ
giữa Nhà nước và cá nhân trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia
nói chung và cơ sở hạ tầng giao thông nói riêng.
Theo báo cáo Phát triển Việt Nam 2007 của ngân hàng Thế giới, đầu tư
hàng năm của Việt Nam vào cơ sở hạ tầng chiếm từ 9-10% GDP (tỉ lệ cao nhất
so với tiêu chuẩn quốc tế). Tuy nhiên, cả Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng
Phát triển Châu Á đều cho rằng, để duy trì tỉ lệ hiện tại, Việt Nam nên tăng đầu
tư vào cơ sở hạ tầng đến 11-12% trong tổng GDP.
Theo Thứ trưởng Sở Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Bích Đạt, đầu tư vào phát
triển cơ sở hạ tầng phải gấp 2 lần tỉ lệ tăng trưởng kinh tế, nếu không, mọi thứ
sẽ phải được bố trí lại.
Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp phát triển vào năm
2020, Việt Nam phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và toàn diện.
Giai đoạn 2007-2008, đất nước cần khoản 30 tỉ USD/năm để phát triển cơ sở hạ
tầng. Hiện tại, gần 40% trong tổng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là được
cung cấp từ nguồn vốn quốc tế, trong khi đó, chỉ 15% là từ tư nhân.
Đối với nhu cầu đầu tư vốn để nâng cao hệ thống giao thông cho đến năm
2020, mỗi năm Việt Nam cần 117.744 tỉ VND (gần 7,4 tỉ USD), trong khi hiện
tại, khả năng đáp ứng nhu cầu trên chỉ ở mức 2-3 tỉ USD, chủ yếu từ ngân sách
Nhà nước, ODA và trái phiếu Chính phủ. Theo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam (BIDV), con số này chỉ đáp ứng 20-30% tổng nhu cầu.
Hà Nội là trung tâm tài chính-tiền tệ lớn nhất Miền Bắc và đứng thứ hai
đất nước sau thành phố Hồ Chí Minh.Trong những năm qua,Hà Nội đã thu hút
được khá nhiều nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Phương hướng và nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đã được khẳng định
và thể chế hóa qua nghị quyết của Bộ chính trị về phương hướng,nhiệm vụ phát
triển thủ đô trong thời kỳ 2001-1010 và Pháp lệnh Thủ đô,theo đó mục tiêu đề
ra là đến năm 2010,tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của Hà Nội đạt
khoảng 9%,GDP bình quân đầu người đạt 2100-2200USD/người,cơ cấu kinh tế
là:dịch vụ 56%.công nghiệp 42%,nông nghiệp 2%.

Để thực hiện được các mục tiêu nói trên,việc huy động tối đa các nguồn
lực tài chính cho đầu tư phát triển thủ đô đóng vai trò quyết định.Theo ước
tính,trong thời kỳ 2001-2010,nhu cầu về vốn đầu tư phát triển trên địa bàn thành
phố Hà Nội 329.000 tỷ đồng,bình quân hàng năm nhu cầu về vốn là 32.900 tỷ
đồng.
1.3.Kết quả huy động nguồn vốn trong dân cư cho đầu tư phát triển
kinh tế qua các kênh chính thức chủ yếu.
1.3.1.Huy động nguồn vốn dân cư cho NSNN theo kênh phát hành trái
phiếu chính phủ thông qua kho bạc nhà nước.
Việt Nam bắt đầu tiến hành huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu
thí điểm từ 1991 và tính đến 2005, Bộ Tài chính đã huy động được 200 ngàn tỷ
đồng. Trong đó, giai đoạn 2000-2005 là huy động nhiều nhất. Hiện nay, trái
phiếu Chính phủ đang là lượng hàng hoá lớn nhất trên thị trường chứng khoán
Việt Nam.
Trong giai đoạn 2001 - 2005, Chính phủ đã phát hành khoảng gần 60.000 tỉ
đồng trái phiếu; trong đó 50.000 tỉ đồng phát hành qua Kho bạc Nhà nước,
8.000 tỉ đồng phát hành qua đấu giá trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.Toàn bộ số vốn phát hành trái phiếu Chính phủ
nói trên được Bộ Tài chính để Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam
vay lại đầu tư cho các dự án đóng tàu.
Bảng 1: Các đợt huy động vốn của kho bạc Hà Nội.
Năm 1995 6.681.015
Đợt 1 6 tháng 1,7 2.060.901
Đợt 2 12 tháng 21 4.620.114
Năm 1996 734.482
Đợt 1 12 tháng 16 260.302
Đợt 2 12 tháng 12 474.180
Năm 1997 1.218.956
Đợt 1 24 tháng 12 925.087
Đợt 2 24 tháng 14 293.869

Năm 1998 638.570
Đợt 1 24 tháng 12 29.341
Đợt 2 24 tháng 12 149.616
Đợt 3 24 tháng 13 412.874
Đợt 4 24 tháng 14 46.739
Năm 1999 3.814.207
Đợt 1 24 tháng 13 893.837
Đợt 2 60 tháng 10 2.920.370
Năm 2000 1.024.000
Đợt 1 24 tháng 7 591.000
Đợt 2 60 tháng 6.4 433.000
Năm 2001 759.528
Đợt 1 24 tháng 6.8 637.749
Đợt 2 24 tháng 7.0 80.426
Đợt 3 60 tháng 7.2 41.353
Năm 2002 759.528
Đợt 1 24 tháng 7.1 167.796
Đợt 2 24 tháng 7.4 277.446
Đợt 3 24 tháng 7.8 273.545
Năm 2003 2.513.876
Đợt 1 24 tháng 8.2 293.824
Đợt 2 60 tháng 8.0 1.490.747
Đợt 3 24 tháng 8.4 140.818
Đợt 4 24 tháng 8.2 147.761
Đợt 5 60 tháng 8.5 44.726
Năm 2004 1.323.071
Đợt 1 24 tháng 8.2 788.962
Đợt 2 60 tháng 8.5 534.109
Năm 2005 2.459.648
Đợt 1 24 tháng 8.4 381.903

Đợt 2 60 tháng 8.2 2.077.745
Đợt 3 60 tháng 8.6 120.198
Nguồn:Kho bạc Hà Nội
Để chủ động hơn trong việc sử dụng vốn từ năm 1996.KBNN đã ngừng
phát hành trái phiếu loại 1 năm để phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm.Thời hạn
phát hành trái phiếu thường là 2 năm.Lãi suất trái phiếu cũng được điều chỉnh
giảm dần từ 16% năm 1996 xuống còn khoảng trên dưới 8% cho đến hiện nay.
Về huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP), tính đến hết
ngày 24/12/2008, Kho bạc Nhà nước đã huy động được trên 39.627 tỷ đồng,
bằng 63,6% kế hoạch được giao. Trong năm 2008, đã có 70 thành viên thị
trường tham gia vào thị trường đấu thầu TPCP, 40 thành viên bảo lãnh phát
hành.
Trong 2 năm 2005 và 2006,Hà Nội đã phát hành TPCQĐP qua KBNN
thành phố thu được 1500 tỷ đồng dùng để đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị(cầu Nhật
Tân và đường 5 kéo dài).Thời hạn huy động chủ yếu là 5 năm với lãi suất gần
8%.
Ngày 1/4/2009, UBND TP Hà Nội vừa phê duyệt kế hoạch đầu tư 400 tỷ
đồng đợt 1 năm 2009 theo cơ chế cấp phát các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật,
và nhà ở xã hội trên địa bàn Thủ đô.
Cụ thể, ngân sách TP sẽ tạm ứng 200 tỉ đồng thực hiện các dự án đầu tư
theo cơ chế cấp phát thuộc kế hoạch năm 2008 nhưng mất cân đối nguồn do hụt
thu nguồn tiền sử dụng đất, tiền bán nhà phục vụ tái định cư thuộc kế hoạch thu
năm ngoái, chuyển tiếp sang kế hoạch đầu tư năm 2009.
Một số dự án thuộc kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản điều chỉnh năm
2008 giao Kho bạc Nhà nước thành phố thanh toán như: Nhà NƠ1 đô thị mới
Định Công; Nhà N1A, N1B, N5A, N5BC, N5D đô thị mới Trung Hòa - Nhân
Chính; cụm nhà ở cao tầng trên ô đất N2A, N2B, N2C, N2D, N2E, N2F cũng
thuộc khu Trung Hòa - Nhân Chính...
1.3.2.Huy động vốn dân cư qua kênh ngân hàng và các tổ chức tín
dụng.

Với mục đích huy động nguồn vốn lớn trong dân cư,hệ thống ngân hàng đã
thực hiện nhiều cải cách theo hướng thị trường hóa và hiện đại hóa nhằm tăng
cường khả năng huy động vốn và tăng cường lòng tin của công chúng trong hệ
thống ngân hàng.
Bên cạnh đó,ngân hàng cũng đưa ra quy chế mới về tiết kiệm của cá nhân
và hộ gia đình.Nội dung cải cách gồm:
-Quy định đối tượng gửi tiết kiệm bao gồm cả cá nhân nước ngoài đang
sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
-Cho phép các TCTD được tự quy định các điều kiện và điều khoản đối
với hoạt động gửi tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình.Nội dung cải cách bao
gồm:
-Quy định đối tượng gửi tiết kiệm bao gồm cả cá nhân nước ngoài đang
sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
-Cho phép các tổ chức tín dụng được tự quy định các điều kiện và các
điều khoản đối với hoạt động gửi tiết kiệm như thời hạn,các hình thức huy
động…
-Cho phép tổ chức tín dụng tổ chức việc nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm
tại các địa điểm giao dịch khác nhau trong cùng hệ thống.
-Cho phép tổ chức tín dụng áp dụng chức năng thanh toán đối với tài khoản
riền gửi tiết kiệm của người gửi tiền trong một số trường hợp.
Đánh giá việc huy động vốn của thành phố Hà Nội trong thời gian qua:
Tốc độ tăng trưởng tổng nguồn vốn huy động bình quân của các TCTD
của thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2005 đạt trên 23% /năm(dự kiến năm
2006 vốn huy động tăng hơn 30% so với năm 2005).thấp hơn mức tăng trưởng
bình quan của toàn ngành ngân hàng(24%/năm).Tiền gửi của dân cư và các
doanh nghiệp ,đặc biệt là nguồn vốn có thời hạn trên 1 năm tăng khá trong
những năm gần đây đã tạo được thế chủ động trong cho vay và đầu tư trung và
dài hạn.Đây là yếu tố quan trọng đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế-xã
hội và phát triển các ngân hàng trên địa bàn.
Bảng 2:Nguồn huy động vốn của các tổ chức dân cư thông qua hệ

thống ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đơn vị:tỷ đồng
2000 2001 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng
nguồ
n vốn
huy
động
74.47
7
92.50
0
147.17
5
172.16
0
175.22
7
231.77
9
397.85
2
483.97
2
Trong
đó
Tổ
chưc
kinh
tế

41.21
4
51.27
0
90.917 107.41
0
96.559 128.27
1
292.41
7
320.65
9
Dân

33.26
3
41.23
0
56.228 64.750 78.668 13.508 105.43
5
163.31
3
Nguồn:Tổng cục thống kê Hà Nội.
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng đã tìm mọi biện pháp
đẩy mạnh huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế thông qua phát triển
mạng lưới các chi nhánh trực thuộc,các phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm,mở
rộng phạm vi và nâng cao chất lượng thanh toán.Các phương thức huy động vốn
và công cụ lãi suất đã được đáp ứng một cánh linh hoạt đa dạng.
Đặc biệt các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng còn quan tâm
và chú trọng hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống,phát triển

dịch vụ ngân hàng hiện đại đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng,đáp ứng
nhu cầu ngày càng tốt hơn của khách hàng và đáp ứng nhu cầu của phát triển
kinh tế,bao gồm:dịch vụ thanh toán,dịch vụ ngân quỹ.dịch vụ thu đổi ngoại
tệ,nhận và chi trả kiều hối.dịch vụ tư vấn , thanh toán liên ngân hàng qua mạng
máy vi tính,chuyển tiền điện tử.dịch vụ rút tiền tự động(qua máy ATM),ngân
hàng điện tử…Kết quả thu nhập từ hoạt động dịch vụ của cá ngân hàng và tổ
chức tín dụng không ngừng được nâng lên.
Các dịch vụ ngân hàng hiện đại được ứng dụng với những tiện ích do công
nghệ mới hiện đại mang lại đã có ý nghĩa kinh tế xã hội,khuyến khích dân cư
mở rộng giao dịch với ngân hàng,giảm lượng tiền mặt trong lưu thông,góp phần
phát triển thương mại điện tử.Hiện nay ngân hàng nhà nước Việt Nam và tất cả
các ngân hàng thương mại đã xây dựng website để giới thiệu về hoạt động của
mình,thông tin các dịch vụ ngân hàng.trên 80% nghiệp vụ ngân hàng được tin
học hóa,công nghệ tin học được ứng dụng trực tiếp vào công tác thanh
toán.Đồng thời phần lớn các ngân hàng thương mại đã giao dịch một cửa,đặc
biệt là trong giao dịch nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm,áp dụng phần mềm vi
tính cho quá trình giao dịch nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm,tiền gửi tài khoản
cá nhân,áp dụng mã số hóa tiền gửi tiết kiệm,áp dụng phần mềm vi tính cho quá
trình giao dịch nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm nhằm nâng cao chất lượng dịch
vụ nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
1.3.3.Huy động vốn trong dân cư qua trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội.
TTCK Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới.TTCK bước
vào giai đoạn bùng nổ về quy mô,đặc biệt là thị trường cổ phiếu.Kể từ khi thành
lập tính đến ngày 31/3/2009,có 177 công ty đăng ký giao dịch trên TTGDCK
Hà Nội. TTCKVN đã thực sự thể hiện được vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng
của nền kinh tế. Theo thống kê của UBCKNN, năm 2007 TTCKVN đã huy
động được 90.000 tỷ đồng vốn cho các doanh nghiệp bao gồm cả hoạt động
phát hành, đấu giá trên thị trường chính thức:
• UBCKNN đã cấp phép chào bán cổ phiếu cho 179 công ty, với tổng cộng 2.460

triệu cổ phiếu được phát hành ra công chúng, tương ứng với khoảng 48.000 tỷ
đồng, gấp 25 lần năm 2006.
• UBCKNN cũng tổ chức phát hành được 3.468 triệu trái phiếu, tương đương
3.750 tỷ đồng cho 3 NHTM cổ phần;
• UBCKNN chấp thuận phát hành 25 triệu chứng chỉ quỹ, tương đương 250 tỷ
đồng cho quỹ đầu tư tăng trưởng Manulife.
Trải qua nhiều thăng trầm, TTCKVN năm 2007 vẫn đạt được mức tăng
trưởng vượt bậc, giá trị vốn hóa thị trường đạt 43,7% GDP - một con số không
nhỏ so với một thị trường còn non trẻ như Việt Nam. Trong đề án phát triển thị
trường vốn của Bộ Tài chính trình Chính phủ trong năm 2007, mốc 50% GDP
vào năm 2010 và đến năm 2020 đạt 70% GDP.
Tính đến 31/12/2008, tổng số doanh nghiệp niêm yết tại đây đã tăng lên
168 công ty, với tổng giá trị niêm yết đạt hơn 21,715 tỷ đồng, giá trị vốn hóa thị
trường đạt 55.174 tỷ đồng. Mặc dù thị trường sụt giảm so với thời điểm cuối
năm 2007, giá trị vốn hóa thị trường giảm trên 40%, nhưng quy mô niêm yết
trong năm 2008 đã tăng mạnh: số lượng công ty niêm yết tăng 50%, khối lượng
niêm yết tăng 62,8%.
Bảng 3:Quy mô niêm yết trên TTGDCK Hà Nội.
Loại
chứng
khoán
7-12/2005 2006 2007 2008
Số
lượn
g
Giá trị
niêm
yết(tỷ
đồng)
Số

lượn
g
Giá trị
niêm
yết(tỷ
đồng)
Số
lượn
g
Giá trị
niêm
yết(tỷ
đồng)
Số
lượn
g
Giá trị niêm
yết(tỷ đồng)
Cổ
phiếu
6 118,255 84 14.054,79
3
113 18.758,40
8
171 37.824,298
Trái
phiếu
7 1200 78 17270 157 64.175,59
8
501 158.503,59

8
Toàn
thị
trườn
13 1318,25
5
162 34.324,79
3
270 81.934,00
6
672 212.154,84
8
g
Nguồn:TTGDCK Hà Nội.
1.3.3.1.Về hoạt động đấu giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Hà
Nội.
Tính đến thời điểm ngày 31/3/2006.trên TTGDCK Hà Nội có 10 công ty
thực hiện đăng ký giao dịch cổ phiếu với vốn hóa trên thị trường trên 2.300 tỷ
đồng và 6 loại trái phiếu với tổng trị giá 1.060 tỷ đồng.Nhưng đến ngày
22/12/2006,đã có đến 87 tổ chức đăng ký giao dịch cổ phiếu trên thị trường là
32.096 tỷ đồng và 90 loại trái phiếu với tổng giá trị là 18.140 tỷ đồng.
Năm 2007 đã diễn ra nhiều cuộc đấu giá và IPO các doanh nghiệp lớn với
số lượng cổ phần chào bán đạt mức kỷ lục trong lịch sử 7 năm hoạt động của
TTCK với một số tên tuổi tiêu biểu sau:
Tên doanh
nghiệp
Vốn điều
lệ(tỷ đồng)
Số lượng cổ
phiếu đấu giá

Giá trúng
thầu bình
quân(đồng/cổ
phiếu)
Thời gian
đấu giá
PVFCCo 3.800 128.626.000 54,403 24/04/2007
Tập đoàn
Bảo Việt
6.800 59.440.000 73,910 31/05/2007
Tài chính dầu
khí
5.000 59.638.900 69,974 19/10/2007
Vietcombank 15.000 97.500.000 107,680 26/12/2007
Nguồn: TTGDCK Hà Nội.
Về nhà đầu tư tham gia đấu giá,năm 2005 có tới 4.085 lượt nhà đầu tư
tham gia đấu giá;2.880 lượt nhà đầu tư đã trúng giá,trong đó có 2.734 nhà đầu
tư cá nhân trúng giá.Như vậy trung bình có 146 nhà đầu tư tham gia vào một
đợt đấu giá,trung bình có 103 nhà đầu tư trúng giá trong một phiên đấu
giá.Tổng số cổ phần đăng ký đặt mua cao hơn 16,7% so với tổng số cổ phần
chào bán.Số tiền chênh lệch giữa giá khởi điểm và giá trúng thầu là 1.500
đồng.Nói cách khác thông qua đấu giá cổ phần nhà nước đã thu được khoản
chênh lệch gần 300 tỷ đồng so với giá khởi điểm.
Nếu tính đến thời điểm ngày 31/12/1007 thì tổng số đợt đấu giá đã thực
hiện là 53 đợt.Tổng số đợt nhà đầu tư tham gia đăng ký đấu giá là 59.808,có
17.973 nhà đầu tư đã trúng giá trong đó có 17.602 nhà đầu tư cá nhân trúng thầu
và 371 nhà đầu tư có tổ chức trúng thầu.Như vậy trung bình có 1129 nhà đàu tư
tham gia vào một đợt đấu giá.
THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG ĐẤU GIÁ CỔ PHẦN TẠI TTGDCKHN
(chỉ bao gồm các đợt đấu giá do TTGDCKHN chủ trì)

Cập nhật: 1/1/2007 - 31/12/2007

STT CHỈ TIÊU NỘI DUNG
1 Tổng số đợt đấu giá đã thực hiện 53
2 Tổng số cổ phần chào bán 331 134 518
3 Tổng giá trị cổ phần bán đấu giá 3 311 345 180 000
4 Tổng số nhà đầu tư đăng ký tham
gia đấu giá
59 808
5 Tổng số cổ phần đăng ký mua 1 207 024 357
6 Tổng số nhà đầu tư tham gia hợp
lệ
51 0
7 Tổng số nhà đầu tư trúng giá:
Tổ chức:
Cá nhân:
17 973
371
17 602
8 Tổng số cổ phần trúng giá 285 299 763
9 Tổng giá trị cổ phần trúng giá 14 847 720 279 200
10 Tổng giá trị chênh lệch so với
mệnh giá
11 993 569 569 200
11 Tổng giá trị chênh lệch so với giá 6 628 471 662 800
khởi điểm


Năm 2006
STT

CHỈ TIÊU NỘI DUNG
1 Tổng số đợt đấu giá đã thực hiện
40
2 Tổng số cổ phần chào bán 258.191.736
3 Tổng giá trị cổ phần bán đấu giá 2.599.590.120.000
4 Tổng số nhà đầu tư đăng ký tham gia
đấu giá
29.633
5 Tổng số cổ phần đăng ký mua 1.160.332.422
6 Tổng số nhà đầu tư tham gia hợp lệ 29.347
7

Tổng số nhà đầu tư trúng giá 5.279
+ Tổ chức: 190
+ Cá nhân: 5.089
8 Tổng số cổ phần trúng giá
213.987.456
9 Tổng giá trị cổ phần trúng giá 7.746.140.938.760
10 Tổng giá trị chênh lệch so với mệnh
giá
5.588.658.418.760
11 Tổng giá trị chênh lệch so với giá khởi
điểm
5.205.880.021.690

NĂM 2005
STT
CHỈ TIÊU NỘI DUNG
1 Tổng số đợt đấu giá đã thực hiện 28
2 Tổng số cổ phần chào bán 204.523.854

3 Tổng giá trị cổ phần bán đấu giá 2.128.186.749.750
4 Tổng số nhà đầu tư đăng ký tham gia
đấu giá
4.085
5 Tổng số cổ phần đăng ký mua 238.686.830
6 Tổng số nhà đầu tư tham gia hợp lệ 4.075
7

Tổng số nhà đầu tư trúng giá 2.880
+ Tổ chức: 137
+ Cá nhân: 2.743
8 Tổng số cổ phần trúng giá 184.058.194
9 Tổng giá trị cổ phần trúng giá 2.039.215.515.900
10 Tổng giá trị chênh lệch so với mệnh giá 329.903.575.900
11 Tổng giá trị chênh lệch so với giá khởi
điểm
274.109.285.200
Nguồn:TTGDCK Hà Nội.
Ngày càng có nhiều doanh nghiệp huy động thêm vốn thành công qua
TTCK.Nhìn chung tất cả các công ty niêm yết đều có mức tăng trưởng khá cả
về doanh thu và lợi nhuận,trình độ quản lý,trình độ quản trị công ty được nâng
cao và tính công khai minh bạch ngày càng được tăng cường nên càng thuận lợi
trong việc huy động vốn.
b.Hoạt động giao dịch trên TTGDCK Hà Nội.
Hastc-Index kết thúc năm 2008 với mức giảm 0.32 điểm xuống 105,12
điểm. Khối lượng giao dịch khớp lệnh toàn thị trường đạt 5,19 triệu cổ phiếu,
tương đương 118,6 tỷ đồng. Tính chung giao dịch thỏa thuận, tổng khối lượng
giao dịch phiên này là 6,13 triệu cổ phiếu, tương đương 166,79 tỷ đồng. Trong
đó, cổ phiếu ACB giao dịch thỏa thuận 500.000 đơn vị và khối ngoại mua thỏa
thuận 600.000 cổ phiếu KBC.Ba cổ phiếu có dư mua trần nhiều nhất phiên đều

là 3 cổ phiếu nhỏ: HNM có dư mua trần 195.500 cổ phiếu (giá 10.300 đồng);
POT (dư mua 133.000 cp giá 8.900 đồng), V11 (dư mua 77.400 cp giá 11.800
đồng); HBE (dư mua 82.300 cp giá 9.700 đồng). Các cổ phiếu tăng giá mạnh
nhất phiên này trên sàn Hà Nội là SPP, VBH, NPS và KBC (cũng tăng 1.000
đồng), VTL tăng 900 đồng. Ngoài KBC giao dịch khớp lệnh 38.200 cổ phiếu,
các mã còn lại đều giao dịch dưới 1.000 đơn vị.Như vậy, kết thúc phiên giao
dịch ngày 31/12/2008, Hastc-Index đã để mất 217,22 điểm so với đầu năm.
Năm VN-
index
(31/1
2)
KLGD
(CP&CCQ)
GTGD
(1000đ)
Hastc
index
(31/12)
KLGD
(CP)
GTGD
(1000đ)
2000 207 3.641.000 90.214.760 0 0
2001 235 19.028.200 964.019.550 0 0
2002 183 35.715.939 959.329.653 0 0
2003 167 28.074.150 502.022.234 0 0
2004 239 76.393.008 2.003.868.492 0 0
2005 308 120.959.797 3.040.370.004 96,24 20.423.383 264.372.635
2006 752 643.281.249 38.175.024.441 242,89 95.606.426 3.917.384.521
2007 927.0

2
2.008.535.798 205.732.389.629 323,55 612.038.93
3
63.422.391.065
2008 315.6
2
367.992.000.000 105,12 1.531.376.1
37
57.122.358.541
Nguồn:TTGDCK Hà Nội.
Theo Giám đốc HASTC, ông Trần Văn Dũng, trong năm 2008, với 248
phiên giao dịch, tổng giá trị giao dịch cả năm đạt hơn 57.122 tỉ đồng, giảm
10,6% so với năm 2007. Tuy nhiên, xét về khối lượng giao dịch trong năm lại
tăng khá mạnh, với tổng khối lượng giao dịch đạt 1.531 triệu cổ phiếu, tăng gấp
gần 2,5 lần năm 2007. Khối lượng giao dịch bình quân phiên trong năm 2008
đạt 6,17 triệu cổ phiếu, tăng 148% so với năm 2007. Giá trị giao dịch bình quân
phiên đạt 230 tỉ đồng/phiên.Trong năm 2008, HASTC đã nhận được 76 bộ hồ
sơ từ các doanh nghiệp xin niêm yết và đã chấp thuận đưa 53 cổ phiếu vào giao
dịch.
Kênh chứng khoán đang dần thể hiện vai trò thu hút vốn đầu tư của dân
cư,bên cạnh kênh truyền thống là ngân hàng và các kênh khác như bảo hiểm,bất
động sản…Đến cuối năm 2006,số lượng của nhà đầu tư chứng khoán mở tại các
công ty chứng khoán chỉ đạt 86.184 tài khoản, nhưng đến cuối năm 2007 toàn
thị trường có 327.000 tài khoản giao dịch mở tại các công ty chứng khoán(tăng
240.816 tài khoản,tương đương 279% so với cuối năm 2006).Khối lượng các
nhà đầu tư cá nhân chiếm khoảng 80-90% tài khoản giao dich trên thị
trường.Với đà tăng trưởng như hiện nay,số lượng các nhà đầu tư sẽ tăng lên từ
3-4 lần so với hiện tại,đạt khoảng 900-1000 nghìn tài khoản.Sự gia tăng về số
lượng tài khoản giao dịch chứng khoán là một dấu hiệu khả quan về sự quan
tâm và tham gia vào TTCK của công chúng đầu tư.Hơn nữa so với các năm

trước,năm nay các nhà đầu tư cũng đã trưởng thành hơn,và ngày càng tỏ ra
chuyên nghiệp hơn.Trình độ và nhu cầu về đầu tư chứng khoán của các nhà đàu
tư cá nhân hay tổ chức ngày một tăng.Tâm lý đầu tư theo phong trào đã giảm
thiểu đáng kể, góp phần tạo sự ổn định cho thị trường.
1.3.4.Huy động vốn qua các doanh nghiệp bảo hiểm.
Bảo hiểm là ngành dịch vụ có vị trí quan trọng trong nền kinh tế.Bảo hiểm
không chỉ thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế mà còn góp phần đảm
bảo ổn định tài chính cho các cá nhân,gia đình,cho mọi tổ chức và các doanh
nghiệp.
Thị trường bảo hiểm là nơi dẫn vốn để cho các doanh nghiệp bảo hiểm
thực hiện các vai trò trung gian trung gian tài chính;vai trò nhà đầu tư có tổ
chức và vai trò các tổ chức phát hành.
Với vai trò là trung gian tài chính,các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động
trên lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ đã khẳng định là một kênh huy động vốn quan

×