Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.03 KB, 23 trang )

TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1/ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1/ Khái niệm tín dụng ngân hàng
Ở mỗi bộ phận trong nền kinh tế, trong bất kỳ một thời điểm nào, luôn có tình
trạng mất cân đối trong luồng tiền ra và luồng tiền vào hay luôn tồn tại những nguồn tài
chính dư thừa chưa được sử dụng, được đưa ra ngoài dưới dạng tiết kiệm nhưng tồn tại
song song với nó luôn có một bộ phận thiếu hụt tài chính có nhu cầu về vốn trong nền
kinh tế. Như vậy, ở những nơi có nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi sẽ xuất hiện sự lãng
phí, nhưng ngược lại, ở những nơi mà nguồn tài chính đang ở trạng thái thiếu hụt, ở đó
cơ hội đầu tư không được tận dụng và khả năng sinh lời bị đánh mất, điều đó làm cho
nền kinh tế không ở trạng thái toàn dụng, các nguồn lực không được phát huy một cách
triệt để. Từ đó, hình thức tín dụng sơ khai của nền kinh tế được hình thành: sự cho vay
và đi vay giữa các cá thể với nhau.
Tín dụng là một phạm trù phản ánh mối quan hệ kinh tế trong đó cá nhân hay tổ
chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hay hiện vật cho một cá nhân hay tổ
chức khác với những ràng buộc nhất định về: thời gian hoàn trả, lãi suất cho vay, cách
thức cho vay và thu hồi...
Thông thường, tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn bao gồm hai hành động
trái chiều nhau là đi vay và cho vay. Tuy nhiên khi thuật ngữ tín dụng được gắn liền với
một chủ thể nhất định như ngân hàng hoặc các trung gian tài chính khác, ví như thuật
ngữ TDNH thì nó chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay.
Ngày nay, do nhu cầu ngày càng tăng của các thành phần trong nền kinh tế,
nghiệp vụ của các ngân hàng ngày càng được mở rộng và phát triển, các hình thức tín
dụng trong ngân hàng theo đó cũng trở nên ngày một phong phú, đa dạng hơn. Theo
luật tổ chức TD thì "Hoạt động TD là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,
nguồn vốn huy động đế cấp tín dụng".
1.1.2/ Đặc trưng của hoạt động tín dụng ngân hàng
Quan hệ tín dụng chỉ được diễn ra khi những cá nhân, tổ chức có nhu cầu đi vay và
cho vay vốn gặp nhau trên thị trường với các ràng buộc về không gian thời gian và các điều
kiện khác đã được thoả mãn. Do đó nó mang các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, Quan hệ tín dụng ngân hàng phải được xuất phát từ sự tin tưởng hai


chiều giữa chủ thể cho vay là ngân hàng với chủ thể đi vay là khách hàng. Trong đó,
ngân hàng cần tin tưởng vào những khía cạnh như khả năng tài chính của người đi vay,
mong muốn trả nợ... tin tưởng vào khả năng người đi vay sẽ hoàn trả đầy đủ cả gốc và
lãi đúng thời như thời hạn mà hai bên đã cam kết. Ngược lại, ngân hàng đó cần có tạo
dựng được uy tín nhất định đối với người đi vay, giúp người đi vay tin rằng ngân hàng
có khả năng đáp ứng một cách tốt nhất những nhu cầu của mình về quan hệ tín dụng
cũng như các dịch vụ ngân hàng được kèm theo và có liên quan như: về số lượng vốn
vay, lãi suất cho vay, thời hạn- kế hoạch giải ngân cụ thể...
Thứ hai, Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị gốc ban đầu, tức là nó
bao hàm cả gốc và lãi. Phần lãi này được coi như một dạng doanh thu cho ngân hàng
nhằm bù đắp toàn bộ những khoản chi phí, rủi ro có liên quan và mang lại cho ngân
hàng một phần lợi nhuận.
Thứ bai, Quan hệ tín dụng có nguyên tắc hoàn trả, có nghĩa là ngân hàng chỉ
giao vốn cho người đi vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định đã được thoả
thuận trước và được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng, đến khi đáo hạn, nếu như không có
thoả thuận khác thì người đi vay phải hoàn trả toàn bộ số vốn đó cộng thêm phần thặng
dư cho ngân hàng như đã thỏa thuận từ trước.
Thứ tư, Hai bên tham gia vào quy trình tín dụng có nghĩa vụ phải thực hiện chính
xác như những gì đã cam kết trong hợp đồng đã ký như một quy định bắt buộc của
pháp luật trừ khi cả hai đi đến một sự đồng thuận trong việc thay đổi một phần hoặc
toàn bộ những gì đã thỏa thuận.
Thứ năm, Hoạt động tín dụng luôn ẩn chứa nhiều rủi ro do tính phong phú và đa
dạng của chính hoạt động này. Tính đa dạng của nó biểu hiện ở: đối tượng cho vay (có
thể là cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp hoạt động ở mọi lĩnh vực...), hình thức cấp tín
dụng (cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính...). Những hình thái biểu hiện rủi ro: rủi ro
trực tiếp từ chính hoạt động của ngân hàng như: rủi ro thanh khoản, rủi ro mất vốn do
hoạt động tín dụng mang lại, ngoài ra còn có những rủi ro mang tính gián tiếp khách
quan và chủ quan từ bên ngoài nền kinh tế như: lạm phát, khủng hoảng kinh tế, bất ổn
về chính trị xã hội trong việc thay đổi cách chính sách vĩ mô, đưa ra các quyết định,
hoạt động có tác động tới các hoạt động kinh tế...Do vậy, chủ động đề ra những biện

pháp linh hoạt, kịp thời nhằm phòng ngừa và hạn chế những rủi ro tín dụng có thể gặp
phải là một trong những yêu cầu tất yếu khi thực hiện hoạt động tín dụng ngân hàng.
Thứ sáu, Hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với hệ thống lưu thông tiền tệ
của một quốc gia. Biểu hiện chính của nó là các ngân hàng thương mại thông qua việc
huy động vốn và cho vay đã thực hiện đưa vốn tiết kiệm từ dân cư (vốn ngoài lưu
thông) vào quá trình đầu tư có hiệu quả làm tăng vòng quay vốn của nền kinh tế.
1.1.3/ Nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm
bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các
quy định của ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại.
1.1.3.1/ Mục đích cho vay
Trước khi nhận được khoản vay, ngân hàng phải có một cam kết xác nhận, ghi rõ
mục đích sử dụng của khoản vốn được vay và cam kết thực hiện đúng như mục đích đã
nêu ban đầu. Khách hàng có thể được vay để sử dụng với nhiều mục đích khác nhau
như vay sản xuất, tiêu dùng, đầu tư, bảo lãnh,...nhưng không được sử dụng vào các mục
đích mà ngân hàng và pháp luật nghiêm cấm hoặc có thể nằm ngoài phạm vi cho phép
của ngân hàng, ngoài ra, trong quá trình sử dụng, khác hàng không được phép tự ý thay
đổi mục đích sử dụng dưới mọi hình thức. Trong trường hợp khách hàng sử dụng sai
mục đích, tùy theo mức độ, ngân hàng có thể quyết định đơn phương ngừng cho vay,
thu hồi nợ sớm, phạt tiền, thậm chí khởi kiện trong những trường hợp gây hậu quả
nghiêm trọng.
1.1.3.2/ Khả năng sinh lời
Ngân hàng là một trong những tổ chức kinh doanh đặc biệt trong nền kinh tế với
mặt hàng giao dịch chính là tiền tệ- vốn nhận được những sự đòi hỏi đặc biệt về uy tín,
còn gọi là lĩnh vực kinh doanh lòng tin. Chính vì vậy, sinh lời với các ngân hàng không
chỉ mang tính chất cơ bản như bù đắp các chi phí, tổn thất phát sinh trong quá trình kinh
doanh cũng như thu về một mức lợi nhuận chấp nhận được cho chủ sở hữu, mức sinh
lời và sự ổn định, chắc chắn trong sự sinh lời còn được coi như một trong những yếu tố
quan trọng nhất trong việc đánh giá uy tín, tạo danh tiếng tốt cho ngân hàng.
1.1.3.3/ Đa dạng hóa rủi ro

Rủi ro là một trong những yếu tố tiêu biểu luôn hiện hữu trong hoạt động tín
dụng ngân hàng. Nếu khách hàng không có khả năng hoàn trả những khoản vay do
những điều kiện khách quan thì ngân hàng không thể thu hồi được khoản nợ gốc chưa
tính đến các khoản lãi. Ngân hàng nên trải rộng trên nhiều đối tượng cho vay và những
thành phần vốn khác nhau tránh tập trung vốn quá lớn vào một đối tượng vay hoặc một
lĩnh vực, một thành phần kinh tế nhất định nào đó như vậy dễ dàng bị tổn thất khi đối
tượng vay gặp khó khăn về vấn đề tài chính. Điều này dẫn đến một tập hợp các món
vay có tính cân bằng và bền vững.
1.1.3.4/ Tính an toàn
Tín an toàn trong hoạt động tín dụng được hiểu là khả năng hoàn trả nợ đầy đủ
và đúng với thời hạn cam kết. Trong thực tế, những yêu cầu về trả nợ luôn được thỏa
thuận kỹ lưỡng và quy định rõ ràng trong hợp đồng. Ngân hàng đánh giá tín an toàn của
một món vay thông qua những tiêu chí như: mục đích sử dụng, phương án kinh doanh,
đạo đức của người đi vay, chất lượng- số lượng tài sản đảm bảo,...Tính an toàn của các
khoản vay được coi như một trong những yếu tố sống còn với mọi ngân hàng, ảnh
hưởng trực tiếp tới nguy cơ phá sản, khả năng phát triển của ngân hàng.
1.1.4/ Vài trò của tín dụng ngân hàng
Tính an toàn ở đây biểu hiện là việc trả nợ vay bao gồm cả gốc và lãi khi đến
hạn thanh toán. Do vậy ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện
đúng cam kết này. Tính an toàn của khoản vay được ngân hàng đánh giá qua các mặt
như: mục đích sử dụng vốn vay, phương án kinh doanh, đạo đức của người vay, tài sản
đảm bảo... Tính an toàn của các khoản vay là điều kiện để ngân hàng có thể tồn tại và
phát triển được.
1.1.4.1/ Với ngân hàng
Tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho ngân hàng, theo thống kê,
70% chi phí hoạt động phát sinh thông qua các nghiệp vụ tín dụng, đồng thời hoạt động
này cũng đóng góp trung bình khoảng trên 70% thu nhập cho các ngân hàng thương
mại. Qua đó ta thấy được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng ngân hàng, nó mang
tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời tín dụng ngân
hàng cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn, do vậy các ngân hàng thương mại thường

coi vấn đề "Quản trị rủi ro tín dụng" là vấn đề trọng tâm trong công tác quản trị.
1.1.4.2/ Với khách hàng
Tín dụng ngân hàng bắt nguồn từ nhu cầu của thị trường, nó thoả mãn chính nhu
cầu về phương tiện thanh toán của chủ thể đi vay- khách hàng. Thực tế, một khách hàng
với nhu cầu cấp thiết là y tế mà không có nguồn thanh toán lúc đó thì hậu quả sẽ ra sao?
Tương tự khi một nhà kinh doanh đứng trước một cơ hội đầu tư lớn có khả năng sinh
lời cao và độ an toàn cao mà lại bất lực bởi vốn đầu tư thì thiệt hại đó quả không nhỏ...
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư lớn, có tổ chức thì việc tiếp
cận với nguồn tín dụng ngân hàng được coi là một nguồn vốn tương đối dễ dàng, nhanh
chóng và chi phí cho việc sử dụng nguồn vốn này tương đối thấp (chi phí đầu vào cho
hoạt động kinh doanh thấp), tức là nó đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh
của họ do vậy nó làm tăng khả năng sinh lời, tăng tính hiệu quả cho những kế hoạch
đầu tư của khách hàng.
1.1.4.3/ Với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò như mạch máu lưu thông tiền tệ trong nền kinh
tế tập trung nguồn vốn nhàn rỗi ngoài lưu thông dưới dạng tiết kiệm đem lại đầu tư cho
nền kinh tế phục vụ mục đích phát triển kinh tế.
Vai trò của tín dụng với toàn nền kinh tế được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, dựa trên quy luật tự điều tiết của nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân
hàng sẽ được điều tiết hài hòa, hợp lý và chính xác: luồng vốn được chảy từ những nơi
dư thừa về những nơi thiếu hụt. Thêm vào đó, trong những phương thức chu chuyển,
quỹ cho vay của nền kinh tế bao gồm:
1- Giao dịch tín dụng trực tiếp giữa các chủ thể cho vay và đi vay.
2- Giao dịch bán trực tiếp thông qua môi giới.
3- Giao dịch tín dụng gián tiếp thông qua các ngân hàng - tổ chức trung gian tài
chính.
Ở đây, giao dịch tín dụng qua các ngân hàng thực sự vẫn luôn được coi là kênh
truyền tải vốn quan trọng nhất, chiếm trên 50% chu chuyển quỹ cho vay trong nền kinh
tế, đặc biệt, tỷ lệ này ở các nước đang phát triển như ở Việt Nam thậm chí còn cao hơn
rất nhiều, rơi vào khoảng 70% tổng chu chuyển quỹ cho vay trong nền kinh tế.

Thứ hai, dựa vào những ưu điểm vượt trội về hình thức của tín dụng ngân hàng
so với các hình thức cấp tín dụng trực tiếp và bán trực tiếp biểu hiện đó là: sự an toàn,
nhanh chóng, thuận tiện, dễ tiếp cận và có khả năng đáp ứng được những khoản vay
khổng lồ một cách dễ dàng nếu có đủ điều kiện cho vay đã củng cố thêm cho vai trò đặc
biệt quan trọng của tín dụng ngân hàng trong toàn nền kinh tế.
Thứ ba, hoạt động tín dụng góp phần ổn định sự lưu thông tiền tệ. Thông qua
hoạt động này, ngân hàng nắm được thông tin quan trọng, qua đó là cơ sở để điều tiết
thị trường và thực thi chính sách tiền tệ. Tín dụng ngân hàng cũng góp phần tích cực tới
việc ổn định và lưu thông trong thị trường hàng hoá- góp phần cân đối cung cầu trên thị
trường.
Thứ tư, kiểm soát thị trường và thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
• Kiểm soát thị trường: Với thị trường vốn và thị trường tiền tệ, hoạt động này của
ngân hàng đóng vai trò rất lớn trong việc điều tiết khi vừa là kênh huy động vốn
(ngân hàng đóng vai trò là người đi vay, khách hàng là người cho vay) đồng thời
lại là kênh cung cấp vốn (ngân hàng là người cho vay, đối tượng đi vay là khách
hàng). Cơ chế này hoạt động theo nguyên tắc: khi thị trường tiền tệ có biến
động, tín dụng ngân hàng sẽ điều tiết lại những biến động đó thông qua việc điều
chỉnh lãi suất và thay đổi các điều kiện thực hiện hợp đồng tín dụng. Đối với thị
trường hàng hoá, tín dụng ngân hàng cũng có những kiểm soát nhất định. Với
cung hàng hoá - tín dụng đóng vai trò là kênh hộ trợ hiệu quả nhất, có tác động
trực tiếp cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, nhà máy hay thông qua các cổ
đông, với cầu hàng hoá - hoạt động tín dụng ngân hàng gián tiếp tác động đến
tiêu dùng của khách hàng hay cầu đầu tư của doanh nghiệp. Như vậy với sự
kiểm soát thị trường sẽ tạo sự ổn định và định hướng cho thị trường.
• Thu hút đầu tư: hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần làm bình ổn định môi
trường kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền...
Thông qua đó, rất nhiều những cơ hội đầu tư thuận lợi liên tục được sản sinh ra
chờ đón sự nắm bắt của các nàh đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ năm, hoạt động tín dụng góp phần làm đầy ngân sách chính phủ thông qua
thuế thu nhập và các khoản đầu tư có ủy thác của chính phủ cho các tổ chức kinh tế.

1.1.5/ Các hình thức cấp tín dụng ngân hàng
Điều 49 Luật các tổ chức tín dụng quy định: "Tổ chức tín dụng được cấp tín
dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu, cầm cố thương phiếu
và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy
định của ngân hàng nhà nước".
1.1.5.1/ Cho vay đối với các tổ chức cá nhân
Đây là hình thức cấp tín dụng phổ biến của các ngân hàng thương mại nhằm đáp
ứng vốn cho nền kinh tế. Tài sản giao dịch được biểu hiện dưới trạng thái tiền tệ. Các
ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay chủ yếu sử dụng nguồn tiền gửi huy động
được để cho vay, tuy nhiên việc huy động vốn chủ yếu là huy động ngắn hạn, vì vậy,
các ngân hàng chủ yếu lựa chịn hình thức cho vay ngắn hạn nhằm tránh những cú sốc
về chênh lệch kỳ hạn, qua đó hạn chế những rủi ro tín dụng có thể gặp phải, nhưng cho
vay ngắn hạn lại không đem lại hiệu quả cao cho ngân hàng, vì vậy vừa để đáp ứng mục
đích tối đa hóa lợi nhuận, vừa giúp các ngân hàng thương mại tránh được tối đa những
rủi ro trong tín dụng thì ngân hàng nhà nước đã quy định các ngân hàng thương mại tỷ
lệ sử dụng vốn để cho vay dài hạn được huy động từ những nguồn ngắn hạn là không
vượt quá 30%. Đây là bài toán được đặt ra với mọi ngân hàng thương mại vừa làm sao
để vẫn đáp ứng tốt được nhu cầu vốn trên thị trường, vừa đảm bảo không vi phạm
những quy định của ngân hàng nhà nước. Tại các nước phát triển, tỷ lệ sử dụng vốn
ngắn hạn để cho vay dài hạn được cho phép ở một mức lớn hơn là nhờ quy mô vốn
khổng lồ của nội tại các ngân hàng này cũng nhưng trình độ phát triển vượt bậc của thị
trường vốn của nó.
Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN và các quyết định bổ sung sửa đổi của các
quyết định này như: quyết định 127/QĐ-NHNN, quyết định 783/QĐ-NHNN của thống
đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng, các ngân hàng thương mại có thể áp dụng các phương thức
sau:
• Cho vay từng lần: Trong phương thức này, khi khách hàng có nhu cầu tín dụng
thì khách hàng phải đến ngân hàng và hoàn thành các thủ tục đúng như quy định
của ngân hàng và ký kết giao hẹn với ngân hàng.

• Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời gian nhất định.
• Cho vay theo dự án đầu tư: Khi có nhu cầu đầu tư thực hiện các dự án kinh
doanh dịch vụ, dự án phát triển sản xuất hay các dự án đầu tư cho các công trình
công cộng phục vụ cho lợi ích chung của cả cộng đồng khác, các tổ chức tín
dụng và các nhân đóng vai trò nhà đầu tư sẽ tới ngân hàng xin cấp tín dụng.
• Cho vay hợp vốn: Là phương thức cho vay trong đó một nhóm các tổ chức tín
dụng cùng cho vay đối với một dự án đầu tư hoặc phương án vay vốn của khách
hàng. Trong đó có một tổ chức tín dụng đứng ra dàn xếp, phối hợp các tổ chức
tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của qui chế cho
vay hiện hành và quy chế đồng tài trợ của tổ chức tín dụng do thống đốc ngân
hàng nhà nước ban hành.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Trong nhiều trường hợp, khi khách
hàng có nhu cầu thực hiện vay vốn nhằm mục đích bảo đảm tín thanh khoản nhất
thời nào đó, tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn
trong phạm vi hạn mức nhất định. Tùy theo nhu cầu, thời gian hiệu lực và hạn
mức cụ thể cho mức dự phòng sẽ được giao hẹn từ trước một cách rõ ràng giữa
ngân hàng cấp tín dụng và người đi vay.
• Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín
dụng chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn
mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại các
máy rút tiền tự động.
• Cho vay theo hạn mức thấu chi: Tổ chức tín dụng cho phép khách hàng chi vượt
mức số tiền ghi trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình phù hợp với các qui
định của chính phủ và ngân hàng nhà nước về hoạt động thanh toán qua các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.1.5.2/ Chiết khấu cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
Là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng
thương phiếu và các giấy tờ có giá khác cho ngân hàng để đổi lấy một số tiền bằng
mệnh giá, trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có). Đây là một trong những nghiệp

vụ lâu đời nhất, xuất hiện từ thời các ngân hàng thương mại được thành lập, nhưng
nghiệp vụ cho vay cổ điển này của ngân hàng vẫn chiếm vai trò đáng kể và vẫn được áp
dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
1.1.5.3/ Cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ vốn trong đó dựa trên nhu cầu sử
dụng của bên đi thuê, bên cho thuê tiến hành mua tài sản và chuyển giao cho bên đi
thuê sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định và bên sử dụng tài sản phải thanh
toán tiền thuê cho bên sở hữu tài sản theo kỳ hạn đã thoả thuận.
Mặc dù hoạt động cho thuê đã trải qua hàng nghìn năm, nhưng cho đến thế kỷ
XX, loại hình nghiệp vụ này mới thực sự được nhìn nhận một cách đáng kể hơn, từng
bước trở thành một ngành kinh doanh thật sự hấp dẫn với các ngân hàng thương mại.
So với các nước trên thế giới hoạt động cho thuê tài chính xâm nhập vào Việt Nam
muộn hơn, hiện nay cả nước ta mới chỉ có khoảng 12 công ty cho thuê tài chính bao
gồm: các công ty cho thuê trực thuộc các ngân hàng thương mại, các công ty liên doanh
và công ty cho thuê 100% vốn nước ngoài.
Hoạt động cho thuê tài chính ra đời là hình thức tài trợ bổ sung, nhằm tạo thêm
những điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong việc hoàn thiện và nâng cao năng
lực cạnh tranh.
1.1.5.4/ Bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng được coi là một hình thức cấp tín dụng, thông qua cam kết
bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền có liên quan, ngân hàng được
quyền thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng, khi khách hàng thực hiện
không đầy đủ hoặc không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết của mình.
1.2/ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
1.2.1/ Khái niệm chung về chất lượng tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng về bản chất là mối quan hệ giữa người cho vay- ngân hàng
và người đi vay- khách hàng của ngân hàng dựa trên nền tảng uy tín và sự hiểu biết lẫn
nhau. Quan hệ tín dụng được hình thành dựa trên tin thần tự nguyện, hợp tác để cùng có
lợi, hai bên tham gia đều dưới hình thức tự nguyện, nhằm thỏa mãn những mục đích
riêng của mình. Ngoài ra, xét trong tổng thể toàn nền kinh tế, sự hợp tác lẫn nhau này

còn tạo ra sự thuận lợi, phù hợp, lợi ích cho những thành phần khác có thể trực tiếp hay
gián tiếp có liên quan tới mối quan hệ này. Như vậy, theo một góc nhìn rộng hơn, mối
quan hệ tín dụng đó còn góp phần làm lợi chung cho toàn nền kinh tế. Do đó, chất
lượng tín dụng dưới giác độ vi mô chính là mức độ đáp ứng nhu cầu của khách hàng là
người gửi tiền cũng như người vay tiền và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng, còn khi xét trên giác độ vĩ mô, đó là khả năng phù hợp với sự phát triển kinh tế
của toàn xã hội nói chung. Chất lượng tín dụng ngân hàng được hiểu cụ thể như sau:
• Đối với khách hàng: về mục đích, khoản tín dụng được cấp phải phù hợp với lý
do, nhu cầu tín dụng của khách hàng. Ngoài ra, một số yếu tố cơ bản, thiết yếu
khác không thể không nhắc đến như lãi suất và kỳ hạn cần có sự hợp lý, cũng
như đảm bảo thủ tục đơn giản thuận tiện, vừa thu hút được khách hàng nhưng
vẫn đảm bảo được nguyên tắc tín dụng.
• Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: tín dụng được sinh ra nhằm giải quyết, đáp
ứng những yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất cũng nhưng thúc đẩy
quá trình lưu thông, phân phối hàng hóa, qua đó một mặt mang lại công ăn việc
làm cho người dân, một mặt tạo ra những hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của toàn xã hội. Nói rộng hơn, tín dụng giúp thúc đẩy quá trình sản xuất, tạo sự
phát triển cho nền kinh tế.
• Đối với bản thân các ngân hàng thương mại: cần đảm bảo các nhân tố như phạm
vi, mức độ, giới hạn tín dụng đã thực hiện phải phù hợp với năng lực của ngân
hàng và đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng
hạn và có lãi, hạn chế mức thấp nhất rủi ro trong hoạt động, đồng thời đảm bảo
lợi nhuận và khả năng thanh khoản.
Như vậy, chất lượng tín dụng ngân hàng là một khái niệm vừa cụ thể (có thể thể
hiện qua các chỉ tiêu định lượng như: kết quả kinh doanh, tỷ lệ nợ quá hạn, hiệu suất
sử dụng vốn vay...) lại vừa mang tính trừu tượng (thể hiện ở khả năng thu hút khách
hàng, tác động đến vấn đề xây dựng hình ảnh thương hiệu cho ngân hàng, tác động
của nó đến nền kinh tế...). Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố
cả về mặt chủ quan như: khả năng quản lý, trình độ cán bộ, chất lượng nguồn vốn huy
động...đến các nhân tố khách quan như sự thay đổi của môi trường kinh tế hay pháp

luật...
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, mà dựa trên chỉ tiêu đó, người ta
có thể nhìn ra được sức đề kháng, khả năng thích ứng, biến đổi để bắt kịp với những
đòi hỏi không ngừng tăng của thị trường cũng như thể hiện sức mạnh của ngân hàng
với các đối thủ cạnh tranh cùng ngành và uy tín, tầm ảnh hưởng của nó với toàn nền
kinh tế. Chất lượng tín dụng là kết quả của một quá trình kết hợp hoạt động giữa những
con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì mục đích chung, do đó để có
chất lượng tín dụng cần có sự quản lý đồng bộ trong ngân hàng từ việc theo dõi, tìm
hiểu và loại trừ những nguyên nhân gây ra những cản trở trong việc cấp tín dụng.
Qua đó có thể rút ra kết luận là để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín
dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy
tín trong hoạt động.
1.2.2/ Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ở các ngân hàng thương
mại
Hệ thống ngân hàng luôn được xem như hệ thần kinh của toàn bộ hệ thống kinh
tế thị trường. Chính vì vậy, muốn toàn bộ nền kinh tế ấy luôn hoạt động tốt, vận hành
nhịp nhàng, thống nhất và luôn nhận được những tín hiệu điều chỉnh chính xác thì hệ
thống ngân hàng- hệ thần kinh của nền kinh tế ấy phải có được sự thông suốt, mạch lạc
và hiệu quả. Đây cũng được coi như tiền đề cho sự phát triển lâu dài, bền vững của một

×