Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Mối quan hệ giữa lạm phát và truyền dẫn tỷ giá tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.36 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ ĐỒNG DIỄM

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ
TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ ĐỒNG DIỄM

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ
TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ ANH THƯ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ kinh tế “Mối quan hệ giữa lạm phát và
truyền dẫn tỷ giá tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Thị Anh Thư. Các số liệu sử dụng trong
luận văn được thu thập trung thực từ các nguồn hợp pháp và đáng tin cậy khác nhau.
Luận văn không sao chép công trình của các tác giả khác.
TP. HCM, ngày …. tháng …. năm 2018
Tác giả

Nguyễn Thị Đồng Diễm


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu.................................................................................. 1
1.1 Sự cần thiết của đề tài............................................................................................................. 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu................................................................................................................ 2
1.3 Đối tượng và phạm vị nghiên cứu của đề tài.................................................................. 3
1.4 Phương pháp nghiên cứu....................................................................................................... 3
1.5 Ý nghĩa khoa học của luận văn............................................................................................ 3
1.6 Kết Cấu Của Luận Văn........................................................................................................... 3
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu............................................... 5
2.1 Lý thuyết truyền dẫn tỷ giá hối đoái.................................................................................. 5
2.1.1 Định nghĩa cơ bản về tỷ giá hối đoái và lạm phát................................................ 5
2.1.2 Định nghĩa truyền dẫn tỷ giá hối đoái....................................................................... 6

2.1.3 Mối liên hệ giữa lạm phát và truyền dẫn tỷ giá................................................... 6
2.2 Các kênh truyền dẫn của tỷ giá hối đoái đến giá trong nước................................... 7
2.3 Truyền dẫn tỷ giá là phi tuyến............................................................................................ 9
2.4 Các nghiên cứu thực nghiệm về truyền dẫn tỷ giá.................................................... 11
2.4.1 Các nghiên cứu tác động môi trường lạm phát đến truyền dẫn tỷ giá ..........
11
2.4.2 Các nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá ảnh hưởng đến lạm phát...........................16
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu mối quan hệ truyền dẫn tỷ giá và lạm phát

tại Việt Nam........................................................................................................................................ 24
3.1 Khung phân tích...................................................................................................................... 24


3.2Mô hình hồi quy chuyển tiếp trơn (STR) ......................

3.2.1Trường hợp hàm chuyển

3.2.2Trường hợp hàm chuyển

3.3Quy trình xây dựng mô hình .........................................

3.3.1Giai đoạn thiết lập mô h

3.3.2Giai đoạn ước lượng các

3.3.3Giai đoạn đánh giá sự ph

3.4Cơ sở dữ liệu .................................................................

3.4.1Mô tả dữ liệu ................


3.4.2Thống kê mô tả .............
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận ........................................................

4.1Kiểm định tính dừng .....................................................
4.2 Kiểm định tuyến tính dựa theo chỉ định mô hình STR, lựa chọn biến chuyển
tiếp và định dạng mô hình STR .............................................................................
Chương 5: Kết luận .................................................................................................

5.1Kết quả nghiên cứu .......................................................

5.2Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo .......

5.2.1Hạn chế của đề tài ........

5.2.2Hướng nghiên cứu tiếp t
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu

Tên đầ

CPI

Chỉ số giá ti


ERPT

Truyền dẫn t

ESTAR

Mô hình tự h
thừa

ESTR

Mô hình hồi
thừa

EU

Liên minh c

GDP

Tổng sản ph

HICP

Chỉ số hài hò

IMF

Quỹ Tiền tệ


IMP

Chỉ số giá nh

LSTAR

Mô hình tự h
logistic

LSTR

Mô hình hồi

NEER

Tỷ giá hiệu l
phương

PPI

Chỉ số giá sả

STAR

Mô hình tự h

STR

Mô hình hồi


USD

Đô la Mỹ


VAR

Mô hình vec

VECM

Mô hình vec

VND

Việt Nam Đ


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.Tổng hợp các nghiên cứu trước đây........................................................................ 20
Bảng 3.2 Tóm tắt thống kê mô tả của các biến cơ sở được sử dụng............................... 44
Bảng 4.1 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị............................................................................ 46
Bảng 4.2 Kết quả kiểm định tuyến tính (
............................................................. 47
=

− )

Bảng 4.3: Kết quả kiểm định thành phần phi tuyến còn sót lại........................................ 48
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định tính nhất quán của tham số ước lượng............................49



DANH MỤ
Hình 2.1.Cơ chế truyền dẫn tỷ giá đến giá trong nước ...............................................
Hình 3.1 ERPT và lạm phát trễ: trường hợp đồng hai thời kỳ (N=2) .......................
Hình 3.2 ERPT và lạm phát trễ: trường hợp đồng thời ba thời kỳ (N=3) .................
Hình 3.3

Đồ thị LSTR1 với c =1 ........

Hình 3.4

Đồ thị của hàm số LSTR2 v

Hình 3.5

Đồ thị của hàm số ESTR vớ

Hình 3.6: Chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số giá nhập khẩu tại Việt Nam từ 01/2000 đến
12/2017 ...................................................................................................................... 42

Hình 3.7: Tỷ giá hiệu lực danh nghĩa đa phương Việt Nam từ 01/2000 đến 12/2017
...................................................................................................................................
Hình 3.8: Chỉ số lạm phát tại Việt Nam từ 01/2000 đến 12/2017 ............................
Hình 4.1

ERPT so với biến chuyển

Hình 4.2


ERPT theo thời gian mô h


1

Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu
1.1 Sự cần thiết của đề tài
Trong những năm qua, Chính sách lạm phát mục tiêu là một trong các lựa chọn cho
hướng điều tiết của chính sách tiền tệ nhiều quốc gia ở khắp các châu lục và đã đem lại
một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, một quốc gia không thể đồng thời thực hiện chính
sách tiền tệ độc lập (theo đuổi lạm phát mục tiêu), ổn định tỷ giá và tự do hóa tài khoản
vốn. Một nước theo đuổi chính sách lạm phát mục tiêu thì không thể cùng một lúc theo
đuổi cả mục tiêu tỉ giá. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là Ngân hàng trung ương từ
bỏ việc can thiệp lên thị trường hối đoái bởi vì tỷ giá là kênh quan trọng của chính sách
tiền tệ, đóng vai trò truyền dẫn tác động từ các công cụ của Ngân hàng trung ương đến
mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ, trong đó quan trọng nhất là mục tiêu ổn định
giá cả, góp phần ổn định nền kinh tế. Do vậy việc nghiên cứu về ảnh hưởng chuyển tiếp
những biến động tỷ giá đến mức giá cả nội địa thông qua giá cả nhập khẩu, được coi
như là một hành động tất yếu trong một nền kinh tế mở. Mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm
phát, tác động của tỷ giá tới lạm phát…. là những vấn đề khác đã và đang được nhiều
nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu.
Có khá nhiều bài nghiên cứu lý thuyết cũng như thực tiễn về vấn đề lạm phát và các
nhân tố tác động. Từ những năm 1970, các nhà kinh tế học đã nghiên cứu về mức độ
truyền dẫn tỷ giá (exchange rate Pass – Through, ERPT) vào mức giá nội địa là một
trong các yếu tố then chốt xác định nên quy mô tác động của chính sách tiền tệ.

Theo nghiên cứu Nidhaleddine Ben Cheikh, Waël Louhichi (2016), cho rằng
mức độ truyền dẫn (ERPT) vào giá nhập khẩu là một vấn đề quan trọng đối với lạm
phát. Các nhà hoạch định chính sách phải có khả năng đánh giá tác động của thay
đổi tiền tệ đối với giá nội địa, để xác định sự tồn tại của áp lực lên lạm phát và, do

đó, các chính sách tiền tệ phản ứng thích hợp để đối phó với điều đó. Các ngân hàng
trung ương không chỉ có hiểu biết tốt về động lực lạm phát, mà họ cũng dự đoán
hướng lạm phát trong tương lai.
Các nghiên cứu về ERPT và lạm phát ngày càng tăng với nhiều cách tiếp cận mới.
Cách tiếp cận theo hướng xây dựng mô hình chuỗi thời gian phi tuyến hồi quy trơn


2

STR là một trong số đó, đặc biệt là vận dụng vào phân tích mối quan hệ ERPT và
lạm phát tại các quốc gia khác nhau từ đó đem lại ý nghĩa thực nghiệm và lý luận.
Trước đây, các nhà kinh tế học thường quy về xấp xỉ tuyến tính khi đối mặt với các
trường hợp phi tuyến, tuy rằng cách giải quyết này cũng đã hỗ trợ phần nào trong
việc mô hình hóa các yếu tố kinh tế vĩ mô giải quyết được một số trường hợp phi
tuyến. Rõ ràng, cách làm như vậy chỉ giải quyết được một ít trường hợp riêng lẻ và
không thể giải quyết triệt đề vấn đề. Do đó, mô hình chuỗi thời gian phi tuyến chính
là công cụ hữu ích cho những trường hợp như trên.
Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu trên thế giới và trong bối cảnh nền kinh trong
nước đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới qua các cuộc khủng hoảng tài
chính và sắp sửa bước vào chu kỳ khủng hoảng 10 năm thì việc xem xét lại mức độ ảnh
hưởng của ERPT đến lạm phát là cần thiết. Và đó cũng là lý do tác giả chọn đề tài
“MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ TẠI VIỆT

NAM”. Thông qua mô hình STR dựa trên nền tảng nghiên cứu của Nidhaleddine
Ben Cheikh và cộng sự (2012), Shintani và cộng sự (2013) đề tài sử dụng các biến
kinh tế vĩ mô để ước lượng mối quan hệ giữa truyền dẫn tỷ giá và lạm phát tại Việt
Nam. Bài nghiên cứu khảo sát dữ liệu từ năm 2000 tới năm 2017 là 216 quan sát.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu



Xây dựng mô hình chuỗi thời gian phi tuyến STR để phân tích mối quan hệ

giữa lạm phát và truyền dẫn tại Việt Nam, Công thức hóa mức độ truyền dẫn
của tỷ giá tác động đến lạm phát.


Tìm hiểu Môi trường lạm phát ảnh hưởng đến như thế nào đến mức độ

truyền dẫn tại Việt Nam: Mức độ truyền dẫn của tỷ giá là một hàm số của tỷ lệ
lạm phát và có sự chuyển biến mượt hơn là gián đoạn ứng với các độ trễ lạm
phát khác nhau.


Sử dụng phương pháp thực nghiệm kiểm chứng nhận định của Taylor

(2000) rằng cơ chế lạm phát thấp và ổn định sẽ kéo theo sự suy giảm trong mức
độ truyền dẫn của tỷ giá, ERPT sẽ thấp hơn trong môi trường lạm phát ổn định
so với thời kỳ lạm phát cao trong nền kinh tế Việt Nam.


3

1.3 Đối tượng và phạm vị nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: lạm phát, truyền dẫn tỷ giá và mối quan hệ giữa ERPT
và lạm phát. Sự bất cân cứng trong truyền dẫn tỷ giá tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Dữ liệu được thu thập theo tháng từ năm 01/2000 –
12/2017 tại Việt Nam dựa trên số liệu của IMF và trung tâm dữ liệu trường Đại
học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Để phù hợp với nội dung, yêu cầu và mục tiêu nghiên cứu đề tài sử dụng mô hình

STR với sự hỗ trợ của phần mềm Eviews 10 để phân tích mối quan hệ giữa lạm phát
và truyền dẫn tại Việt Nam; đồng thời kiểm chứng kết nhận định của Taylor (2000).

1.5 Ý nghĩa khoa học của luận văn
Cho đến nay, đã có các công trình lý thuyết cũng như thực nghiệm với số lượng
lớn nghiên cứu về vấn đề này ở các quốc gia, các ngành và sản phẩm khác nhau.
Tuy nhiên, việc vận dụng mô hình chuỗi thời gian phi tuyến STR trong phân tích
các yếu tố kinh tế vĩ mô trên tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, cần được chú trọng phát
triển. Hầu hết các nghiên cứu tập trung vào đo lường truyền dẫn tỷ giá vào các chỉ
số giá trong nước mà chưa liên hệ nhiều vào quan hệ lạm phát có tác động ngược
trở lại đối với ERPT.
Tiếp cận vấn đề này ở một khía cạnh mới là không chỉ đo lường mức độ truyền
dẫn của tỷ giá hối đoái như đã nêu ở phần trên mà còn xét mối quan hệ môi trường
lạm phát ảnh hưởng đến truyền dẫn tỷ giá; với những so sánh đánh giá kết quả có
được đề tài đóng góp phần nào trong thực thi chính sách tiền tệ nói chung và chính
sách tỷ giá nói riêng để góp phần vào mục tiêu chung kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô.
1.6 Kết Cấu Của Luận Văn





Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu



Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu mối quan hệ giữa truyền dẫn tỷ giá và lạm


phát tại Việt Nam.


4



Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận



Chương 5: Kết luận


5

Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu
2.1 Lý thuyết truyền dẫn tỷ giá hối đoái
2.1.1 Định nghĩa cơ bản về tỷ giá hối đoái và lạm phát:
-

Tỷ giá hối đoái: O'Sullivan, Arthur; Steven M. Sheffrin (2003): Tỷ giá hối

đoái giữa hai tiền tệ là tỷ giá mà tại đó một đồng tiền này sẽ được trao đổi cho
một đồng tiền khác. Nó cũng được coi là giá cả đồng tiền của một quốc gia được
biểu hiện bởi một tiền tệ khác.
-

Định nghĩa lạm phát:


Theo N. Gregory Mankiw (2010): Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát là sự tăng
mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự
mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung tăng cao, một đơn vị
tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây, do đó lạm phát
phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ. Khi so sánh với các nước
khác thì lạm phát là sự giảm giá trị tiền tệ của một quốc gia này so với các loại
tiền tệ của quốc gia khác. Theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu lạm phát của một
loại tiền tệ tác động đến phạm vi nền kinh tế một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai
thì người ta hiểu lạm phát của một loại tiền tệ tác động đến phạm vi nền kinh tế
sử dụng loại tiền tệ đó. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát
bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự "ổn định giá cả".
Còn theo Michael F. Bryan (1997): Sự gia tăng cung tiền có thể được gọi là
lạm phát tiền tệ, để phân biệt với sự tăng giá cả, mà cũng có thể được gọi cho rõ
ràng là lạm phát giá cả. Trong bài này ta sử dụng định nghĩa lạm phát giá cả để
tiến hành nghiên cứu.
Đo lường lạm phát: Taylor & Hall (1993), sử dụng chỉ số giá tiêu
dùng
(consumer price index – CPI) để tính lạm phát. CPI là là chỉ số tính theo phần trăm
để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian. Thay đổi
tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào một giỏ hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng


6

tiêu dùng. Như vậy, ta thấy rằng chỉ số CPI là thước đo của lạm phát.
2.1.2 Định nghĩa truyền dẫn tỷ giá hối đoái:
Có nhiều định nghĩa được nêu ra về truyền dẫn tỷ giá hối đoái, trong đó
theo Jonathan McCarthy (2000) thì xem xét dưới góc độ là mức chuyển của tỷ
giá và giá nhập khẩu đến giá cả sản xuất nội địa PPI và giá tiêu dùng CPI.

Goldberg và Knetter (1997) lại cho rằng, khái niệm về truyền dẫn tỷ giá hối đoái
thường được hiểu rộng hơn, đó là truyền dẫn tỷ giá hối đoái là phần trăm thay
đổi của các chỉ số giá trong nước khi tỷ giá hối đoái danh nghĩa thay đổi một
phần trăm. Các chỉ số giá trong nước bao gồm chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá
sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi trong bài
nghiên cứu của các tác giả ở nhóm nước đang phát triển; do đó trong luận văn
này ERPT được nhìn nhận là “sự thay đổi của tỷ lệ lạm phát dưới tác động của
sự thay đổi trong tỷ giá danh nghĩa”.
Cơ chế truyền dẫn tỷ giá có thể diễn ra một cách hoàn toàn, không hoàn
toàn hoặc không xảy ra tùy vào đặc điểm kinh tế của từng quốc gia. Khi cơ chế
này xảy ra hoàn toàn, 1% phá giá nội tệ sẽ làm tăng 1% giá cả nội địa và ngược
lại. Nếu đồng nội tệ phá giá nhưng không làm thay đổi giá cả tính bằng nội tệ, ta
nói rằng cơ chế truyền dẫn tỷ giá đã không xảy ra. Trường hợp 1% phá giá làm
tăng giá cả ít hơn 1% khi cơ chế truyền dẫn tỷ giá diễn ra không hoàn toàn.
Nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng trong ngắn hạn truyền dẫn tỷ giá vào
giá cả là không hoàn toàn và có sự khác biệt ERPT giữa các quốc gia.
2.1.3 Mối liên hệ giữa lạm phát và truyền dẫn tỷ giá
-

Sự sụt giảm của truyền dẫn tỷ giá có liên quan đến môi trường lạm phát

thấp và truyền dẫn tỷ giá có mức độ khác nhau khi xem xét sự tăng giá và giảm
giá, nghĩa là truyền dẫn bất cân xứng. ERPT sẽ thấp hơn trong môi trường lạm
phát ổn định so với thời kỳ lạm phát cao. Ngược lại, trong thời kỳ khủng hoảng,
lạm phát cao kéo theo sự tăng lên trong mức độ truyền dẫn tỷ giá, ERPT cao hơn
(Taylor (2000)).


7


-

Sự tương quan giữa lạm phát và truyền dẫn là dương. Tỷ giá tăng tạo sức ép

khiến lạm phát trong nước gia tăng, và ngược lại (Choudhri và cộng sự (2006)).

2.2

Các kênh truyền dẫn của tỷ giá hối đoái đến giá trong nước

Theo nghiên cứu của Lafleche (1996), Những thay đổi trong tỷ giá hối đoái có
thể ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát thông qua các chỉ số giá theo hai kênh là trực tiếp
và gián tiếp.
-

Kênh truyền dẫn trực tiếp: Khi đồng nội tệ giảm giá, giá cả hàng hóa nhập

khẩu trở nên đắt hơn, tức ảnh hưởng đến chỉ số giá nhập khẩu. Nếu hàng hóa đó được
dùng cho mục đích tiêu dùng cuối cùng, giá nhập khẩu sẽ ảnh hưởng lên chỉ số giá tiêu
dùng; hoặc nếu hàng hóa nhập khẩu là nguyên nhiên vật liệu dùng cho quá trình sản
xuất, sẽ khiến chi phí sản xuất tăng cao, và như một hệ quả đẩy giá tiêu dùng

tăng, gây ra áp lực lạm phát.
- Kênh truyền dẫn gián tiếp: Hàm ý khi có sự mất giá của đồng nội tệ, sẽ
khiến hàng hóa trong nước rẻ hơn, xuất khẩu gia tăng. Điều này sẽ gây ra một gia
tăng trong cầu lao động, tiền lương và sau đó là tổng cầu, như một hệ quả, có thể
khiến lạm phát tăng. Tuy nhiên, ảnh hưởng này chỉ có thể diễn ra trong dài hạn, vì
tính chất cứng nhắc của giá cả trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, tình trạng đô la hóa
ngày càng tăng trong nền kinh tế có thể là một nhân tố làm khuếch đại hiệu ứng
truyền dẫn gián tiếp này. Một khi tỷ giá biến động tăng, đồng nội tệ mất giá sẽ khiến

cho giá cả các tài sản được định giá bằng đồng ngoại tệ (như bất động sản, hàng hóa
xa xỉ như ô tô…) sẽ tăng lên. Và đây là nguyên nhân khiến giá cả tiêu dùng tăng.


8

Đồng nội tệ
mất giá (tỷ giá
hối đoái tăng)

Kênh trực tiếp

Giá cả
nguyên liệu
nhập khẩu
đầu vào tăng
giá

Cầu xuất
khẩu tăng

Hàng hóa
nhập khẩu
tăng giá

Cầu lao động
tăng

Làm tăng
giá cả sản

xuất trong
nước tăng

Làm tăng giả
cả hàng hóa
thay thế và
xuất khẩu

Tiền lương
tăng

Giá tiêu dùng tăng
Hình 2.1.Cơ chế truyền dẫn tỷ giá đến giá trong nước
(Nguồn: Nghiên cứu của Lafleche (1996), trang 23)
Lafleche (1996) giới thiệu sơ đồ về truyền dẫn của tỷ giá đến giá cả trong nước
thông qua kênh trực tiếp và gián tiếp như hình 1.


9

2.3

Truyền dẫn tỷ giá là phi tuyến

Bài viết được dựa theo tổng hợp các lý thuyết nghiên cứu về tính phi tuyến của
truyền dẫn tỷ giá Nidhaleddine Ben Cheikh và cộng sự (2012, trang 5-7).
Hầu hết các nghiên cứu trước đây đều giả định sự truyền dẫn tỷ giá là tuyến
tính. Tuy nhiên, các lý thuyết thực tiễn đóng góp một phần nhỏ đến vấn đề phi tuyến
và bất đối xứng trong sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái. Thực tế, có nhiều trường hợp
khác nhau có thể tạo sự bất đối xứng trong cơ chế truyền dẫn. Theo các lý thuyết

Gil-Pareja (2000) và Olivei (2002), khả năng truyền dẫn bất cân xứng có thể tăng
lên đối với chiều hướng thay đổi tỷ giá, nghĩa là, phản ứng lại với sự tăng giá và mất
giá của tiền tệ. Theo Coughlin và Pollard (2004) và Bussière (2007), mức độ truyền
dẫn cũng phản ứng bất đối xứng với quy mô thay đổi của tỷ giá, bởi vì có sự tác
động khác nhau của những thay đổi tỷ giá lớn so với những thay đổi tỷ giá nhỏ. Có
một số lý thuyết cho rằng khả năng tiềm ẩn mối quan hệ phi tuyến giữa tỷ giá và
mức giá cả, chủ yếu, chúng ta đề cấp đến ba lý do cho khả năng ERPT là phi tuyến:
+ Mục tiêu thị phần: Khi đồng tiền của quốc gia nhập khẩu mất giá, hàng hóa
nước ngoài trở nên đắt hơn đối với người tiêu dùng trong nước, các doanh nghiệp
nước ngoài có thể điều chỉnh lại mức giá để duy trì thị phần. Tuy nhiên, với trường
hợp đồng tiền của quốc giá nhập khẩu tăng giá, hàng hóa của họ trở trên rẻ đối với
người tiêu dùng trong nước, họ duy trì mức tăng giá của đồng tiền quốc gia nhập
khẩu và chấp nhận giá nhập khẩu giảm trong đồng tiền của thị trường đến. Do đó,
mức độ truyền dẫn tỷ giá sẽ khác nhau đối với chiều hướng thay đổi của tỷ giá. Nếu
các doanh nghiệp cố gắng duy trì sự cạnh tranh và duy trì thị phần, thì sự tăng giá
đồng tiền của quốc gia nhập khẩu có thể gây ra truyền dẫn cao hơn sự mất giá.
+

Những ràng buộc: cũng như đã được đề cập trong các lý thuyết kinh tế vi mô, đa

số doanh nghiệp có thể bị những hạn chế trong ngắn hạn. Thực tế là, đối mặt với sự
tăng giá của đồng tiền quốc gia nhập khẩu, các nhà xuất khẩu sẽ gia tăng năng lực cạnh
tranh về giá bằng việc chuyển những thay đổi trong tỷ giá vào trong mức giá của họ.
Nhưng nếu các doanh nghiệp thực sự có đủ năng lực mà khả năng gia tăng


10

doanh số trong thị trường đến bị giới hạn, họ có thể giá tăng lợi nhuận của mình
bằng cách duy trì mức giá hiện tại thay vì hạ thấp mức giá theo đồng tiền của nhà

nhập khẩu. Cũng như lập luận của Knetter (1994), nếu các doanh nghiệp xuất khẩu
chịu sự ràng buộc về hạn chế số lượng, thì một sự tăng giá đồng tiền của quốc gia
nhập khẩu có thể gây ra truyền dẫn thấp hơn sự mất giá.
Hai lập luận trên đã phát sinh cách giải thích trái ngược nhau của sự bất cân
xứng. Theo sự giải thích “mục tiêu thị phần”, truyền dẫn sẽ lớn hơn khi đồng tiền
của nhà nhập khẩu tăng giá so với mất giá. Trong khi giả thuyết “điều kiện ràng
buộc” cho rằng ngược lại, truyền dẫn tỷ giá sẽ lớn nhất khi tỷ giá hối đoái giảm.
+

Chi phí thực đơn: vì các chi phí liên quan đến thay đổi trong mức giá, các nhà

xuất khẩu có thể từ bỏ việc thay đổi mức giá của họ khi đồng tiền của nhà nhập
khẩu thay đổi nhỏ. Tuy nhiên, khi tỷ giá thay đổi vượt qua một vài ngưỡng nào đó
thì các doanh nghiệp sẽ thay đổi mức giá của họ. Do đó, theo giả thuyết chi phí thực
đơn, ERPT có thể là bất cân xứng đối với độ lớn của các cú sốc tỷ giá, vì mức giá sẽ
được điều chỉnh thường xuyên đối với những thay đổi tỷ giá lớn hơn là so với một
thay đổi tỷ giá nhỏ. Trong nghiên cứu của Coughlin và Pollard (2004) đối với giá
nhập khẩu của 30 ngành công nghiệp tại Mỹ, họ tìm thấy rằng hầu hết các doanh
nghiệp phản ứng bất cân xứng đối với những thay đổi lớn và nhỏ của tỷ giá hối đoái
và ERPT có tương quan dương với độ lớn của thay đổi.
Chúng ta đã nhận thấy rằng các lý thuyết hiện tại đặc biệt quan tâm đến tính phi
tuyến trong truyền dẫn tỷ giá liên quan đến độ lớn và chiều hướng của những thay đổi
tỷ giá. Bên cạnh đó, có một vài yếu tố kinh tế vĩ mô sẽ làm thay đổi hành vi các doanh
nghiệp nước ngoài, và do đó có thể là nguồn gốc của sự phi tuyến trong truyền dẫn.
Một trong những yếu tố kinh tế vĩ mô đó là môi trường lạm phát. Theo Taylor (2000),
với cơ chế lạm phát thấp và ổn định sẽ kéo theo sự suy giảm trong mức độ truyền dẫn
tỷ giá hối đoái ở nhiều nước công nghiệp phát triển. ERPT sẽ thấp hơn trong môi
trường lạm phát ổn định. Do đó, có thể nghĩ rằng thay đổi năng động của sự truyền dẫn
phụ thuộc vào cơ chế lạm phát, mà nó có thể được mô hình hóa theo cách phi tuyến. Đã
có một số công trình nghiên cứu ERPT liên quan đến mức độ lạm



11

phát trong khuôn khổ phi tuyến. Sử dụng mô hình ngưỡng dựa theo đường cong
Phillips, Pryzstupa và Wróbel (2011) bác bỏ giả thuyết truyền dẫn bất đối xứng do
môi trường lạm phát ở Ba Lan. Theo hướng ngược lại, Shintani et al. (2013) và
Nogueira Jr. và Leon-Ledesma (2008) đã tìm thấy sự tương quan dương và có ý
nghĩ thống kê giữa ERPT và lạm phát trong khuôn khổ mô hình hồi quy chuyển tiếp
trơn (STR).
Một nguồn gốc quan trọng khác của sự truyền dẫn phi tuyến là chu kỳ kinh tế.
Theo Goldfajn và Werlang (2000), phân tích dữ liệu bảng của 71 quốc gia, họ tìm
thấy rằng đồng tiền mất giá có mức truyền dẫn lớn hơn vào trong các giá cả khi nền
kinh tế tăng trưởng. Correa và Minella (2006) và Pryzstupa và Wróbel (2011) đã
củng cố hành vi bất cân xứng của ERPT với sự tăng trưởng trong khuôn khổ
ngưỡng đường cong Phillips. Với mô hình STR, Nogueira Jr. và Leos-Ledesma
(2008) tìm thấy ba trong số sáu quốc gia có sự truyền dẫn phản ứng phi tuyến với
tăng trưởng sản lượng. Chính vì vậy, người ta cho rằng khi nền kinh tế bùng nổ,
ERPT sẽ cao hơn trong thời kỳ suy thoái. Các doanh nghiệp thấy rằng sẽ dễ dàng
hơn để truyền dẫn những thay đổi tỷ giá hối đoái khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh,
so với khi đang trong thời kỳ suy thoái và doanh số đang sụt giảm.
Mục tiêu luận văn này là đóng góp thêm một bằng chứng thực nghiệm về mối quan
hệ phi tuyến giữa ERPT và lạm phát với số liệu thu thập tại Việt Nam. Với mục tiêu
này, luận văn sẽ phân tích ERPT theo giả thuyết của Taylor (2000) bằng mô hình hồi
quy chuyển tiếp trơn (STR) về sự tương quan thuận giữa ERPT và lạm phát.

2.4

Các nghiên cứu thực nghiệm về truyền dẫn tỷ giá


2.4.1 Các nghiên cứu tác động môi trường lạm phát đến truyền dẫn tỷ giá
Tiêu biểu là nghiên cứu của Taylor (2000) đã cho rằng sự sụt giảm của
truyền dẫn tỷ giá có liên quan đến môi trường lạm phát thấp và truyền dẫn tỷ giá có
mức độ khác nhau khi xem xét sự tăng giá và giảm giá, nghĩa là truyền dẫn bất cân
xứng. Bài báo của Taylor (2000) kiểm tra khả năng lạm phát ổn định là nguyên
nhân của sụt giảm trong mức độ mà các doanh nghiệp truyền dẫn sự gia tăng của
chi phí do những biến động tỷ giá vào trong mức giá. Trong quá trình quan sát


12

các doanh nghiệp tại Mỹ những năm gần dây, sự suy giảm trong quyền định giá của
các doanh nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với sự sụt giảm trong truyền dẫn tỷ giá.
Taylor cho thấy rằng: Các doanh nghiệp sẽ tăng giá và duy trì mức gia tăng này lâu
dài khi cung tiền tăng dần và được giữ ổn định sau đó, lúc này sự truyền dẫn là lớn
hơn và sẽ có một sự gia tăng lớn trong lạm phát. Các doanh nghiệp sẽ tăng giá
nhưng ở mức thấp và sau đó giá cả sẽ quay về mức ban đầu khi cung tiền tăng lên
tạm thời và sau đó quay về mức ban đầu, do đó sự truyền dẫn sẽ thấp hơn. Từ
những kết quả mô phỏng, Taylor cho rằng lạm phát thấp có thể chính nó đã làm
mức truyền dẫn hay làm giảm quyền định giá của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu Choudhri và cộng sự (2006): đã thiết lập một mô hình lý thuyết
kết hợp kiểu định giá thay đổi của Taylor, và sử dụng mô hình lý thuyết này để ước
lượng sự truyền dẫn tỷ giá vào giá tiêu dùng. Để kiểm định các giả thuyết của J.
Taylor, bài báo khởi sự từ một mô hình kinh tế vĩ mô mở. Một cơ sở dữ liệu lớn từ
1979-2000 của 71 quốc gia được sử dụng để ước lượng mối quan hệ này. Có một
bằng chứng mạnh về tương quan dương và có ý nghĩa thống kê giữa truyền dẫn và
lạm phát bình quân qua các quốc gia và các thời kỳ. Hơn nữa, bằng chứng hỗ trợ
mạnh mẽ sự tương quan giữa lạm phát và truyền dẫn ở một số quốc gia mà nó đã
trải qua sự chuyển đổi đáng kể trong môi trường lạm phát. Bên cạnh đó, lạm phát
giữ một vai trò quan trọng hơn hẳn các biến vĩ mô khác trong việc giải thích sự thay

đổi của truyền dẫn tỷ giá hối đoái. Quan hệ truyền dẫn được ước lượng riêng biệt
cho mỗi cơ chế lạm phát (lạm phát thấp, vừa và cao) được xác định là bao gồm
những quốc gia với lạm phát trung bình thấp hơn 10%, giữa 10% và 30% và trên
30%). Một số bằng chứng về ERPT mà bài này đã tìm thấy như sau:

+

ERPT trung bình cho mỗi nhóm tăng lên theo dõi thời gian, đối với tất cả

các nhóm sự tương quan giữa lạm phát và truyền dẫn là dương. Sự truyền dẫn tỷ
giá hối đoái thấp nhất cho nhóm lạm phát thấp và cao nhất cho nhóm lạm phát
cao.
+

Bằng chứng về sự ảnh hưởng của lạm phát đối với sự truyền dẫn tỷ giá ở

những quốc gia chỉ trải qua lạm phát cao và vừa (Argentina, Brazil và Peru), cho


13

thấy rằng truyền dẫn cho cơ chế lạm phát cao là cao hơn cơ chế lạm phát vừa
phải trong mỗi kỳ quan sát.
+

Nhìn thấy được sự tương quan dương và có ý nghĩa thống kê giữa lạm

phát và truyền dẫn ở những quốc gia chỉ trải qua một cơ chế lạm phát và cả
những quốc gia trải qua 2 cơ chế lạm phát khác nhau.
Nghiên cứu Devereux và Yetman (2010) đã phát triển một mô hình lý thuyết

có thể sử dụng để giải thích các yếu tố quyết định của truyền dẫn tỷ giá thấp vào chỉ
số lạm phát ít nhất một phần là do chậm điều chỉnh giá danh nghĩa. Hơn nữa, ngoài
việc những kết quả thực nghiệm cung cấp sự hỗ trợ mạnh mẽ cho sự tồn tại của giá
cứng nhắc trong xác định mức độ truyền dẫn, mô hình lý thuyết còn cho thấy mối
quan hệ phi tuyến giữa truyền dẫn tỷ giá và lạm phát. Một vài kết quả nghiên cứu
quan trọng của Devereux và Yetman (2010) như sau:
+

Đối với những quốc gia lạm phát thấp, truyền dẫn tỷ giá nhìn chung là thấp

hơn nhiều so với mức hoàn toàn. Nhưng đối với những quốc gia tỷ lệ lạm phát

cao hơn thì truyền dẫn tỷ giá cao hơn, vì các doanh nghiệp thấy rằng các chi phí
thực đơn của thay đổi giá được bù đắp nhiều hơn bởi vì giá cả hàng hóa hiện tại
đang cách xa mức giá mong muốn của họ.
+

Để tăng tính thuyết phục của kết quả nghiên cứu, tác giả cũng đã thêm

vào mô hình hồi quy biến lạm phát trung bình và biến độ lệch chuẩn của lạm
phát, kết quả hồi quy cũng có ý nghĩa thống kế tốt, cho thấy rằng sự biến động
của lạm phát và tỷ giá cũng là nguyên nhân làm gia tăng ERPT.
+

Tác giả cũng mở rộng phân tích bằng cách loại ra những quan sát lạm phát

cao (lạm phát hằng năm trên 50%), mô hình mô tà chính xác hơn nền kinh tế có lạm
phát thấp và trung, bởi chính sách tiền tệ giả định mô tả kém ở môi trường lạm phát
cao. Ước lượng mô hình dựa trên mẫu phụ bao gồm 4 giai đoạn (1970-1979, 19801989, 1990-1999, 2000-2007) để hạn chế sự thiên lệch những kết quả hồi quy, và
cuối cùng là kết hợp vừa ước lượng những giai đoạn phụ vừa loại trừ những quan

sát lạm phát cao. Kết quả cho thấy rằng có bằng chứng thống kê mạnh mẽ nhất mối
quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và sự truyền dẫn tỷ giá như đã dự


14

đoán bởi mô hình lý thuyết trong tất cả trường hợp, với hệ số lượng âm của biến
bình phương lạm phát có ý nghĩa cao. Một lần nữa cũng tìm thấy một vài bằng
chứng cho thấy sự biến động của lạm phát và tỷ giá cũng giải thích tốt sự gia
tăng truyền dẫn tỷ giá. Truyền dẫn cao hơn đối với những quốc gia lạm phát cao
hơn và mối quan hệ này là phi tuyến. Khi lạm phát tăng lên trên một ngưỡng
nhất định, sự gia tăng trong truyền dẫn có xu hướng giảm xuống.
Nghiên cứu Shintani và cộng sự (2013) nghiên cứu quan hệ giữa truyền dẫn
tỷ giá (ERPT) và lạm phát bằng mô hình ước lượng phi tuyến dữ liệu chuỗi thời
gian, bài báo của ông cùng cộng sự đã được đăng trên tạp chí “Journal of
International Money and finance” năm 2013, số 32. Nhóm tác giả của bài báo này
sử dụng mô hình tự hồi quy chuyển tiếp trơn STAR để đo lường mức giá cả trong
nước ở Mỹ đối với những thay đổi của tỷ giá trong giai đoạn 1975 đến 2007, sử
dụng dữ liệu theo tháng. Chủ yếu là họ ước lượng qua ba mô hình ESTAR,
DLSTAR bất đối xứng và DLSTAR đối xứng của mô hình tự hồi quy chuyển tiếp
trơn. Kết quả thu được của họ là tìm thấy mức độ ERPT lớn hơn khi biến chuyển
tiếp trên 2% (theo giá trị tuyệt đối). Họ phát hiện ba thời kỳ ERPT riêng biệt. Đầu
tiên, thời kỳ ERPT cao từ sau cú sốc giá dầu thập niên 1970. Suốt hai thập niên
1980 và 1990, ERPT gần như là ổn định trừ những năm đầu thập niên 1990 khi mà
chỉ số giá sản xuất khá là biến động. Những năm đầu thập niên 2000, ERPT tăng
cao trở lại do sự biến động. Những năm đầu thập niên 2000, ERPT tăng cao trở lại
do sự biến động của lạm phát tăng cao. Do đó, Shintani và cộng sự (2013) kết luận
rằng ERPT thấp có liên quan đến môi trường lạm phát thấp, và ngược lại.
Nogueira Jr. Và Leon-Ledesma (2008, 2011) đã thực hiện một nghiên cứu
toàn diện hơn về cơ chế phi tuyến của ERPT vào lạm phát cho 12 quốc gia ở khu

vực Châu Âu. Sử dụng dữ liệu theo tháng, thời kỳ quan sát từ 1983 đến 2005 đối
với các quốc gia phát triển, và từ 1992 đến 2005 cho các thị trường mới nổi.
Nogueira Jr. Và Leon-Ledesma (2008, 2011) sử dụng cả hàm chuyển tiếp logistic và
lũy thừa, họ xem xét một loạt các biến vĩ mô mà nó tác động đến ERPT, đó là tỷ lệ
lạm phát, tỷ giá, tăng trưởng sản lượng và hai thước đo sự bất ổn kinh tế vĩ


15

mô. Với mục đích này, họ sử dụng mô hình ESTAR được để nắm bắt xự bất đối
xứng của tỷ giá đối với độ lớn của thay đổi tỷ giá. Mặt khác, mô hình LSTAR
được sử dụng cho các biến chuyển tiếp khác nhau (lạm phát, sản lượng và thước
đo sự bất ổn vĩ mô), như vậy sự thay đổi sẽ khác nhau đối với những giá trị
ngưỡng này. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng tỷ giá sẽ chuyển dịch cao
hơn khi lạm phát vượt qua một mức ngưỡng. Nghiên cứu này đã đưa ra một
bằng chứng hỗ trợ quan điểm của Taylor đó là Sự truyền dẫn giảm trong môi
trường lạm phát thấp và ổn định. Kể tiếp, nhóm tác giả kiểm sự bất cân xứng của
truyền dẫn tỷ giá với cả chiều phản ứng và độ lớn của tỷ giá. Một mặt, những kết
quả cung cấp sự truyền dẫn tỷ giá là bất cân xứng với sự tăng giá và giảm giá,
nhưng không có xu hướng rõ ràng của bất đối xứng. Mặt khác, mức độ truyền
dẫn được tìm thấy là cao hơn đối với những thay đổi lớn của tỷ giá hơn là một
thay đổi nhỏ, mà nó dường như là một bằng chứng cho sự tồn tại của các chi phí
biên. Cuối cùng, trong khi sự phi tuyến của truyền dẫn tỷ giá liên quan đến chu
kỳ kinh tế, tác giả cũng cho thấy mức độ hoạt động kinh tế có quan hệ cùng
chiều với sự truyền dẫn; đó là, khi sự tăng trưởng hơn, kết quả này có ý nghĩa
cho ba trong số sáu quốc gia trong mẫu nghiên cứu.
Nidhaleddine Ben Cheikh (2012) Bài viết này xem xét sự hiện diện của các
cơ chế phi tuyến trong việc chuyển đổi tỷ giá hối đoái (ERPT) đến lạm phát CPI
cho 12 quốc gia khu vực EU. Sử dụng các mô hình chuyển tiếp trơn, tác giả khám
phá sự tồn tại của phi tuyến tính đối với ba yếu tố kinh tế vĩ mô, cụ thể là tỷ lệ lạm

phát, biến động tỷ giá và chu kỳ kinh doanh. Kết quả cho thấy rằng sự truyền dẫn tỷ
giá hối đoái cao hơn khi tỷ lệ lạm phát vượt ngưỡng, cung cấp cho một bằng chứng
hỗ trợ cho quan điểm của Taylor rằng sự truyền đạt đang giảm dần và thấp hơn môi
trường lạm phát ổn định. Tiếp theo, tác giả kiểm tra tính không đối xứng của truyền
dẫn đối với cả chiều và độ lớn tỷ giá hối đoái. Một mặt, kết quả cung cấp ERPT
không đối xứng đối với tăng và giảm, nhưng không có hướng rõ ràng của bất đối
xứng bên trong. Mặt khác, mức độ truyền dẫn được tìm thấy là


16

cao hơn cho những thay đổi tỷ giá lớn so với thay đổi nhỏ, là bằng chứng về sự
hiện diện của chi phí thực đơn. Cuối cùng, khi kiểm tra các tuyến tính phi tuyến
tính của ERPT so với chu kỳ kinh doanh, tác giả thấy rằng thông qua phụ thuộc
tích cực vào hoạt động kinh tế; đó là, khi GDP thực đang tăng lên trên một số
ngưỡng, ERPT trở nên cao hơn.
2.4.2

Các nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá ảnh hưởng đến lạm phát
Nghiên cứu của Felix P.Hufner và Michael Schroder (2002): nghiên cứu

ở thị trường Châu Âu, tác động của sự truyền dẫn tỷ giá đến giá tiêu dùng ở thị
trường Châu Âu (Exchange Rate Pass-Through to Consumer Prices: A European
Perspective), đã làm theo tinh thần của McCarthy (2000) và sử dụng phân tích
đồng liên kết và mô hình VECM để nắm bắt thuộc tính không dừng của một vài
biến. Nghiên cứu này tập trung vào số liệu tổng thể chứ không phải một ngành
công nghiệp hay một số sản phẩm nhất định, chủ yếu quan tâm đến tác động
tổng thể của thay đổi tỷ giá đến giá tiêu dùng, một vấn đề có liên quan nhất đến
chính sách tiền tệ.
Hai ông phân tích ERPT ở sự thay đổi trong giá đồng nội tệ từ sự biến động

tỷ giá, điển hình là giá tiêu dùng ở khu vực Châu Âu. Những ước lượng đầu tiên của
nhóm tác giả về hệ số truyền dẫn ở một số quốc gia cụ thể là 5 quốc giá lớn ở khu
vực Châu Âu (Đức, Pháp, Italia, Tây Ban Nha và Hà Lan) sử dụng dữ liệu trong
thời kỳ 20 năm (1981-2001) và bao gồm các biến chỉ số tỷ giá hiệu lực quốc gia, lãi
suất ngắn hạn, chênh lệch giữa sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng (output
gap), giá đầu và ba mức giá của chuỗi phân phối: giá nhập khẩu, giá sản xuất, giá
tiêu dùng. Theo đó các tác giả xây dựng bình quân gia quyền của những hệ số này
sử dụng tầm quan trọng của mỗi nước trong chỉ số HICP (Harmonized Index of
Consumer Prices). Bài nghiên cứu sử dụng mô hình VECM (Vector Error
Correction Models) để nắm bắt thuộc tính không dừng của hầu hết các biến sử dụng
và mối tương quan đồng liên kết giữa chúng. Ngoài ra, khi phần lớn học thuyết
trước thời điểm này tập trung vào câu hỏi tại sao có truyền dẫn không hoàn toàn đến
giá nhập khẩu thì các tác giả lại tiến hành đo lường những ảnh hưởng


×