Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Thuế thu nhập cá nhân ở việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.38 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
---- K ---

TRẦN VĂN BẢY

THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ

Chuyên nghành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số

: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...............................................................................................1
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ............................................ 3
1.1.Khái niệm và phân loại thuế .....................................................................................3
1.1.1. Khái niệm về thuế ..................................................................................................3
1.1.2 Phân loại thuế ..........................................................................................................4
1.1.2.1 Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào ngân sách Nhà
nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu...............................4
1.1.2.2 Căn cứ vào đối tượng đánh thuế.........................................................................5


1.2 Thuế thu nhập cá nhân..............................................................................................5
1.2.2 Vai trò của thuế thu nhập cá nhân ........................................................................6
1.2.2.1 Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ phân phối đảm bảo công bằng xã
hội ......................................................................................................................................6
1.2.2.2 Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ đảm bảo nguồn thu quan trọng
cho NSNN..........................................................................................................................7
1.2.2.3 Thuế thu nhập cá nhân góp phần điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế .....................7
1.2.3. Các nguyên tắc đánh thuế theo chuẩn mực quốc tế ...........................................9
1.2.3.1. Nguyên tắc hành chính .......................................................................................9
1.2.3.2. Nguyên tắc mang tính kinh tế ............................................................................11
1.2.4. Nguyên tắc đánh thuế thu nhập cá nhân .............................................................15
1.2.4.1. Đánh thuế trên cơ sở thu nhập chịu thuế hiện hữu .........................................15
1.2.4.2. Tính thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp lũy tiến.................................16
1.2.5. Phương pháp tính thuế thu nhập cá nhân ...........................................................17
1.2.5.1. Tính thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập.............................................17
1.2.5.2 Tính thuế trên tổng thu nhập..............................................................................18
1.2.5.3. Tính thuế hỗn hợp...............................................................................................18
1.2.6. Cơ sở xây dựng chính sách thuế thu nhập cá nhân ............................................18
1.2.6.1. Xác định thu nhập chịu thuế..............................................................................18
1.2.6.1.1. Nguồn gốc của thu nhập ..................................................................................19
1.2.6.1.2. Tinh thuế trên cơ sở cư trú hay nguồn phát sinh thu nhập .........................21
1.2.6.2. Xác định các khoản thu nhập giảm trừ.............................................................22
1.2.6.3. Thuế suất thuế thu nhập cá nhân ......................................................................23
1.2.6.4. Phương pháp quản lý thu nộp thuế...................................................................24
1.3. Bài học kinh nghiệm áp dụng Việt Nam từ việc nghiên cứu thuế thu nhập
cá nhân của một số nước trên thế giới ...........................................................................25
Kết luận chương I.............................................................................................................32

CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở

VIỆT NAM ............................................................................................................. 33

2.1. Khái quát tình hình thực hiện thuế TNĐVNCTNC ở VN ....................................33
2.1.1.Khái quát sự ra đời và phát triển của thuế TNĐVNCTNC................................33
2.1.2 Đánh giá kết quả thực hiện chính sách thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao trong thời gian qua. .........................................................................................34
2.1.3. Những hạn chế của chính sách thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao ở Việt Nam .................................................................................................................38
2.2. Tình hình triển khai thực hiện thuế TNCN ở Việt Nam .......................................43
2.2.1.Sự cần thiết ban hành luật thuế TNCN.................................................................43


2.2.2. Những điểm mới của thuế TNCN ở Việt Nam ....................................................45
2.2.3. Những tồn tại khi triển khai thực hiện thuế TNCN............................................54

Kết luận chương II................................................................................................. 57
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM ............................................................... 58

3.1. Quan điểm hoàn thiện thuế TNCN ở Việt Nam .....................................................58
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách thuế TNCN ở Việt Nam .............................60
3.2.1. Về một số nội dung.................................................................................................60
3.2.2. Về cơ chế quản lý ...................................................................................................61
3.2.3. Về đăng ký thuế......................................................................................................62
3.2.4. Về mức giảm trừ gia cảnh .....................................................................................63
3.2.5. Về thuế suất ............................................................................................................67
3.2.6. Về tổ chức thu thuế ................................................................................................68
3.2.7. Về công tác quyết toán thuế ..................................................................................70
3.3 Các giải pháp triển khai thực hiện thuế TNCN ở Việt Nam..................................71

3.3.1 Về chính sách pháp luật..........................................................................................71
3.3.2 Về nguồn nhân lực ..................................................................................................72
3.3.3 Về công cụ hỗ trợ quản lý và thu thuế ..................................................................73
3.3.4 Về các điều kiện hỗ trợ khác ..................................................................................73
Kết luận chương III .........................................................................................................74

KẾT LUẬN............................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................77
PHỤ LỤC 1
Nội dung cơ bản của Thuê thu nhập cá nhân ở Pháp...................................................80
PHỤ LỤC 2
Nội dung cơ bản của thuế thu nhập cá nhân ở Nhật Bản ............................................85
PHỤ LỤC 3
Nội dung cơ bản của thuế thu nhập cá nhân ở Thái Lan.............................................89
PHỤ LỤC 4
Nội dung cơ bản của Thuê thu nhập cá nhân ở trung Quốc........................................94


1

LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 được xem là một mốc
son trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc gia, đây là bước ngoặc phát triển nền
kinh tế Việt Nam: “Phát triển theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa
dưới sự quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước”.
Sự lựa chọn sáng suốt đường lối phát triển kinh tế mà Đại hội Đảng Cộng Sản
Việt Nam lần thứ VI(1986) đề ra là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, thực tế đã
cho thấy rằng bản thân nền kinh tế thị trường cũng không phải là một nền kinh tế
hoàn hảo, mà bản thân nó cũng có những khuyết tật vốn có của nó. Một trong
những khuyết tật vốn có lớn nhất của nền kinh tế thị trường là ngăn cách giữa giàu

nghèo trong xã hội. Kinh tế thị trường ở Việt Nam cho dù đang ở mức độ đầu,
nhưng vấn đề phân hóa giàu nghèo trong xã hội cũng là vấn đề cần quan tâm.
Như chúng ta đã biết nhà nước dùng thuế làm công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh
tế, điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội và là công cụ chủ yếu huy động
nguồn lực vật chất cho nhà nước. Cho dù trong điều kiện kinh tế Việt Nam, thuế
gián thu có những vai trò rất to lớn của nó, nhưng với mục đích điều hòa thu nhập,
thực hiện công bằng xã hội bằng thuế trong nền kinh tế thì thuế trực thu lại thể hiện
tính ưu việt hơn, đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước một cách hợp lý.
Vì vậy, hướng đến một chính sách thuế thu nhập cá nhân là là điều tất yếu nhằm
góp phần điều tiết một phần thu nhập từ các tầng lớp người có thu nhập cao trong
xã hội, hình thành các quỹ tiền tệ tập trung giúp nhà nước ngày càng thực hiện tốt
hơn các chính sách xã hội của mình.
Như phân tích ở trên, đó cũng là lý do mà Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã hội
Chủ Nghĩa Việt Nam ban hành chính sách thuế thu nhập cá nhân, cụ thể là Pháp
lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Đây là loại thuế được áp dụng từ
rất lâu tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, cho dù tên gọi ở một số nước có khác
nhau nhưng bản chất thì đối tượng tính thuế vẫn là thu nhập cá nhân. Đối với Việt
Nam thì Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đầu tiên được ban
hành vào ngày 27/12/1990, và có hiệu lực thi hành từ 01/04/1991. Qua hơn 17 năm
thực thi, Quốc hội nước ta đã qua 5 lần sửa đổi, thay thế Pháp lệnh năm 1990 bằng


2

những Pháp lệnh mới phù hợp hơn với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế xã hội. Bên
cạnh những kết quả đạt được nhất định, chính sách thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao vẫn còn nhiều bất cập, gây thất thu cho ngân sách nhà nước đồng thời
không công bằng đối với người nộp thuế. Vì vậy, chính sách thuế này cần phải tiếp
tục được đổi mới để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội cũng như trong
bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc tế hiện nay.

Xuất phát từ thực tế và suy nghĩ trên, tôi chọn đề tài:”Thuế thu nhập cá nhân
ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” làm luận văn tốt nghiệp thạc
sĩ kinh tế.
Mục đích chủ yếu của luận văn này là dựa trên những lý luận cơ bản về thuế
thu nhập cá nhân, tập trung phân tích, đánh giá thực trạng triển khai thực hiện thuế
thu nhập cá nhân, đồng thời có tham khảo việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân ở một
số quốc gia trên thế giới. Từ đó đưa ra những vấn đề bất cập của thuế thu nhập cá
nhân hiện hành. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách
thuế thu nhập cá nhân sao cho phù hợp vời điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam và bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Về mặt phương pháp luận, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp so sánh để phân tích, đánh giá quá trình áp
dụng thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trong điều kiện kinh tế Việt Nam.
Từ đó đưa ra những tồn tại cùng những nguyên nhân của tồn tại và đề xuất các giải
pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chính sách thuế Thu nhập cá nhân phù hợp với chủ
trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1 :Tổng quan về chính sách thuế thu nhập cá nhân.
Chương 2: Tình hình triển khai thực hiện thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quố


3

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1.Khái niệm và phân loại thuế
1.1.1. Khái niệm về thuế

Thuế gắn liền với sự ra đời tồn tại, phát triển của nhà nước và là một công cụ
quan trọng mà bất kỳ nhà nước nào cũng sử dụng để thực thi chức năng, nhiệm vụ
của mình. Tùy thuộc vào bản chất của nhà nước và cách thức nhà nước sử dụng, các
nhà kinh tế có nhiều quan điểm khác nhau về thuế, mỗi quan điểm đều nhấn mạnh
một chiều theo từng gốc độ khác nhau. Mặc dù đến nay còn nhiều tranh luận về
khái niệm của thuế nhưng các nhà kinh tế đều thống nhất rằng, để làm rỏ bản chất
của thuế cần nêu bật được các nội dung sau:
-

Thứ nhất, thuế là một khoản thu không bồi hoàn, không mang tính hoàn trả
trực tiếp. Nộp thuế cho nhà nước không có nghĩa là cho nhà nước mượn tiền
hay gửi tiền vào ngân sách nhà nước hoặc là mua một dịch vụ công. Nộp
thuế là nghĩa vụ cơ bản nhất của công dân.

-

Thứ hai, Thuế là một khoản thu mang tính chất bắt buộc, để đảm bảo tập
trung thuế trên phạm vi toàn xã hội, chính phủ phải cậy nhờ vào hệ thống
pháp luật nên thuế thường được quy định dưới dạng văn bản luật hay pháp
lệnh. Do vậy, việc trốn thuế hay gian lận thuế đều bị coi là những hành vi
phạm pháp và phải chịu xử phạt về hành chính hoặc hình sự.

-

Thứ ba, các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho nhà nước các khoản thuế
đã được pháp luật qui định.
Tóm lại, chúng ta có thể đưa ra khái niệm tổng quát về thuế như sau:
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức, cá nhân cho nhà

nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, không mang tính chất

hoàn trả trực tiếp, nhằm sử dụng cho mục đích chung của toàn xã hội.


4

1.1.2 Phân loại thuế :
Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống pháp luật
thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng và quản lý hệ
thống thuế, chúng ta tiến hành sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành những
nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế. Phân loại thuế là việc sắp xếp các loại thuế
trong hệ thống pháp luật thuế thành những nhóm khác nhau theo những tiêu thức
nhất định.Tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã
hội mà cơ cấu và nội dung các Luật thuế có khác nhau. Cũng tùy thuộc vào cơ sở,
mục đích phân định, thông thường thuế được phân loại theo các tiêu thức sau:
1.1.2.1 Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào ngân sách Nhà
nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
- Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần thu
nhập của người tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối với
người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở chổ
người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là một
bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản xuất,
kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu thuế.
Ở nước ta thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt...
- Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của các
pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chổ người nộp thuế theo quy
định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động viên,
điều tiết thu nhập của người chịu thuế.
ở nước ta thuộc loại thuế này gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân, thuế sử dụng đất nông nghiệp...

Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng trong
việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.


5

1.1.2.2 Căn cứ vào đối tượng đánh thuế.
Theo cách phân loại này thuế được chia thành:
-

Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia
tăng.

-

Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ
đặc biệt...

-

Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân.

-

Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất.

-

Thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế

tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp.

Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát huy
tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện một
cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp luật thuế.
1.2 Thuế thu nhập cá nhân
1.2.1 Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng từ rất lâu ở các nước phát triển. Lần
đầu tiên ở Anh vào năm 1799 thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng như một hình
thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và
được chính thức ban hành vào năm 1842. Sau đó thuế thu nhập cá nhân đã nhanh
chóng được lan truyền sang các nước công nghiệp khác như: Nhật (1887), Đức
(1899), Mỹ (1913), Pháp(1916), Liên Xô(1922), Trung Quốc(1936)…Các quốc gia
có nền kinh tế thị trường phát triển đều coi thuế thu nhập cá nhân là một trong
những sắc thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động nguồn thu ngân
sách, thực hiện phân phối công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.


6

Về nguyên tắc, bất kỳ một thể nhân hay pháp nhân nào khi nhận được thu nhập
dưới bất cứ hình thức nào (hiện vật hay giá trị) và bất kể từ nguồn nào (do lao động
hay đầu tư…)đều phải trích một phần từ thu nhập đó để nộp cho nhà nước dưới
dạng thuế thu nhập.
Như vậy, có thể khái niệm thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế trực thu
đánh vào thu nhập của mỗi cá nhân trong xã hội trong khoảng thời gian nhất
định(thường là tháng hoặc năm).
1.2.2 Vai trò của thuế thu nhập cá nhân
1.2.2.1 Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ phân phối đảm bảo công bằng xã
hội.

Một trong những khiếm khuyết của kinh tế thị trường là sự phân phối không
công bằng và đi liền với nó là quá trình phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Thuế thu
nhập cá nhân là một hình thức thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập của từng cá
nhân. Thông qua thuế thu nhập cá nhân, nhà nước thực hiện điều tiết thu nhập của
những người có thu nhập cao, nhờ đó san bằng tương đối sự chênh lệch về thu nhập
giữa các cá nhân trong xã hội.
Để thấy rỏ vai trò đó của thuế thu nhập cá nhân, có thể sử dụng đường cong

GDP %

Lorens dưới đây (Hình 1.1)

Thu nhập được phận
phối công bằng
Thu nhập trước thuế
Thu nhập sau thuế

Dân Cư %

Hình 1.1: Ảnh hưởng của thuế đến sự công bằng trong phân phối thu nhập


7

1.2.2.2 Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ đảm bảo nguồn thu quan trọng
cho NSNN.
Thuế thu nhập cá nhân là một hình thức thu quan trọng của ngân sách nhà
nước, loại thế này đóng vai trò rất quan trọng, hiện nay, ở các nước phát triển tỷ
trọng thu ngân sách của thuế thu nhập cá nhân (TNCN) chiếm rất cao từ 30-40%, có
nước trên 50% như Mỹ, Nhật, Canada, Australia, …các nước đang phát triển chiếm

từ 15-30% như Thailand, Malaixia, philippin…
Đối với Việt Nam ta thuế thu nhập cá nhân tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng
thu NSNN, song trong điều kiện phát triển kinh tế và toàn cầu hóa, thu nhập của cá
nhân có xu hướng tăng nhanh, nên tỷ trọng thuế thu nhập cá nhân trong tổng số thu
NSNN sẽ có khả năng tăng nhanh trong thời gian tới.
1.2.2.3 Thuế thu nhập cá nhân góp phần điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế
Thuế thu nhập cá nhân không chỉ là công cụ huy động nguồn thu NSNN, thực
hiện công bằng xã hội, mà còn giữ vai trò điều tiết nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, ở
mỗi thời kỳ phát triển kinh tế khác nhau, tùy theo yêu cầu điều tiết vĩ mô nền kinh
tế mà chính sách thuế thu nhập cá nhân ở mỗi nước xây dựng phù hợp.
M.Keynes là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh đã đề sướng tư tưởng can
thiệp của nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế để đạt được “ Cầu hiệu quả”
thông qua chính sách thuế, trong đó có thuế thu nhập cá nhân. Ông cho rằng, tồn tại
một quy luật tâm lý cơ bản mà theo ông, con người có xu hướng tăng tiêu dùng của
mình theo tốc độ tăng của thu nhập, nhưng không phải tăng theo cùng mức tăng của
thu nhập. Cùng với tốc độ tăng của thu nhập thì tốc độ tiết kiệm tăng nhanh hơn.
Đây chính là nguyên nhân làm cho cầu không đạt hiệu quả. Bởi vậy, cần phải có
chính sách thuế đánh vào thu nhập đưa vào tiết kiệm để kích thích tiêu dùng và tăng
đầu tư phát triển kinh doanh. Theo ông, khuynh hướng tiêu dùng ở những người có
thu nhập thấp sẽ cao hơn những người có thu nhập cao. Vì vậy, nhà nước phải đánh
thuế thu nhập theo kiểu thuế suất lũy tiến để phân phối lại thu nhập của những


8

người có thu nhập cao đưa vào tiết kiệm. Sự tiết kiệm thừa cần được thu bằng thuế
để hướng chúng vào đầu tư phát triển kinh tế.
Lý thuyết của M.Keynes được sử dụng rộng rải ở hầu hết các nước tư bản phát
triển sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929-1933. Vì vây, thuế thu
nhập cá nhân trong thời kỳ này có đặc trưng bằng biểu thuế suất cao với nhiều thang

bậc thuế và mức chênh lệch về tỉ lệ điều tiết khá lớn giữa bậc thấp và bậc cao.
Chẳng hạn ở Mỹ mức thuế suất tối đa thuế thu nhập cá nhân là 50%, Anh là 83%,
Pháp là 56%, Đức 56%, Ý 62%, Nhật 70%...
Thực hiện điều tiết nền kinh tế trong điều kiện tăng năng suất và hiệu quả kinh
doanh theo lý thuyết “ trọng cung” các nhà kinh tế học thuộc trường phái này mà
đại biểu là Laffer đã đưa ra đường cong lý thuyết nổi tiếng gọi là đường cong Laffer

Tổng số thu

(Hình 1.2).

Thuế Suất

t1

t0

t2

Hình 1.2 : Đồ thị đường cong Laffer
Mô hình đường cong Laffer cho thấy quan hệ giữa thuế suất và tổng thu nhập
từ thuế. Mức thuế suất bằng không thì thu ngân sách từ thuế cũng bằng không. Ở
thái cực đối lập, nếu thuế suất bằng 100% thì thu nhập từ thuế cũng bằng không vì
lúc đó người ta không muốn làm việc. Việc nâng dần mức thuế từ 0% lên dưới mức


9

thuế suất t0 làm thu nhập về thuế cũng tăng lên. Nhưng nếu mức thuế suất được xác
định cao hơn mức t0 sẽ gây ra các phản ứng như: Hạ thấp động lực kinh doanh;

chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài; chuyển hoạt động sang kinh tế ngầm để trốn thuế.
Như vậy, qua đồ thị đường cong Laffer ta thấy, nếu thuế suất được hạ thấp, thì
có thể số thu của ngân sách sẽ không bị giảm thậm chí còn tăng lên do kinh tế được
kích thích tăng trưởng và sự ủng hộ đồng tình của các đối tượng nộp thuế. Điều này
cho thấy, nếu thuế suất của thuế thu nhập được xác định ở mức hợp lý sẽ có tác
động kích thích tăng trưởng kinh tế đồng thời tăng thu cho ngân sách.
Tuy nhiên, trên thực tế rất khó xác định nền kinh tế hiện tại đang nằm ở điểm
nào trên đường cong để từ đó quyết định biện pháp tăng hay giảm thuế. Chẳng hạn
nhìn trên hình 1.2 ta thấy : Trên đường cong Laffer tồn tại hai mức thuế khác nhau
t1 và t2 đều cho tổng số thuế như nhau, do đó về nguyên tắc, hạ mức thuế từ t2
xuống t1 thì tổng thu thuế không thay đổi, còn trong trường hợp hạ từ mức t2 xuống
t0 thì tổng thu thuế sẽ tăng lên. Mặc khác, hạ thấp thuế từ t2 xuống t0 phải được thực
hiện trong khoảng thời gian khá dài mới có kết quả tăng thu về thuế, còn trước mắt
sẽ làm giảm tức thời số thuế thu được.
Do đó, theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, việc nghiên cứu một
mức thuế thu nhập cá nhân phù hợp để nâng cao hiệu quả kích thích của nó được
đánh giá quan trọng hơn vai trò công bằng mà nó tạo ra trong phân phân phối thu
nhập.
1.2.3. Các nguyên tắc đánh thuế theo chuẩn mực quốc tế.
1.2.3.1. Nguyên tắc hành chính:
Nguyên tắc quốc tịch
Nguyên tắc quốc tịch phát biểu rằng mỗi công dân phải có nghĩa vụ đóng thuế
cho đất nước. Benjamin Franklin có một câu nói nổi tiếng: “In this world nothing is
certain but death and taxes” (Trên cõi đời này không có gì chắc chắn ngoài cái chết
và thuế). Câu nói này toát lên một sự thật hiển nhiên và đơn giản: đã là dân thì phải
nộp thuế. Nguyên tắc quốc tịch không chỉ nêu rõ nghĩa vụ công dân mà còn bảo vệ


10


công dân của một nước khỏi nghĩa vụ thuế của quốc gia khác, tức là “dân xứ nào
phải và chỉ nộp thuế cho xứ đó” mà thôi, nếu như họ không có thu nhập phát sinh ở
một xứ nào khác. Điển hình của nguyên tắc này là quy định thuế suất 0% trong thuế
giá trị gia tăng.
Trong khi đó, ở Việt Nam có câu “Nộp thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của
người dân” dễ khiến người dân thắc mắc về quyền lợi và mối tương quan giữa
quyền lợi-nghĩa vụ mà không phải ai cũng hiểu và đo được những lợi ích mà chính
phủ mang lại cho đất nước, như: sự ổn định về chính trị, sự vững mạnh về quốc
phòng, uy tín và vị thế cạnh tranh quốc gia, môi trường thiên nhiên,… Hơn nữa câu
khẩu hiệu của cơ quan thuế Việt Nam dễ khiến người ta quên mất một đặc trưng cốt
lõi của thuế là không đối giá.
Nguyên tắc minh bạch
Thuế làm thu nhập chuyển dịch bắt buộc và không ngang giá từ khu vực tư
vào ngân sách nhà nước. Vậy nên, thuế phải minh bạch và được giải thích cũng như
hướng dẫn thống nhất cả nước. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi chính phủ phải công
bố cho dân chúng biết thuế đã được sử dụng như thế nào. Những khoản thuế ngầm
(như lạm phát) và thuế tương lai (như nợ công) cũng phải minh bạch. Sự không
minh bạch trong thuế khóa là nguyên nhân dẫn đến những căn bệnh như: bất bình
đẳng, tham những, lạm thu,….đồng thời làm suy yếu tính pháp định của thuế.
Nguyên tắc này thể hiện tại Khoản 3 Điều 4 của Luật Quản lý thuế: “Việc
quản lý thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng; bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của người nộp thuế”.
Nguyên tắc trọng pháp
Thuế phải do quốc hội thông qua do đó nó đương nhiên là một đạo luật, kể cả
cơ quan quản lý thuế lẫn đối tượng nộp thuế và những bên có liên quan đều bị chi
phối và buộc phải chấp hành. Nguyên tắc này thể hiện trong một cụm từ nổi tiếng
“No Taxation Without Representation!” (Không đánh thuế mà không có đại diện)
do giáo sỹ Jonathan Mayhew đưa ra trong một buổi thuyết pháp tại Boston năm



11

1750. Đến năm 1765 cụm từ này được sử dụng phổ biến tại Boston và được chính
trị gia James Otis phát triển thành câu: "Taxation without representation is tyranny."
(Thuế mà không có đại diện là chuyên chế)
Chính phủ thường có nhiều lý lẽ và đủ sức mạnh hành thu, nên nguyên tắc này
nhằm ngăn chặn chính phủ và chính quyền địa phương tự ý đặt ra các khoản thu đối
với người dân và bảo vệ dân chúng trước những nguy cơ lạm thu của cơ quan hành
pháp. Điều đó có nghĩa là, về mặt nguyên tắc, mọi sắc thuế không được ban hành
dưới hình thức một đạo luật thì không có giá trị và không có khả năng ràng buộc đối
với người đóng thuế -- cử tri. Và, ngay cả cơ quan quản lý thuế cũng có khả năng bị
kiện nếu làm trái luật. Điều 116 Luật quản lý thuế ghi: “1. Người nộp thuế, tổ chức,
cá nhân có quyền khiếu nại với cơ quan quản lý thuế hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về việc xem xét lại quyết định của cơ quan quản lý thuế, hành vi hành
chính của công chức quản lý thuế khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi
đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình; 2. Công dân có
quyền tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế, công chức
quản lý thuế hoặc tổ chức, cá nhân khác.”
1.2.3.2. Nguyên tắc mang tính kinh tế:
Khi một khoản thuế được ban hành nó không chỉ điều chỉnh nghĩa vụ và hành
vi công dân mà sẽ tác động đến phân phối và/hoặc tái phân phối thu nhập giữa
chính phủ và khu vực tư, giữa các nhóm dân cư với nhau. Do đó, dù khoác bên
ngoài hình thức luật hay pháp lệnh, thuế nói chung có những ảnh hưởng đến các
hoạt động kinh tế-xã hội của đất nước, nên pháp luật thuế cùng với pháp luật ngân
sách đã trở thành một lĩnh vực pháp luật tương đối độc lập cần phải được tiếp cận
đồng thời từ hai góc độ: góc độ kinh tế và góc độ pháp lý.
Trên đây chúng ta đã bàn về những nguyên tắc không chứa đựng nội dung
kinh tế. Phần tiếp theo sẽ thảo luận những nguyên tắc mang tính kinh tế.
Nguyên tắc nguồn gốc -nguyên tắc lãnh thổ



12

Bất luận thu nhập được tạo ra bởi công dân mang quốc tịch nào, hễ phát sinh
trong khuôn khổ lãnh thổ quốc gia nào thì phải nộp thuế cho chính phủ nuớc chủ
nhà bởi những bảo hộ, bảo đảm và tiện ích công cộng mà nước chủ nhà đã cung
cấp. Đây chính là cơ sở của Điều 2 của Luật Thuế Thu nhập cá nhân: “ Đối tượng
nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và
ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh
trong lãnh thổ Việt Nam”.
Trường hợp xuất hiện xung đột giữa nguyên tắc quốc tịch và nguyên tắc nguồn
gốc thì các quốc gia và vùng lãnh thổ sẽ thỏa thuận tránh đánh thuế hai lần bằng
một hiệp định. Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn
so với luật thuế trong nước. Ví dụ: trường hợp tại Hiệp định có các quy định theo đó
Việt Nam có quyền thu thuế đối với một loại thu nhập nào đó nhưng Luật thuế Việt
Nam chưa có quy định thu thuế đối với thu nhập đó hoặc quy định thu với mức thấp
hơn thì áp dụng theo quy định của Luật thuế Việt Nam. Khi Việt Nam thực hiện các
quy định tại Hiệp định, vào từng thời điểm nhất định các từ ngữ chưa được định
nghĩa trong Hiệp định sẽ có nghĩa như quy định tại luật của Việt Nam theo mục
đích thuế tại thời điểm đó, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
Nguyên tắc nguồn gốc cũng thể hiện tại Điều 28 -- Thuế đối với thu nhập từ
chuyển nhượng vốn của Luật Thuế Thu nhập cá nhân: “Thuế đối với thu nhập từ
chuyển nhượng vốn của cá nhân không cư trú được xác định bằng tổng số tiền mà
cá nhân không cư trú nhận được từ việc chuyển nhượng phần vốn tại tổ chức, cá
nhân Việt Nam nhân với thuế suất 0,1%, không phân biệt việc chuyển nhượng được
thực hiện tại Việt Nam hay tại nước ngoài”.
Nguyên tắc trung lập
Nguyên tắc này đòi hỏi thuế không được ảnh hưởng đến sản xuất xã hội,
không gây biến dạng các hoạt động kinh tế. Những biện pháp khuyến khích đầu tư
thông qua thuế của chính phủ không thiên vị cho những dự án đạt lợi ích xã hội

thấp. Chẳng hạn có ba dự án: A, B và C với suất nội hoàn chưa nhận được khuyến


13

khích lần lượt là 18%, 14% và 12%. Bỏ qua những yếu tố như quy mô vốn, độ rủi
ro,… thì dự án A tốt nhất và dự án C xấu nhất. Nếu chính phủ ưu đãi thuế khuyến
suất nội hoàn1 của cả ba dự án thay đổi nhưng A vẫn tốt nhất và C vẫn xấu nhất thì
đó là khuyến khích trung lập; nếu thứ tự ba dự án thay đổi, chẳng hạn B trở nên tốt
nhất, thì khuyến khích đó không còn trung lập nữa. Điều này thể hiện ở bảng dưới
đây.
Bảng1.1: Suất nội hoàn ban đầu và sau khi nhận khuyến khích đầu tư
Dự án

Sau khi khuyến khích

Ban đầu

Trung lập

Không trung lập

A

18%

20%

19%


B

14%

17%

20%

C

12%

16%

15%

Theo Luật Thuế Thu nhập cá nhân, lợi tức sinh ra từ tiền gửi các tổ chức tín
dụng không chịu thuế, nhưng lợi tức sinh ra từ các khoản cho doanh nghiệp vay
(dưới hình thức trái phiếu doanh nghiệp) thì lại chịu thuế. Như vậy, chúng ta dễ
dàng thấy Chính phủ thiên vị cho các tổ chức tín dụng và ngăn chặn khả năng vay
trực tiếp công chúng của doanh nghiệp. Bằng quy định này, Chính phủ gián tiếp duy
trì mức giá cao của tiền tệ, khuyến khích các hoạt động tín dụng của tổ chức tín
dụng hơn hoạt động tín dụng của các doanh nghiệp.
Nguyên tắc công bằng và bình đẳng
Nguyên tắc công bằng nói ở đây là công bằng theo khả năng nộp thuế (abilityto-pay) chứ không phải theo mức thụ hưởng. Công bằng theo khả năng nộp thuế có
nghĩa là số thuế phải tỉ lệ với thu nhập. Như vậy thu nhập cao thì nộp nhiều, thu
nhập thấp thì nộp ít và thu nhập chưa vượt qua ngưỡng thì tạm thời chưa nộp. Sử

1


Internal Rate of Return (IRR)


14

dụng nguyên tắc này trong thực tiễn, chính phủ buộc người có thu nhập càng cao
càng phải hy sinh mức hữu dụng từ thu nhập theo một tỷ lệ nhiều hơn.
Có ba cách hiểu về sự hy sinh:
(1) hy sinh mức hữu dụng tuyệt đối bằng nhau (equal absolute sacrifice): chính
phủ đánh thuế sao cho mức giảm tuyệt đối về độ hữu dụng của mọi cá nhân là như
nhau → Mỗi cá nhân mất đi một mức hữu dụng tuyệt đối bằng nhau.
(2) hy sinh tỷ lệ hữu dụng bằng nhau (equal proportional sacrifice): chính phủ
đánh thuế sao cho mức giảm tương đối về độ hữu dụng của mọi cá nhân là như
nhau → Mỗi cá nhân mất đi một tỷ lệ hữu dụng bằng nhau.
(3) hy sinh hữu dụng biên bằng nhau (equal marginal sacrifice): Độ hữu dụng
sinh ra từ đồng thuế cuối cùng phải bằng nhau. Để nộp 130.000 đồng thuế người có
thu nhập thấp phải hy sinh một cái áo mặc đi làm, trong khi người thu nhập cao chỉ
hy sinh tiêu dùng mặt hàng kém thiết yếu hơn, chẳng hạn: khăn tay. Như vậy, thuế
nên trích xuất nhiều hơn vào thu nhập cao và giảm xuống cho thu nhập thấp sao cho
mức hy sinh thỏa dụng là như nhau khi đồng thuế cuối cùng được nộp..
Từ đó, trên thực tế nguyên tắc công bằng theo khả năng tài chính làm cơ sở
của thuế lũy tiến trên những đồng thu nhập vượt qua các ngưỡng nhất định.
Nguyên tắc bình đẳng đòi hỏi địa vị thuế của mỗi chủ thể phải ngang nhau
hoặc mỗi đối tượng nộp thuế phải được đối xử không thiên vị. Đóng thuế là trách
nhiệm công dân, là nghĩa vụ của mọi người bất kể giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp và
địa vị xã hội.
Cho đến cuối năm 2008, phân phối gánh nặng thuế thu nhập cá nhân ở nước ta
thể hiện bất bình đẳng rất lớn. Theo bà Nguyễn Thị Cúc -- nguyên Phó Tổng cục
trưởng Tổng cục Thuế, thành viên Ban Soạn thảo Dự Luật thuế TNCN, với mức
khởi điểm 5 triệu đồng, hiện số người nộp thuế thu nhập cao từ tiền lương, tiền công

mới hơn 300.000 người, chỉ bằng 1,36% lực lượng lao động phi nông lâm nghiệp
hoặc 0,68% toàn lực lượng lao động hay 0,35% dân số Việt Nam. Nếu áp dụng


15

giảm trừ cá nhân và người phụ thuộc như dự thảo luật thì trong thời gian đầu số
người nộp thuế này có thể giảm. Điều này cho thấy tuyệt đại bộ phận dân số Việt
Nam vẫn chưa bị thuế chi phối. Đó là bất công đối với những người đang nộp thuế.
Dẫn chứng thứ hai về bất bình đẳng. Theo số liệu từ (1) Ban đổi mới doanh
nghiệp, Bộ Công Thương, (2) Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 45-2008 (933) ngày 30
tháng 10 năm 2008, trang 1 và (3) Điều tra doanh nghiệp năm 2006, Tổng cục
Thống kê, doanh nghiệp nhà nước kiểm soát hơn 54% tổng vốn quốc gia, nhưng chỉ
đóng góp 41% số thu thuế và tạo ra một gánh nặng nợ bằng 70% tổng nợ quốc gia.
Dẫn chứng thứ ba. Theo Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30 tháng 09 năm
2008 hướng dẫn thi hành thuế thu nhập cá nhân, thu nhập tính thuế của cá nhân cư
trú bằng thu nhập chịu thuế từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công sau khi trừ đi
(1) khoản giảm trừ gia cảnh, (2) các khoản đóng bảo hiểm bắt buộc và (3) khoản
đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học. Như vậy, nếu một cá nhân kinh doanh
muốn mua bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho chính bản thân mình thì đây là tự
nguyện và sẽ không được trừ khỏi thu nhập tính thuế. Hướng dẫn này dễ khiến
người ta suy đoán Chính phủ chưa ‘tin’ người dân, chưa khuyến khích tính tự
nguyện tự giác của dân chúng. Đây là một biểu hiện của sự không tôn trọng quyền
tự do công dân.
Kinh nghiệm xây dựng chính sách thuế ở nhiều nước cho thấy, việc thiết kế hệ
thống pháp luật thuế như thế nào để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả, bao giờ cũng
gắn liền với các nguyên tắc đánh thuế. Nói cách khác, các nguyên tắc đánh thuế
luôn được xem là một phần không thể thiếu trong cấu trúc hoàn chỉnh của một hệ
thống pháp luật thuế. Các nguyên tắc này vừa là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
quá trình xây dựng và thực hiện chính sách thuế, vừa là nền tảng cho việc thể chế

hóa bằng pháp luật đối với hệ thống thuế quốc gia.
1.2.4. Nguyên tắc đánh thuế thu nhập cá nhân
1.2.4.1. Đánh thuế trên cơ sở thu nhập chịu thuế hiện hữu


16

Mặc dù cá nhân có nhiều nguồn thu nhập khác nhau, nhưng trong thực tế
không phải toàn bộ thu nhập phát sinh đều là đối tượng điều chỉnh của thuế thu
nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế. Thu
nhập chịu thuế là phần thu nhập quy định cơ sở đánh thuế thu nhập. mọi hệ thống
thu nhập dù đánh trên từng loại thu nhập hay trên tổng thu nhập nói chung đều tính
thuế trên thu nhập ròng để phản ánh đúng đắn khả năng kinh tế của người nộp thuế.
Vì vậy thu nhập chịu thuế được xác định trên cơ sở các khoản thu nhập nhận được
sau khi miễn trừ một số khoản chi phí của người nộp thuế.
Hiện nay trên thế giới còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm và
cách tính thu nhập nên cơ sở đánh thuế thu nhập cá nhân cũng không giống nhau.
Tùy theo chính sách thuế thu nhập của mỗi nước mà nội dung, phương pháp xác
định các khoản miễn trừ và thu nhập chịu thuế có sự khác nhau. Mặc khác, trên thực
tế không phải mọi khoản thu nhập phát sinh đều có khả năng xếp vào thu nhập chịu
thuế.
1.2.4.2. Tính thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp lũy tiến
Đặc trưng quan trọng nhất của thuế thu nhập cá nhân là áp dụng biểu thuế lũy
tiến, tức là mức thuế tăng lên một cách lũy tiến theo mức thu nhập tăng lên. Thuế
suất lũy tiến được coi là một phương pháp hiệu quả nhất để đánh thuế theo “ khả
năng nộp thuế” của cá nhân. Tuy nhiên trong thực tế để tính được mức lũy tiến đó là
điều không đơn giản.
Xung quanh vấn đề áp dụng nguyên tắc lũy tiến đối với thuế thu nhập cũng có
nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tính lũy tiến của thuế thu nhập cũng
cần có giới hạn và khi áp dụng nguyên tắc lũy tiến cũng cần phân biệt nguồc gốc

của các loại thu nhập để phát huy vai trò điều chỉnh của thuế thu nhập. Nhưng cũng
có quan điểm cho rằng làm như vậy sẽ gây phức tạp trong việc thiết kế thuế suất, vì
không nên dùng các loại thuế khác nhau cho thu nhập phát sinh từ các nguồn thu
nhập khác mà nên áp dụng các khoản miễn, giảm thuế để đảm bảo chức năng của
thuế thu nhập hoặc áp dụng thuế lũy tiến từng phần.


17

1.2.5. Phương pháp tính thuế thu nhập cá nhân
Về lý thuyết tồn tại 03 mô hình đánh thuế thu nhập cá nhân
1.2.5.1. Tính thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập
Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập là phương pháp áp dụng một
thuế suất tương ứng cho từng nguồn thu nhập phát sinh. Tương ứng với mỗi nguồn
thu nhập khác nhau, người ta tính các chi phí được trừ của từng loại thu nhập (nhiều
trường hợp chi phí có thể được trừ hoặc không được trừ) và gán cho mỗi loại thu
nhập đó các mức thuế suất phân biệt. Số thuế phải nộp là tổng hợp số thuế thu nhập
mà người nộp thuế phải nộp theo từng nguồn.
Các nhà kinh tế cho rằng, phương pháp này khó trồn thuế hơn, vì nó thu “ theo
sát từng nguồn thu nhập “. Tuy nhiên, đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu
nhập trên thực tế đã bộc lộ nhiều hạn chế:
-

Khi chia thu nhập cá nhân thành phần thu nhập để chịu các mức thuế khác
nhau không đơn thuần là công việc phức tạp và khó khăn, mà điều quan
trọng hơn là không áp dụng triệt để các mức thuế suất lũy tiến và các suất
miễn giảm thuế thu nhập cá nhân. Nếu có áp dụng mức thuế suất lũy tiến thì
cũng chỉ đúng cho một số loại thu nhập. Điều đó lại gây bất bình đẳng giữa
các đối tượng nộp thuế có các loại thu nhập khác nhau.


-

Việc áp dụng thuế suất cho từng loại thu nhập đòi hỏi phải phân loại thu
nhập, trên thực tế công việc này lại tiềm ẩn nhiều khó khăn trong công tác
quản lý. Mặt khác, đó cũng là cơ sở để người nộp thuế dể dàng trốn thuế.
Nếu ranh giới giữa các loại thu nhập không chính xác thì sẽ mất ý nghĩa công
bằng của thuế thu nhập cá nhân.

-

Trong một chừng mực nào đó cách đánh thuế này cũng không hiệu quả đối
với xã hội vì người nộp thuế có thể lưa chọn các hoạt động phi hiệu quả để
chịu mức thuế thấp nhất.


18

1.2.5.2 Tính thuế trên tổng thu nhập
Phương pháp này tiến hành đánh thuế trên tổng thu nhập, bao gồm tất cả các
khoản thu nhập nhận được không phân biệt nguồn phát sinh thu nhập và chi phí tạo
ra thu nhập. Tổng thu nhập và tổng chi phí sẽ được xem xét trên một tổng thể và
đánh thuế trên phần chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí, việc phân ra
từng loại thu nhập không có ý nghĩa.
Do có ưu điểm là đơn giản và có thể áp dụng được biểu thuế lũy tiến khi đánh
thuế nên phương pháp này được áp dụng rộng rải ở các nước phát triển.
1.2.5.3. Tính thuế hỗn hợp
Thuế thu nhập cá nhân có thể được đánh theo cách kết hợp cả hai phương pháp
kể trên. Ban đầu đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập, sau đó tổng hợp
tất cả các nguồn lại và đánh trùm lên tổng thu nhập một mức thuế nữa. Phương
pháp này cho phép áp dụng thuế suất lũy tiến ngoài thuế suất thông thường đánh

trên từng loại thu nhập. Cách đánh thuế này đảm bảo sự chính xác nhưng lại phức
tạp khi tính toán.
Như vậy, mỗi phương pháp điều có những ưu nhược điểm riêng. Việc áp dụng
một phương pháp thích hợp tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội từng nước, trình
độ quản lý và yếu tố tâm lý, tập quán từng dân tộc.
1.2.6. Cơ sở xây dựng chính sách thuế thu nhập cá nhân
Mặc dù ở mỗi nước, luật thuế thu nhập cá nhân được xây dựng khác nhau tùy
theo tính đặc thù của từng nước. Bởi vậy, giữa các nước sẽ có sự khác nhau trong
xác định thu nhập chịu thuế, thuế suất, miễn giảm thuế…Tuy nhiên, khi xây dựng
chính sách thuế thuế thu nhập cá nhân các quốc gia đều quan tâm giải quyết các vấn
đề sau đây:
1.2.6.1. Xác định thu nhập chịu thuế
Thu nhập chịu thuế của một cá nhân trong kỳ tính thuế là tổng thu nhập trừ đi
tổng các khoản được giảm trừ.


19

Tổng thu nhập của đối tượng nộp thuế là tổng thu nhập được xác định cơ sở để
tính thu nhập chịu thuế mà đối tượng nộp thuế đó kiếm được trong ký tính thuế. Do
đó, tổng thu nhập của một đối tượng sẽ không bao gồm những khoản miễn thuế. Để
xác định tổng thu nhập cần phải xác định từng khoản cấu thành tổng thu nhập theo
từng loại thu nhập cụ thể, tức là xem xét tổng thu nhập được hình thành từ những
nguồn nào.
Tuy nhiên, không phải mọi khoản thu nhập của người nộp thuế đều đưa vào
đối tượng nộp thuế, tùy theo mục đích đánh thuế mà có khoản thu nhập không đưa
vào đối tượng đánh thuế. Trong thực tế khi xây dựng các quy định tính thuế cần xác
định rỏ ràng những khoản nào nằm trong tổng thu nhập chịu thuế và những khoản
nào nằm trong tổng thu nhập không chịu thuế. Muốn xác định thu nhập chịu thuế
chính xác cần phải xem xét các khoản sau đây.

1.2.6.1.1. Nguồn gốc của thu nhập
Mọi khoản thu nhập của cá nhân có thể phát sinh từ các nguồn khác nhau. Tuy
vậy, cũng có thể phân loại thành các nguồn cơ bản như sau:
Thu nhập từ lao động : Thu nhập có nguồn gốc từ lao động giữ vị trí rất quan
trọng và chiếm tỷ trọng khá lớn trong thu nhập chịu thuế ở các nước phát triển. Thu
nhập từ lao động bao gồm bất kỳ khoản bù đắp nào trực tiếp hay gián tiếp liên quan
đến lao động. Đó là khoản thu nhập của cá nhân nhận được dưới hình thức tiền
lương hoặc tiền công do người chủ của lao động trả.
Bên cạnh việc xác định các khoản thu nhập từ lao động còn phải tính toán các
chi phí lao động để nhận được các thu nhập này. Vì thu nhập chịu thuế là các khoản
thu nhập ròng nên cần phải xác định các chi phí phát sinh để phản ánh đúng đắn thu
nhập chịu thuế từ lao động. Do đó, các nguyên tắc đưa ra là cần thiết xem xét khả
năng được trừ của các chi phí phát sinh. Nếu không có các nguyên tắc chuẩn thì khó
xác định được ranh giới thu nhập chịu thuế và khi đó các tranh chấp có thể phát sinh
giữa cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế hoặc tạo ra những cơ hội phổ biến để trốn


20

thu nhập chịu thuế thông qua sự biến tướng của chi phí lao động. Điều đó lại nảy
sinh sự bất bình đẳng về nghĩa vụ giữa nguời nộp thuế có mức thu nhập như nhau.
Phúc lợi của người làm công:Phúc lợi bất kỳ bằng tiền hoặc không phải bằng
tiền nhận được từ lao động mà không nằm trong phần tiền lương, tiền công bằng
tiền mặt. Các khoản phúc lợi thông thường như nhà ở, phương tiện sử dụng đi lại do
người chủ lao động cung cấp cho mục đích cá nhân và cung cấp hàng giảm giá cho
người làm công. Toàn bộ các khoản phúc lợi dưới dạng hiện vật này cũng coi như
một khoản thu nhập của người lao động có khả năng kinh tế như tiền công, tiền
lương trả bằng tiền mặt nên thuộc vào cơ sở đánh thuế.
Hiện nay, tồn tại ba phương pháp đánh thuế vào các khoản phúc lợi.
Thứ nhất, đưa giá trị các khoản phúc lợi vào thu nhập chịu thuế của người làm

công như một phần thu nhập của lao động (coi tiền lương, tiền công bao gồm cả các
khoản phúc lợi)
Thứ hai, áp dụng thuế danh nghĩa đánh trên các khoản phúc lợi bằng cách
không cho phép người chủ lao động khấu trừ chi phí liên quan đến việc cung cấp
các khoản phúc lợi cho người làm công. Phương pháp này áp dụng trong trường
hợp khó phân bổ phúc lợi cho từng người. Nhưng trong trường hợp người chủ lao
động nằm trong tình trạng kinh doanh không có lãi thì việc thu thuế khó thực hiện
được.
Thứ ba, thuế phúc lợi đánh riêng biệt với người chủ lao động dựa trên giá trị
các khoản phúc lợi cung cấp cho người làm công. Phương pháp này được áp dụng ở
một số nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi, nhưng việc áp
dụng hình thức thuế suất lũy tiến từng phần thích hợp đối với từng người làm công
lại gặp khó khăn.
Từ các phương pháp nêu trên có thể cho phép xây dựng chế độ thuế phúc lợi
độc lập với hệ thống thuế thu nhập cá nhân hoặc là kết hợp với hệ thống thuế thu
nhập nhằm đảm bảo gánh nặng chung về thuế tương đồng với bất kỳ các khoản
phúc lợi nào (ngay cả khi người chủ lao động chi trả cho người làm công bằng tiền


21

mặt thay vì cung cấp một khoản phúc lợi). Hiện nay, nhiều quốc gia áp dụng hệ
thống kết hợp để tránh những biến động kinh tế và thất thu thuế do chuyển đổi thu
nhập theo chiều hướng đánh thuế.
Thu nhập từ hoạt động kinh doanh: Tùy theo tính chất của từng ngành nghề
kinh doanh mà thu nhập chịu thuế được xác định theo những phương pháp khác
nhau. Một số quốc gia phân biệt giữa thu nhập từ các hoạt động thương mại và thu
nhập từ các hoạt động hành nghề và công việc. Sự phân chia này không hoàn toàn
xuất phát từ quan niệm logic về thuế, mà từ phương diện lịch sử.
Thu nhập từ vốn, tài sản hay gọi là thu nhập từ đầu tư: Tùy theo từng giai

đoạn lịch sử và tùy theo quan điểm đánh thuế của mỗi nước mà thu nhập này có thể
xếp loại vào thu nhập bị đánh thuế hoặc không bị đánh thuế.
1.2.6.1.2. Tinh thuế trên cơ sở cư trú hay nguồn phát sinh thu nhập
Để tiến hành đánh thuế thu nhập cá nhân trước hết phải căn cứ vào hai cơ sở là
“ cư trú “ và “ nguồn phát sinh thu nhập”.
Hệ thống đánh thuế dựa vào tình trạng “ cư trú” được sử dụng rộng rải trên thế
giới. Theo hệ thống này, các cá nhân cư trú ở một nước phải nộp thuế tại nước đó
và đánh trên mọi khoản thu nhập từ khắp nơi trên thế giới, còn những cá nhân
không cư trú chỉ bị đánh thuế trên phần thu nhập phát sinh tại nước đó. Tuy nhiên,
khái niệm cư trú được quy định khác nhau ở các nước khác nhau.
Cơ sở thứ hai được dựa vào để xác định nghĩa vụ nộp thuế là “ nguồn phát sinh
thu nhập”. Nếu áp dụng theo cơ sở nguồn phát sinh thu nhập thì các cá nhân chỉ
phải nộp thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập phát sinh tại nước sở tại mà
không phải nộp thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập phát sinh ở nước ngoài.
Cách đánh thuế này thích hợp với những nước có nhiều người nước ngoài đến làm
việc và đầu tư còn bản thân công dân của nước đó ít đi làm hoặc đầu tư ở nước
ngoài.


22

Việc xác định rỏ cơ sở đánh thuế theo tình trạng cư trú hay nguồn phát sinh
thu nhập không những có ý nghĩa quan trọng trong công tác xác định nghĩa vụ nộp
thuế của các cá nhân mà còn là cơ sở để tiến hành đàm phán, ký kết các hiệp định
tránh đánh thuế trùng giữa các nước với nhau trong quan hệ quốc tế về thuế.
1.2.6.2. Xác định các khoản thu nhập giảm trừ
Một trong những đặc điểm quan trọng của thuế thu nhập cá nhân là có tính tới
hoàn cảnh của từng cá nhân cần phải được xem xét khi xác định thu nhập chịu thuế.
Các khoản được giảm trừ có thể được thực hiện dưới hai dạng : Miễn trừ cá nhân và
miễn trừ tiêu chuẩn.

Miễn trừ cá nhân được thực hiện theo phương pháp kê khai chi phí thực tế phát
sinh đối với các khoản được phép giảm trừ. Đối với phương pháp này, một số khoản
chi phí kê khai đòi hỏi phải có những chứng từ chứng minh, một số khoản được
thực hiện theo phương pháp định mức và một số khoản có thể được thực hiện theo
phương pháp “ giới hạn tối đa”. Thông thường, có hai loại giảm trừ cá nhân là :
Giảm trừ có tính chất kinh tế và giảm trừ có tính chất xã hội. Giảm trừ có tính chất
kinh tế là các khoản giảm trừ mang tính chi phí liên quan trực tiếp đến việc tạo ra
thu nhập như chi phí đi lại, ăn ở… kể cả các khoản đóng bảo hiểm. Giảm trừ có tính
chất xã hội là các khoản giảm trừ mang tính chất chi trợ cấp có tính xã hội như giúp
đở người có hoàn cảnh khó khăn, chi nuôi dưỡng, bảo trợ người già, tàn tật…
Phương pháp miễn trừ cá nhân được bảo đảm sự công bằng và thường được áp
dụng ở những nước có trình độ phát triển kinh tế và dân trí cao, hệ thống lưu trử và
kiểm soát thông tin tốt. Đối với các nước chậm phát triển thường không đủ điều
kiện để áp dụng phương pháp này mà chủ yếu áp dụng phương pháp giảm trừ tiêu
chuẩn. Phương pháp này được thực hiện thông qua việc xác định mức khởi điểm
chịu thuế. Về nguyên tắc, mức khởi điểm chịu thuế là mức thu nhập trung bình xã
hội đảm bảo trang trải đủ những chi phí cần thiết cả về mặt kinh tế và xã hội theo
quan niệm và tập quán của từng nước. phương pháp “giảm trừ tiêu chuẩn” tuy
không công bằng vì mức chi phí cần thiết được cân bằng giữa các đối tượng nộp


×