Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

gói kích cầu của chính phủ và những tác động của nó đến nền kinh tế VN 6 tháng đầu năm 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.86 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF), nền kinh tế thế giới năm 2009 sẽ tồi tệ
nhất trong 60 năm qua. Do đó, một trong những vấn đề được chính phủ các quốc
gia quan tâm nhất hiện nay là những chính sách phát triển kinh tế nhằm đưa quốc
gia thoát khỏi tình hình khủng hoảng. Bởi thế trong hai năm qua, kể từ sau cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chính phủ Việt Nam đã rất nỗ lực, đưa ra những
chính sách kinh tế thích hợp và kịp thời để bảo vệ nền kinh tế. Chính phủ đã thông
qua gói kích cầu 8 tỷ USD (chiếm khoảng 12% GDP) gồm: giảm, giãn thuế; bảo
lãnh tín dụng cho doanh nghiệp (DN), thực hiện tài trợ lãi suất 4%, tăng đầu tư
công... Bên cạnh đó là hàng loạt giải pháp về an sinh xã hội đã và đang được thực
hiện như: điều chỉnh lương, bảo hiểm thất nghiệp, tài trợ việc làm. Và thật sự
những chính sách này đã mang lại một kết quả khả quan cho nền kinh tế: GDP
tháng 2 tăng 8,4%, tháng 3 tăng 2,3%, tháng 4 tăng 5,4%, tháng 5 tăng 6,8%, tháng
6 tăng 8,2%, theo Ngân hàng Thế giới, nửa đầu năm nay, Việt Nam là một trong 13
quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế dương. Một trong những biện pháp kinh tế
được nhắc đến nhiều nhất hiện nay là gói kích cầu khổng lồ của chính phủ, bắt đầu
thực hiện từ ngày 1/1/2009 với số vốn 143 nghìn tỷ đồng (xấp xỉ 8 tỷ USD) và 17
nghìn tỷ đồng (tương đương 1 tỷ USD) vốn vay có bảo lãnh và sẽ kết thúc vào
ngày 31/12/2009.
Đánh giá được tầm quan trọng của gói kích cầu này, chúng em quyết định
chọn đề tài “gói kích cầu của chính phủ và những tác động của nó đến nền
kinh tế VN 6 tháng đầu năm 2009” làm đề tài tiểu luận môn học
Nội dung đề tài được chia làm 5 chương:
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KÍCH CẦU
CHƯƠNG II : BỐI CẢNH VIỆT NAM KHI THỰC HIỆN GÓI KÍCH
CẦU
CHƯƠNG III : HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TỪ CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU
CỦA CHÍNH PHỦ TRONG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2009
CHƯƠNG IV : HẠN CHẾ TRONG CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU CỦA CHÍNH
PHỦ
CHƯƠNG V: GIẢI PHÁP ĐỂ GÓI KÍCH CẦU HIỆU QUẢ HƠN


Trong đề tài này, chúng em sử dụng các phương pháp chủ yếu là tham khảo ý
kiến và thực tế, sau đó tiến hành đánh giá, so sánh nhằm tìm hiểu thêm về gói kích
cầu này của chính phủ.
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KÍCH CẦU
1. Khái niệm
Kích cầu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu ròng của chính phủ (hay còn gọi tiêu
dùng công cộng) để làm tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế.
2. Biện pháp kích cầu
Biện pháp kích cầu cụ thể có thể là giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc cả hai.
Kích cầu thường chỉ được dùng khi nền kinh tế lâm vào trì trệ hay suy thoái, đang
cần vực dậy. Kích cầu đặc biệt hay được sử dụng khi nền kinh tế rơi vào trạng thái
bẫy thanh khoản, là khi mà chính sách tiền tệ trở nên mất hiệu lực vì lãi suất đã quá
thấp.
Kích cầu đôi khi còn được gọi là chính sách Keynes vì biện pháp này tác động
tới tổng cầu. Trong cuốn Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, John
Maynard Keynes cũng nhắc đến việc "chi tiêu thâm hụt" khi cần thiết để giúp nền
kinh tế khỏi suy thoái. Tư tưởng của Keynes là nếu cần, chính phủ có thể chi tiêu
ngân sách mạnh đến mức dẫn tới thâm hụt cả ngân sách nhà nước để kích thích
tổng cầu.
Gói kích cầu được triển khai dựa trên cơ sở tác động trực tiếp đến các yếu tố
cấu thành tổng cầu (C, I, G, NX ):
- Tiêu dùng C: Keynes cho rằng bộ phận quan trọng nhất và ổn định nhất trong tổng
cầu là tiêu dùng . suy thoái kinh tế khiến người dân bị mất việc hay thu nhập bị
giảm sút thì xu hướng cắt giảm tiêu dùng là tất yếu. tuy nhiên rõ ràng là những
nhóm thu nhập khác nhau sẽ có “xu hướng tiêu dùng cận biên” không giống nhau.
những nhóm người bị tổn thương nhiều nhất từ suy thoái sẽ cắt giảm chi tiêu nhiều
nhất. Nếu giải pháp kích cầu nhắm vào các đối tượng phải “chạy ăn từng bữa”, đối
tượng có xu hướng tiêu dùng cận biên cao nhất thì họ sẽ nhanh chóng trở lại mức
tiêu dùng cũ khi thu nhập được phục hồi.
- Đầu tư I: theo Keynes, thành tố này của tổng cầu là nhạy cảm nhất. Tuy nhiên,

ông nhấn mạnh rằng cầu đầu tư không hẳn chỉ phụ thuộc vào lãi suất mà về cơ bản
là phụ thuộc vào tỷ lệ sinh lời cận biên của đầu tư. Trong thời kỳ suy thoái, lãi suất
thấp cũng không nhất thiết trở thành một động lực quan trọng để kích thích đầu tư,
và do vậy biện pháp “hỗ trợ lãi suất” chưa hẳn đã là biện pháp có hiệu lực cao
trong đầu tư. Tính nhạy cảm của đầu tư nói lên rằng: khi nền kinh tế có tín hiệu
phục hồi thì “bản năng động vật” ( animal spirit- thuật ngữ Keynes đã sử dụng) sẽ
hình thành và tạo làn sóng đầu tư tư nhân, kích thích sự gia tăng sản lượng. Mặc dù
gói kích cầu bao gồm các biện pháp chính sách có tác động về ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn, tuy nhiên để ngăn chặn kịp thời suy giảm, phần lớn gói kích cầu phải
được thực hiện trong thời gian ngắn. Do vậy, chỉ nên dành một phần không lớn giá
trị của gói kích cầu cho các công trình mất nhiều thời gian mới đưa vào sử dụng.
- Chi tiêu chính phủ G: Theo công thức “số nhân chi tiêu” của Keynes, việc gia
tăng vai trò và chi tiêu chính phủ đối với các dịch vụ công ( y tế, giáo dục…) sẽ
giảm bớt gánh nặng đóng góp vào quá trình xã hội hoá của người dân. Người dân,
đặc biệt là người có thu nhập thấp, cư dân nông thôn sẽ có nhiều tiền hơn cho tiêu
dùng, đồng thời tiết kiệm và đầu tư tư nhân cũng có cơ hội tăng.
- Xuất nhập khẩu NX: Theo lý thuyết kinh tế vĩ mô, các hàm xuất khẩu và nhập
khẩu đều phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái. Một trong những nguyên nhân của tình
trạng thâm hụt thương mại nặng nề là đồng bản tệ đã lên giá so với các đồng tiền
của các đối tác thương mại chủ yếu. Điều này làm cho nhập khẩu tăng nhanh hơn
xuất khẩu. Để cải thiện cán cân thương mại và tăng hiệu lục của việc kích cầu đối
với sản xuất trong nước, ngoài việc điều chỉnh giảm giá đồng nội tệ cần bổ sung
thêm các biện pháp khác như tăng thuế tiêu thụ đặc biệt vào các mặt hàng xa xỉ.
Như vậy, kích cầu chỉ là một trong những biện pháp của chính phủ liên quan
đến chính sách tài khoá để đối phó với tình hình suy thoái. Nói cách khác, kích cầu
là công cụ quan trọng nhất của chính sách kinh tế bên cạnh tác dụng bổ trợ của
chính sách tiền tệ ( trong tình trạng lạm phát cao chính sách tiền tệ lại trở nên quan
trọng).
Trong hai loại biện pháp cụ thể là giảm thuế và tăng chi tiêu ngân sách nhà
nước, biện pháp thứ hai được cho rằng có hiệu suất kích thích tổng cầu cao hơn.

Việc sử dụng kích cầu như một công cụ chính sách để ổn định kinh tế vĩ mô
nhận được cả sự ủng hộ lẫn phản đối. Cuộc tranh luận về hiệu quả kích cấu năm
trong một cuộc tranh luận lớn hơn về hiệu quả của chính sách tài chính và cuộc
tranh luận về giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ thì đằng nào có hiệu
suất bình ổn kinh tế vĩ mô cao hơn.
Những người phản đối kích cầu đưa ra luận điểm rằng vì chính phủ không có
khả năng xác định chính xác thời điểm, mục tiêu và lượng của gói kích cấu, nên
Kích cầu không những không hiệu quả mà còn đem lại thâm hụt ngân sách nhà
nước và hệ quả tiếp theo là nợ chính phủ gia tăng. Có luận điểm nữa cho rằng khi
chính phủ phát hành trái phiếu để huy động tài chính cho kích cầu, lãi suất trên thị
trường sẽ tăng lên làm ức chế đầu tư của xí nghiệp và tiêu dùng của cá nhân. Có
luận điểm còn đi xa hơn, viện đến lý luận của Robert Barro (1974) về việc một chủ
thể kinh tế điển hình có thể suy nghĩ rằng hôm nay chính phủ cho mình (có thể
bằng giảm thuế hoặc chuyển khoản qua tăng chi tiêu chính phủ) tức là hôm nay
chính phủ phải đi vay, ngày mai chính phủ phải trả nợ vay đó thì chính phủ sẽ lại
lấy của mình bằng cách tăng thuế.
Những người ủng hộ kích cầu và rộng hơn là ủng hộ chính sách tài chính thì
cho rằng nền kinh tế tồn tại những cái bất hoàn hảo mà một trong số đó là người
tiêu dùng - nhất là những người có thu nhập thấp - vì lý do này hay khác (chẳng
hạn như vì không đủ thông tin, vì không có công cụ tài chính, vì không có dự tính
duy lý, v.v...) không thể ổn định tiêu dùng của mình. Một bộ phận lớn dân cư là
những người "có tiền trả thì mới dám tiêu dùng". Chính vì vậy, một sự cắt giảm
thuế tạm thời hay chuyển khoản tài chính có thể giúp những người này ổn định tiêu
dùng, và do đó ổn định kinh tế vĩ mô.
3. Những yêu cầu của biện pháp kích cầu
Theo nhà kinh tế Lawrence Summers, để biện pháp kích cầu có hiệu quả thì
việc thực hiện nó phải đảm bảo: đúng lúc, trúng đích và vừa đủ.
Đúng lúc (timely) tức là phải thực hiện kích cầu ngay khi các doanh nghiệp
chưa thu hẹp sản xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Nếu thực hiện
sớm quá, kích cầu có thể làm cho nền kinh tế trở nên nóng và tăng áp lực lạm phát.

Nhưng nếu thực hiện chậm quá, thì hiệu quả của kích cầu sẽ giảm. Việc thực hiện
kích cầu đúng lúc càng phải được chú ý nếu các quá trình chính trị và hành chính
để cho một gói kích cầu được phê duyệt và triển khai là phức tạp. Thường thì chính
phủ phải đệ trình quốc hội kế hoạch kích cầu và phải được cơ quan lập pháp tối cao
này thông qua. Và, không phải lúc nào công việc này cũng suôn sẻ.
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với việc thực hiện kích cầu đúng lúc chính
là sự thiếu chính xác trong xác định thời điểm chuyên pha của chu kỳ kinh tế. Có
trường hợp kinh tế đã chuyển hẳn sang pha suy thoái một thời gian rồi mà công tác
thu thập và phân tích số liệu thống kê không đủ khả năng phán đoán ra.
Trúng đích ( targeted) tức là hướng tới những chủ thể kinh tế nào tiêu dùng
nhanh hơn khoản tài chính được hưởng nhờ kích cầu và do đó sớm gây ra tác động
lan tỏa tới tổng cầu hơn; đồng thời hướng tới những chủ thể kinh tế nào bị tác động
bất lợi hơn cả bởi suy thoái kinh tế. Thường thì đó là những chủ thể kinh tế có thu
nhập thấp hơn. Người có thu nhập cao thường ít giảm tiêu dùng hơn so với người
có thu nhập thấp trong thời kỳ kinh tế quốc dân khó khăn. Việc hỗ trợ các gia đình
có thu nhập thấp để họ không phải giảm tiêu dùng hay thậm chí còn tăng tiêu dùng
sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa, kích thích doanh nghiệp mở rộng sản xuất và thuê mướn
thêm lao động.
Để kích cầu trúng đich, các nhà hoạch định chính sách thường dựa vào các mô
hình kinh tế lượng để mô phỏng hiệu quả của gói kích cầu qua các kịch bản khác
nhau tương ướng với các mục tiêu khác nhau, từ đó tìm ra mục tiêu hợp lý nhất.
Vừa đủ (temprorary) tức là gói kích cầu sẽ hết hiệu lực khi nền kinh tế đã trở
nên tốt hơn. Nếu gói kích cầu quá bé thì kích thích sẽ bị hụt hơi và tổng cầu có thể
không bị kích thích nữa, khiến cho gói kích cầu trở thành lãng phí. Ngược lại gói
kích cầu lớn qua tạo ra tác động kéo dài khiến cho nền kinh tế đã hồi phục mà vẫn
trong trạng thái tiếp tục được kích thích thì sẽ dẫn tới kinh tế mở rộng quá mức,
lạm phát tăng lên. Điều này càng được chú ý nếu ngân sách nhà nước và dự trữ
ngoại hối nhà nước không dư dật.
CHƯƠNG II : BỐI CẢNH VIỆT NAM KHI THỰC HIỆN GÓI KÍCH
CẦU

1. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi thực hiện gói kích cầu năm
2009
1.1. Thuận lợi
Thứ nhất: Nhu cầu phát triển hạ tầng cơ sở, hạ tầng kỹ thuật và BĐS ở VN
còn rất lớn. Đặc biệt, VN có dân số đông thì nhu cầu này đang trở nên cấp bách.
Đây là thuận lợi đối với gói kích cầu hướng vào đầu tư của Chính phủ. Từ trước
đến nay, tỉ trọng đầu tư của Chính phủ VN trong tổng đầu tư xã hội thuộc vào loại
cao trên thế giới và được thực hiện thường xuyên nên hiện Nhà nước đã có sẵn các
danh mục đầu tư đã được triển khai dở dang hoặc đang được phê duyệt. Khác với
nhiều nước còn phải khảo sát, thiết kế từ đầu các dự án đầu tư công từ gói kích
thích kinh tế thì VN đã có thể nhanh chóng lựa chọn các dự án phù hợp với mục
tiêu và triển khai trên diện rộng.
Thứ hai: VN đã và đang thực hiện một số chương trình quốc gia về an sinh
xã hội, trong đó Chính phủ đóng vai trò điều phối các nguồn lực. Đây là lợi thế lớn
khi hướng gói kích cầu vào an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Thứ ba: Một lực lượng lớn lao động của VN nằm ở khu vực nông thôn và
trong các DNNVV, chi phí tạo ra việc làm mới trong khu vực này rất thấp và sản
phẩm đầu ra là những nhu yếu phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu có nhu cầu tương
đối ổn định nên làm gia tăng hiệu quả việc làm và thu nhập của gói kích cầu.
Thứ tư: Hệ thống NHTM VN không phải gánh chịu những tổn thất tài chính
trực tiếp từ sự sụp đổ thị trường phái sinh toàn cầu. Vì vậy, một mặt Chính phủ
không phải bơm tiền cứu trợ hệ thống NH, mặt khác vẫn duy trì được lòng tin của
người gửi tiền.
1.2. Khó khăn
Đó là thâm hụt ngân sách và thương mại kéo dài. Vì vậy, dư địa để mở rộng
chính sách tài khóa để khôi phục tăng trưởng kinh tế là rất hạn chế, nếu kích cầu
không ổn có thể gây bất ổn với cán cân thanh toán quốc tế và giá trị VND.Từ năm
2004 đến 2008, VN có tỉ lệ lạm phát khá cao. Lạm phát dự tính năm 2009 thấp do
cầu yếu và giá nhiên - vật liệu có thể gây khó khăn nhất định cho việc mở rộng tiền
tệ và thực hiện gói kích cầu bằng chính sách tài khóa. Tuy nhiên, nợ của Chính phủ

và nợ nước ngoài của VN không lớn, chưa đáng lo ngại. VN có thể chấp nhận một
mức thâm hụt ngân sách khá cao trong ngắn hạn và tìm cách ổn định dần trong dài
hạn.
Từ những điểm bất lợi trên, gói kích cầu của VN cần được thiết kế và triển
khai thận trọng với quy mô nhỏ, lộ trình hợp lý, chỉ đạo thực hiện tập trung và
khẩn trương.
2.QUY MÔ GÓI KÍCH CẦU
2. Thực hiện gói kích cầu như thế nào ?
2.1.Kích cầu bao nhiêu?
Theo Báo cáo của Chính phủ, đến nay tổng gói kích cầu lên tới 143 nghìn tỷ
đồng (xấp xỉ 8 tỷ USD) và 17 nghìn tỷ đồng (tương đương 1 tỷ USD) vốn vay có
bảo lãnh.
Trong đó, Chính phủ dành hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng là 17 nghìn tỷ đồng;
miễn giảm thuế thu nhập cá nhân, thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp là 28
nghìn tỷ đồng; tạm hoãn thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước là 3,4 nghìn
tỷ đồng, ứng trước dự toán năm sau là 37,2 nghìn tỷ đồng, chuyển nguồn vốn đầu
tư năm 2008 sang năm 2009 là 27,6 nghìn tỷ đồng; phát hành bổ sung vốn trái
phiếu Chính phủ (TPCP) là 20 nghìn tỷ đồng, các khoản chi kích cầu khác và đảm
bảo an sinh xã hội là 9,8 nghìn tỷ đồng.
So với các nước trên thế giới, quy mô gói kích cầu hiện nay của nước ta phù
hợp với yêu cầu ngăn chặn đà suy giảm của nền kinh tế.
2.2. Đối tượng kích cầu
Theo Quyết định 443 do Thủ tướng ban hành và có hiệu lực ngày 4/4/2009,.
Đối tượng áp dụng của gói kích cầu số hai vẫn là các ngân hàng thương mại, ngân
hàng phát triển Việt Nam, công ty tài chính thực hiện hỗ trợ lãi suất theo quy định
của Thủ tướng trước đây về việc cho vay hỗ trợ lãi suất từ đầu tháng 1/2/2009 tới
hết ngày 31/12/2009, các khoản vay được hỗ trợ lãi suất là khoản vay trung, dài
hạn ngân hàng bằng đồng Việt Nam theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức, cá
nhân thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất kinh doanh, kết cấu hạ tầng ký kết
trước và sau ngày 1/4/2009 mà thực tế giải ngân từ ngày 1/4/2009 được thực hiện

theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về chế độ báo cáo thống kê thuộc các
ngành, lĩnh vực kinh tế.
Phạm vi đối tượng của gói kích cầu số hai cũng thu hẹp, chọn lọc hơn. Nó
không thể dàn đều cho mọi doanh nghiệp, mọi ngành. Chỉ ưu tiên những đơn vị sử

×