Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.56 KB, 19 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI
2.1. MỘT SỐ NÉT VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ
NỘI
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNNo&PTNT Hà Nội
2.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNNo&PTNT Hà Nội.
Được thành lập theo quyết định số 51- QĐ/NHNN ngày 27/6/1988 của
Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (nay là Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam), Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Thành phố
Hà Nội (nay là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội) trên
cơ sở 28 cán bộ cùng với 21 công ty, xí nghiệp thuộc lĩnh vực Nông, Lâm, Ngư
nghiệp được điều động từ Ngân hàng Công - Nông – Thương Thành phố Hà
Nội và 12 Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp huyện được đổi tên từ
các Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Huyện đã hội tụ về trụ sở chính tại số 77
phố Lạc Trung - quận Hai Bà Trưng - Hà nội.
Với 1.182 lao động, 18 tỷ nguồn vốn, chủ yếu là tiền gửi Ngân sách Huyện
và 16 tỷ dư nợ mà hầu hết là nợ cho vay các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác
xã đã trở thành nợ tồn đọng. Trụ sở, phương tiện, kho tàng không đáp ứng được
yêu cầu kinh doanh. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Hà Nội sớm phải hoạt
động trong môi trường cạnh tranh với các Ngân hàng đã có bề dày hoạt động
kinh doanh và có nhiều lợi thế hơn hẳn, không những thế còn luôn trong tình
trạng thiếu vốn, thiếu tiền mặt, những năm đầu cùng với sự hỗ trợ nguồn vốn
của Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Trung ương cũng chỉ đáp ứng được một
phần nhu cầu vay vốn của liên hiệp các công ty lương thực Hà Nội để mua gạo
cho nhân dân nội thành, một phần nhu cầu tiền mặt chi lương cho các doanh
nghiệp.
Nhận rõ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất
nước, mà trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần đổi mới nông
thôn ngoại thành Hà Nội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông nghiệp
Hà Nội đã nhanh chóng khai thác nguồn vốn để đầu tư cho các thành phần kinh
tế mà trước hết là đầu tư cho nông nghiệp. Nhờ có những quyết sách táo bạo,


đổi mới nhận thức kiên quyết khắc phục điểm yếu nhất là thiếu vốn, thiếu tiền
mặt, nhờ vậy chỉ sau hơn hai năm hoạt động, từ năm 1990 trở đi Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông nghiệp Hà Nội đã có đủ nguồn vốn và tiền mặt
thoả mãn cơ bản các nhu cầu tín dụng và tiền mặt cho khách hàng.
Thực hiện chủ trương cho vay hộ sản xuất theo quyết định 499A của Tổng
giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã phối hợp với Hội nông
dân, Hội liên hiệp Phụ nữ Thành phố đã đẩy mạnh cho vay phát triển các sản
phẩm nông nghiệp như trồng dâu nuôi tằm, chăn nuôi bò sữa, gia súc gia cầm,
phát triển vùng chuyên canh rau, hoa cây cảnh… nhờ vậy thu nhập và đời sống
nông dân ngoại thành đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ hộ khá và giàu tăng lên, tỷ
lệ hộ nghèo giảm xuống.
Tháng 9/1991, bảy Ngân hàng huyện thị: Mê Linh Hoài Đức, Đan Phượng,
Thạch Thất, Ba Vì, Phúc Thọ, Thị xã Sơn Tây được bàn giao về tỉnh Vĩnh Phú
và Hà Tây. Tiếp theo đó thực hiện mô hình hai cấp từ tháng 10/1995 Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã bàn giao 5 Ngân hàng Sóc Sơn,
Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm về Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam. Lúc này Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Hà Nội lại đứng trước một thử thách mới đó là mang tên Ngân hàng Nông
nghiệp nhưng lại phục vụ các thành phần kinh tế không mang dáng dấp của sản
xuất nông nghiệp giữa nội đô Thành phố Hà Nội.
Để đứng vững tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã chủ động mở rộng mạng lưới
để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế
trên địa bàn nội thành.
Năm 1994 thành lập Ngân hàng khu vực Chợ Hôm (nay là Hai Bà Trưng).
Năm 1995 thành lập Ngân hàng khu vực Đồng Xuân (nay là Hoàn Kiếm).
Năm 1996 thành lập Ngân hàng quận Tây Hồ, Ba Đình, Thanh Xuân.
Năm 1997 thành lập Ngân hàng quận Cầu Giấy.
Năm 2000 thành lập Ngân hàng quận Đống Đa và khu vực Tam Trinh.

Năm 2001 thành lập 10 phòng giao dịch
Năm 2002 thành lập 2 Ngân hàng Chương Dương và Tràng Tiền Plaza và
11 phòng giao dịch.
Năm 2003 thành lập 3 chi nhánh Chợ Hôm, Hàng Đào, Nghĩa Đô.
Tháng 12/2004 bàn giao 2 chi nhánh Chương Dương về chi nhánh Long
Biên và chi nhánh Tây Hồ về chi nhánh Quảng An.
Tháng 5/2005 thành lập chi nhánh Trần Duy Hưng.
Tháng 3/2006 bàn giao chi nhánh Cầu Giấy về Trung ương.
Tháng 12/2007 bàn giao chi nhánh Thanh Xuân về Trung ương.
Ngày 31/3/2008 bàn giao 3 chi nhánh Hoàn Kiếm, Tam Trinh, Đống Đa về
Trung ương.
Ngày 1/4/2008 chuyển các chi nhánh cấp hai thành phòng giao dịch.
Đến 31/12/2008 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
gồm hội sở chính có các phòng nghiệp vụ:
1.Phòng hành chính sự nghiệp
2.Phòng kế hoạch tổng hợp
3.Phòng kế toán và ngân quỹ
4.Phòng điện toán
5.Phòng tín dụng
6.Phòng kinh doanh ngoại hối
7.Phòng dịch vụ và marketing
8.Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ
Và 17 phòng giao dịch trực thuộc.
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNNo&PTNT Hà Nội
2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn tại NHNNo&PTNT Hà Nội
Hiểu rõ tầm quan trọng sống còn của vốn đối với hoạt động kinh doanh
Ngân hàng để đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế,
Ngân hàng rất coi trọng nghiệp vụ nguồn vốn mà chủ yếu là công tác huy động
vốn, luôn chủ trương mở rộng các hình thức huy động vốn, và coi trọng việc
tăng trưởng nguồn vốn là nhiệm vụ hàng đầu.

Ngoài nguồn vốn do Trung ương điều chuyển, nguồn vốn còn lại Ngân
hàng tự cân đối. Điều đó đủ nói lên sự cố gắng rất lớn của Ngân hàng trong
công tác huy động vốn. Trong từng thời điểm Ngân hàng đã chủ động thường
xuyên bám sát tình hình diễn biến về lãi suất huy động, phân tích được tâm lý
người dân và xu hướng tiền nhàn rỗi của họ. Chính điều này đã giúp cho Ngân
hàng có những quyết định đúng đắn về hình thức huy động cũng như về lãi suất.
Hơn nữa Ngân hàng cũng mở rộng mạng lưới huy động, áp dụng chính sách lãi
suất huy động linh hoạt, mang tính cạnh tranh, cải tiến phương thức phục vụ
khách hàng theo hướng khép kín các dịch vụ ngân hàng làm tốt công tác
marketing ngân hàng. Kết quả huy động vốn của ngân hàng từ năm 2006 đến
năm 2008 như sau:
Bảng số liệu 1: Kết quả huy động vốn trong 3 năm 2007-2009
Đơn vị : Tỷ đồng
Năm Nguồn vốn huy động Tăng giảm so với các năm trước
Số tuyệt đối Tỷ lệ (%)
2007 13.821 976 7,60
2008 15.321 1.500 10,85
2009 14.487 -834 -5,44
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Trong ba năm 2007-2009 nguồn vốn huy động của Chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội có sự biến động khá lớn. Nguồn vốn
huy động của ngân hàng có sự tăng trưởng rõ rệt từ 2007-2008 cả về số tuyệt
đối và tỷ lệ phần trăm. Tuy nhiên, bước sang năm 2009, cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế thế giới đã ảnh hưởng hệ thống tài chính của nước ta
kết quả là làm cho tiền gửi vào hệ thống ngân hàng giảm đáng kể cả về số tuyệt
đối lẫn tương đối (năm 2009, nguồn vốn huy động giảm 834 tỷ đồng hay giảm
5,44% so với năm 2007).
2.1.2.2. Kết quả hoạt động đầu tư tín dụng
Đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, trên cơ sở nguồn vốn đã huy
động được, NHNNo&PTNT Hà Nội thực hiện cho pháp nhân và các cá nhân

hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật Việt Nam được vay vốn khi có
nhu cầu theo đúng các thể thức tín dụng ngắn hạn và dài hạn. Do chú trọng đến
chất lượng và hiệu quả tín dụng coi đó là điều cơ bản quan trọng nhất, lấy hiệu
quả của khách hàng là mục đích kinh doanh của mình. Từ năm 2007 đến nay
hoạt động cho vay đã quyết định một phần lớn kết quả kinh doanh của
NHNNo&PTNT Hà Nội.
Bảng số liệu 2: Kết quả hoạt động đầu tư tín dụng trong
3 năm 2007-2009
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2007 2008 2009
So sánh 08/07 So sánh 09/08
Số tiền % Số tiền %
Tổng doanh số cho vay 12.750 14.286 15.860 1.536 12 1.574 11
Tổng doanh số thu nợ 12.142 13.854 14.020 1.712 14 166 1,19
Tổng dư nợ 2.882 3.688 4.646 806 27,9 958 25,9
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy kết quả hoạt động đầu tư tín dụng của
NHNNo&PTNT Hà Nội trong ba năm 2007, 2008, 2009 nhìn chung có sự tăng
cả về doanh số cho vay và doanh số thu nợ thể hiện sự nỗ lực cố gắng của ban
lãnh đạo và toàn thể cán bộ nhân viên trong Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội.
Tổng doanh số cho vay năm 2009 là 15.860 tỷ đồng tăng thêm 1.574 tỷ đồng
tương ứng với 11%. So sánh với tổng doanh số cho vay ta thấy sự tích cực thu
hồi nợ của Chi nhánh có sự tăng trưởng rõ rệt năm 2008 tăng lên so với năm
2007 là 1.712 tỷ đồng tương ứng 14%. Điều này cho thấy sự lớn mạnh trong
hoạt động đầu tư tín dụng của Chi nhánh trong 3 năm qua là điều kiện thuận lợi
để tiến hành hoạt động khác tạo đà cho nhiều bước phát triển mới của Chi
nhánh. Có được kết quả trên là do NHNo&PTNT Hà Nội đã không ngừng củng
cố, duy trì các mối quan hệ với khách hàng truyền thống, nghiên cứu thị trường đê
tìm khách hàng mới, đồng thời chú trọng đổi mới phong cách giao dịch, luôn cập
nhật thông tin để tư vấn thị trường cho khách hàng.

2.2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNNO&PTNT HÀ NỘI
2.2.1. Thực trạng huy động vốn tại NHNNo&PTNT Hà Nội
Là một NHTM trong nền kinh tế thị trường, hơn nữa là một ngân hàng
chuyên ngành trong lĩnh vực đầu tư và phát triển nông nghiệp nông thôn
NHNNo&PTNT Hà Nội đã mở rộng và nâng cao hoạt động kinh doanh nói
chung, công tác huy động vốn nói riêng nhằm thực hiện và phát huy những chức
năng đó của mình.
Bảng số liệu 3: Biến động nguồn vốn thời kỳ 2007-2009
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2007 2008 2009
Tổng nguồn vốn huy động 13.821 15.321 14.487
Tăng giảm( tỷ đồng) 976 1.500 -834
Tốc độ tăng giảm ( %) 7,60 10,85 -5,44
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)
Kết quả trên phần nào có thể thấy rõ qua thực trạng huy động vốn tại
NHNNo&PTNT Hà Nội với phương châm: “nguồn vốn là khâu mở đường, tạo
mặt bằng vốn tăng trưởng vững chắc”, Ngân hàng đã cố gắng thực hiện đa dạng
hoá các hình thức, các biện pháp, các kênh huy động vốn khác nhau tạo nguồn
vốn tăng trưởng ổn định.
Bảng số liệu 4: Cơ cấu huy động vốn theo loại tiền 2007-2009
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007 2008 2009
Số tiền % Số tiền % Số tiền %
Tổng nguồn vốn huy động 13.821 100 15.321 100 14.487 100
- Nội tệ 12.947 93,7 14.232 92,9 12.915 89,15
- Ngoại tệ 874 6,3 1.089 7,1 1.572 10,85
(Nguồn số liệu: Phòng kế hoạch tổng hợp)

Nhìn vào bảng số liệu kết cấu nguồn vốn huy động trên ta thấy cơ cấu
nguồn vốn này có sự thay đổi qua các năm. Từng loại vốn có những đặc điểm
riêng mà biến động của nó liên quan đến nhân tố cấu thành và đặc điểm của nó.
Chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích từng nguồn vốn trong cơ cấu huy động vốn của
Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội một cách chi tiết. Cụ thể như sau:
2.2.1.1. Nguồn vốn nội tệ
Đây là một trong hai nguồn vốn huy động chính mà ngân hàng đã và đang
huy động. Nguồn vốn này được ngân hàng huy động dưới các hình thức đó là:
• Tiền gửi tổ chức kinh tế và ký quỹ;

×