Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Phát triển công nghệ thông tin trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam : Luận văn ThS. Kinh tế : 60 31 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 173 trang )

Đại học Quốc gia Hà nội
--------------------------------

Khoa kinh tế

Đinh Thị Hồng Duyên

Phát triển Công nghệ thông tin trong điều kiện kinh
tế thị trường ở Việt nam

Luận văn thạc sỹ kinh tế


Đại học quốc gia hà nội
--------------------------------

Khoa kinh tế

Luận văn thạc sỹ kinh tế

Phát triển Công nghệ thông tin trong điều kiện kinh
tế thị trường ở Việt nam

Chuyên ngành: Kinh tế chớnh trị
Mã số:

50201

Giỏo viờn hướng dẫn: Tiến sỹ Tạ Đức Khỏnh
Học viờn thực hiện: Đinh Thị Hồng Duyờn
Khóa: 9 (2000 – 2003)




Mục lục
Trang

Phần mở đầu
2. Tình hình nghiên cứu.

1
2
2

3. Mục đích nghiên cứu.

3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

3

5. Phương pháp nghiên cứu.

3

6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn.
7. Bố cục của luận văn.

3
3


Chương 1. Công nghệ thông tin và vai trò của nó trong nền kinh

4

1. Tính cấp thiết của đề tài.

tế hiện đại
1.1. Khái luận về Công nghệ thông tin

4

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm

4

1.1.1.1 Một vài khái niệm

4

1.1.1.2. Những đặc điểm chính

9

1.1.2. Vai trò của CNTT

15
15

1.1.2.1. CNTT hình thành nên một nền kinh tế mới và là nền tảng của
một phương thức sản xuất kinh doanh mới

1.1.2.2.

CNTT tạo nên một nền tảng văn hóa xã hội mới, nền văn hóa tri
thức với xu hướng đổi mới không ngừng

18

1.1.2.3.

CNTT giúp nền kinh tế phát triển mạnh mẽ trong tiến trình toàn
cầu hóa

19

1.2. Đặc điểm phát triển CNTT thông qua các kinh nghiệm quốc tế:

1.2.1. Tình hình phát triển CNTT thế giới

24
24

1.2.2. Một số kinh nghiệm quốc tế về phát triển CNTT

32

1.2.2.1. Vai trò quan trọng của Chính phủ

33

1.2.2.2. Hình thành đông đảo đội ngũ cán bộ chuyên môn có chất lượng.


38

1.2.2.3. Xây dựng được một cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia đủ mạnh

42

1.2.2.4. Tạo thị trường rộng lớn từ nước ngoài

43
45

1.2.2.5. Xây dựng các khu công nghiệp phần mềm tập trung với các chính
sách ưu đãi đặc biệt.

Chương 2. Thực trạng phát triển Công nghệ thông tin ở Việt

nam
1

47


2.1. Môi trường phát triển CNTT ở Việt nam
2.1.1. Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định

48
48

2.1.2. Thị trường nội địa rộng lớn, giàu tiềm năng.


51

2.1.3. Chính sách và phương hướng đúng đắn của Đảng và nhà nước.

52

2.1.4. Cơ sở hạ tầng ban đầu trong lĩnh vực viễn thông của Việt nam tiên
tiến, hiện đại

57

2.2. Thực trạng CNTT Việt nam
2.2.1. Vị trí của Việt nam trên bản đồ CNTT thế giới.

64
64

2.2.1.1. Chỉ số xã hội thông tin

65

2.2.1.2. Chỉ số vi phạm bản quyền.

65

2.2.1.3. Chỉ số sẵn sàng kết nối.

66


2.2.1.4. Chỉ số sẵn sàng cho nền kinh tế điện tử.

66

2.2.2. Tình hình sản xuất và cung ứng
2.2.2.1 Tình hình xuất nhập khẩu máy tính và linh kiện máy tính

67
68

2.2.2.2. Tình hình sản xuất phần cứng và thiết bị

72

2.2.2.3. Tình hình sản xuất phần mềm

75

2.2.3. Tình hình ứng dụng và tiêu thụ

80

2.2.3.1. Tình hình ứng dụng và tiêu thụ máy tính
2.2.3.2. Tình hình ứng dụng và tiêu thụ phần mềm

80
81

2.2.2.3. Internet và Thương mại điện tử tại Việt nam


83

2.2.2.4. Tình hình ứng dụng tổng thể CNTT trong các ngành tại Việt nam

84

2.2.4. Tình hình nghiên cứu, triển khai và phát triển nguồn nhân lực
cho CNTT

91

2.2.4.1. Tình hình nghiên cứu, triển khai

91

2.2.4.2 Tình hình phát triển nguồn nhân lực cho CNTT
2.3. Những đánh giá chung về tình hình phát triển CNTT ở VN

92
95

2.3.1. Những thành tựu cơ bản.

95

2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại và vấn đề đặt ra

99

Chương 3. Những quan điểm định hướng và một số giải pháp


104

chiến lược cho phát triển CNTT Việt nam
3.1. Những khó khăn, thuận lợi cho CNTT Việt nam trong thời gian
tới và quan điểm định hướng cho Việt Nam

104

3.1.1. Những thuận lợi và khó khăn cho CNTT Việt nam trong thời

104

2


gian tới.
3.1.1.1.Những thuận lợi

105

3.1.1.2. Những khó khăn

108

3.1.2. Những quan điểm định hướng cho Việt Nam

112

Một số giải pháp chiến lược cho phát triển CNTT Việt nam


3.2.1. Giải pháp phát triển sản phẩm CNTT Việt nam

124
124

3.2.2. Giải pháp phát triển thị trường.

126

3.2.3. Giải pháp phát triển sản xuất

128

3.2.4. Các giải pháp về đầu tư và thu hút đầu tư:

131

3.2.5. Giải pháp chuyển giao công nghệ và tri thức.
3.2.6. Giải pháp nhằm đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai

134
135

3.2.7. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực

136

3.2.8. Giải pháp về quan hệ và phối hợp hành động


138

Kết luận

141

3.2.

Từ viết tắt
Tài liệu tham khảo

3


Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nền văn minh nhân loại đang bước vào một giai đoạn mới, một xã hội
văn minh, hiện đại với sự phát triển khoa học kỹ thuật cao nhất, một xã hội
văn minh hay mọi người vẫn gọi là nền văn minh thứ 3 hoặc nền văn minh
thông tin. Trải qua hàng trăm năm phát triển từ thủ công nhỏ và đến nền đại
công nghiệp, thế giới đang chứng kiến một cuộc cách mạng khoa học công
nghệ mạnh mẽ, sâu sắc, làm thay đổi hình thức và nội dung mọi hoạt động
kinh tế, văn hóa, xã hội của loài người. Việt Nam là một phần của thế giới,
dân số chiếm một phần đáng kể và vẫn là một trong những quốc gia nghèo
nhất thế giới thì việc tích cực áp dụng những tiến bộ mới của khoa học, công
nghệ và đặc biệt là CNTT nhằm tạo cơ hội đi tắt, đón đầu, phát huy lợi thế
cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá, quá trình hội
nhập là một việc cần được đặc biệt coi trọng.
Trong những năm vừa qua, chính phủ cũng đã thấy rõ ý nghĩa chiến lược
và vai trò của CNTT đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Từ năm 1975,

ngay sau khi thống nhất đất nước, Chính phủ đã hai lần ra các nghị quyết về
tăng cường ứng dụng toán học và máy tính điện tử trong quản lý Nhà nước
(Nghị quyết số 173-CP/1975) và tăng cường quản lý và sử dụng máy tính
điện tử trong cả nước (Nghị quyết số 245-CP/1976). Rồi Nghị quyết số 37NQ/TW năm 1981, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 30/3/1991 ,Nghị quyết
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII , Nghị quyết 49/CP và Kế
hoạch Tổng thể về phát triển CNTT ở nước ta đến năm 2000, đều nhấn mạnh
đến việc xây dựng và phát triển ngành CNTT Việt nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã thông qua phương
hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2001 2005, trong đó nhấn mạnh đến ứng dụng CNTT nhằm hiện đại hoá các ngành
và phát triển CNpCNTT. Bên cạnh đó Chính phủ cũng đã ra Nghị quyết số
07/2000/NQ-CP về xây dựng và phát triển CNpPM giai đoạn 2001-2005 và
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg phê duyệt
1


Chương trình hành động triển khai Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ Chính trị về
đẩy mạnh và phát triển CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại
hoá giai đoạn 2001 - 2005.
Có thể nói hơn 15 năm đổi mới kinh tế, CNTT Việt nam đã có những
bước phát triển vượt bậc và đến nay đã phần nào thể hiện được vai trò quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, để góp phần nghiên cứu, đề xuất
những chiến lược thích hợp cho sự phát triển của ngành CNTT VN phù hợp
với tình hình phát triển CNTT của thế giới cũng như tình hình phát triển kinh
tế xã hội của Việt Nam, em đã lựa chọn đề tài: “ Phát triển Công nghệ thông
tin trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt nam”.
2. Tình hình nghiên cứu.
Cho đến nay, ngoài Kế hoạch Tổng thể về ứng dụng và Phát triển
CNTT ở Việt Nam giai đoạn 2002-2005 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường có rất ít các công trình nghiên cứu một cách tổng thể về CNTT VIệT
NAM. Chỉ có một số các đề án ứng dụng và phát triển CNTT trong hoạt

động quản lý. Bộ Bưu chính viễn thông cũng đang có kế hoạch đưa ra dự
thảo Chiến lược phát triển CNTT của Việt nam trong năm 2004.
Ngoài ra, trong thời gian qua cũng có nhiều bài báo, bài viết đăng trên
các tạp chí và hội thảo khoa học bàn về vấn đề này.
Chính vì vậy, sau những nghiên cứu về kinh nghiệm quốc tế, những
đánh giá về hiện trạng CNTT Việt nam, cũng như sau khi đã khai thác, kế
thừa có chọn lọc những đóng góp của các nghiên cứu lý luận trước đó, luận
văn sẽ cố gắng đưa ra một số giải pháp chiến lược nhằm phát triển CNTT
Việt nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phát triển không ngừng
dưới sức ép của tốc độ phát triển khoa học, công nghệ và thông tin.
3. Mục đích nghiên cứu.
- Xác định vai trò, vị trí của CNTT trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
của đất nước

2


- Đánh giá thực trạng phát triển CNTT tại Việt nam, những thành công và
những bất cập còn tồn tại.
- Đề xuất những quan điểm định hướng và một số giải pháp lớn để phát
triển CNTT Việt nam giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu CNTT
Việt nam như là một ngành quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội Việt
nam đặc biệt từ khi nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tiến trình phát
triển CNTT trong 10 năm qua và trong mối liên hệ với CNTT thế giới để đề
ra các giải pháp thích hợp nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển của ngành
nói riêng và toàn bộ nền kinh tế Việt nam.

5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn đã sử dụng những phương
pháp chung trong nghiên cứu kinh tế chính trị: lấy phương pháp của chủ
nghĩa biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận cơ bản.
Luận văn đặc biệt chú ý tới phương pháp lôgic kết hợp với lịch sử, phương
pháp so sánh, phương pháp phân tích kết hợp với tổng hợp…
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn.
- Phân tích và làm rõ một số kinh nghiệm quốc tế, khả năng ứng dụng các
kinh nghiệm đó tại Việt nam.
- Đánh giá thực trạng phát triển CNTT của Việt nam, chỉ ra những bất cập
còn tồn tại và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất một số định hướng để phát triển CNTT của Việt Nam và các giải
pháp chiến lược để thực hiện
7. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba
chương:
3


Chương 1.

CNTT và vai trò của nó trong nền kinh tế hiện đại

Chương 2.

Thực trạng phát triển CNTT ở Việt Nam

Chương 3.

Những quan điểm định hướng và một số giải pháp chiến lược
cho phát triển CNTT Việt nam


4


Chương 1

Công nghệ thông tin và vai trò của nó
trong nền kinh tế hiện đại
1.1.

Khái luận về Công nghệ thông tin

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
1.1.1.1 Một vài khái niệm
 Thông tin và các quá trình thông tin
Theo nghĩa thông thường, thông tin là điều hiểu biết về một sự kiện,
một hiện tượng, một quan hệ nào đó, thu nhận được qua giao tiếp, khảo sát,
đo lường, lý giải, nghiên cứu v.v... Trong đời sống con người nhu cầu thông
tin không ngừng tăng lên theo sự phát triển của xã hội và kinh tế.
Tuy khái niệm thông tin rất phổ biến trong đời sống con người nhưng
những nội dung khoa học chung nhất về thông tin và các quá trình thông tin
chỉ mới được bắt đầu được nghiên cứu từ giữa thế kỷ 20, khi nhu cầu truyền
tin của con người tăng rất nhanh. Một trong những thành tựu đặc sắc của lý
thuyết truyền tin là việc đưa ra khái niệm lượng thông tin. Theo đó lượng
thông tin thu được về một sự kiện nào đó được xác định bằng độ bất định của
sự kiện đó trước khi biết nó xảy ra. Lý thuyết về lượng thông tin ra đời đã tạo
nền móng cho con người phát hiện ra thêm nhiều quy luật của thông tin và
quá trình truyền tin; cũng như quá trình phát triển thông tin trong các hệ
thống truyền tin nhân tạo và trong hệ thống phức tạp khác. Về mặt định tính,
lý thuyết thông tin cũng cho ta hiểu một thuộc tính căn bản của thông tin là

đối lập với bất định và ngẫu nhiên, nó phản ánh tính xác định, có trật tự trong
các mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Nội dung "phản ánh tính trật tự
và tổ chức trong các hệ thống" của khái niệm thông tin ngày càng được củng
cố thêm khi ngành điều khiển học khẳng định rằng vận động thông tin là nội
dung cơ bản nhất, chung nhất, phổ biến nhất của mọi quá trình điều khiển, dù
nó xảy ra trong kỹ thuật, trong các hệ thống sinh học, trong kinh tế hay xã hội
loài người. Hoạt động chủ yếu của điều khiển (hay còn gọi cách khác là quản
5


lý) là tạo ra các thông tin điều khiển và tác động của nó sẽ đem lại trật tự
mong muốn cho các đối tượng bị điều khiển.
Để tạo ra được thông tin điều khiển, các cơ quan điều khiển phải thu
nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, rồi tiến hành quá trình xử lý tuân
theo những quy luật vận hành của đối tượng và các mục tiêu điều khiển.
Tổng quát hoá có thể nói hoạt động quản lý hay điều khiển bao gồm các khâu
sau: thu thập, sắp xếp, lưu trữ, xử lý và phản hồi lại thông tin, gọi chung là
quá trình xử lý thông tin. Ngày nay khi mà xã hội và kinh tế đang phát triển
rất mạnh thì nhu cầu xử lý thông tin trong quản lý và điều khiển cũng tăng
mạnh, và nhu cầu đó đã tăng lên với tốc độ bùng nổ cả về mặt số lượng lẫn
nội dung.
Thông tin có nhiều loại khác nhau khác nhau có thông tin là các số
liệu, dữ liệu thu thập, điều tra, khảo sát được gọi là các thông tin nguyên liệu.
Từ đó qua phân tích, tổng hợp sẽ thu được những thông tin có giá trị cao hơn
được gọi thông tin quyết định dùng trong quản lý và điều khiển. Kết quả của
những qúa trình xử lý đòi hỏi nhiều năng lực và kinh nghiệm thông tin chứa
đựng trong các quy luật khoa học - kết quả của nhiều công phu tìm kiếm,
sáng tạo, suy luận, thử nghiệm.
 Internet và thương mại điện tử
Internet là một danh từ riêng dùng để chỉ hệ thống các mạng máy tính

toàn cầu - mạng của các mạng - giúp cho người sử dụng ở bất kỳ máy tính
nào cũng có thể truy cập tới thông tin tại các máy tính khác và có thể đối
thoại trực tiếp với người sử dụng trên đó. Tên gọi Internet được Cơ quan
nghiên cứu dựa án cao cấp ARPA của Mỹ đưa ra năm 1960. Ban đầu, người
ta biết đến nó qua ARPANet - mạng cơ quan nghiên cứu dự án cao cấp. Mục
tiêu ban đầu là thiết lập mạng cho phép các chuyên gia nghiên cứu ở một
trường đại học có thể kết nối với máy tính ở các trường đại học khác bằng
cách trao đổi thông điệp, rồi nó được mở rộng dần và ngày càng có nhiều
người sử dụng do những lợi ích mà nó mang lại rất lớn.

6


Ngày nay, Internet là một phương tiện phổ biến giúp cho hàng trăm
triệu người trên toàn thế giới có thể kết nối với nhau. Về cơ sở vật chất,
Internet sử dụng một phần hệ thống mạng thông tin viễn thông công cộng. Về
mặt công nghệ, Internet sử dụng giao thức có tên là TCP/IP (Giao thức điều
khiển truyền thông). Để tương thích, các mạng nội bộ và mạng bên ngoài
cũng sử dụng giao thức này.
Đối với người sử dụng Internet, thư điện tử (email) đã thực sự thay thế
dịch vụ thư tín truyền thống. Đó là ứng dụng rất phổ biến trên mạng hiện nay.
Người dùng có thể đối thoại với người sử dụng khách trên mạng bằng cách
dùng phần mền Chat hoặc đối thoại có âm thanh và hình ảnh thông qua
những thiết bị ngoại vi tân tiến.
Dịch vụ được sử dụng phổ biến và rộng rãi nhất trên Internet là Word
Wide Web viết tắt là WWW. Đây là kỹ thuật truyền tin siêu văn bản và là
một phương thức tham khảo chéo được sử dụng rộng rãi để truyền tin trên
mạng. Khi sử dụng Web ta có thể truy cập vào hàng triệu trang thông tin,
giống như xem một tờ báo hay một chương trình thời sự với rất nhiều thông
tin khác nhau được sắp xếp và bố trí đẹp mắt trên màn hình máy tính. Đến

nay lượng thông tin có trên mạng rất lớn và bao gồm tất cả các thể loại từ tin
tức xã hội, kinh tế đến trò chơi giải trí và phim ảnh, âm nhạc. Một trong
những lợi ích mà Internet đem lại là khả năng kinh doanh trực tuyến thông
qua thương mại điện tử.
Thương mại điện tử là thuật ngữ dùng để chỉ việc mua bán hàng hoá và
các dịch vụ trên mạng Internet đặc biệt là qua Web. Nó thừa hưởng rất nhiều
thành tựu của Internet và phát triển rất đa dạng. Bán lẻ điện tử (E-tailing) hay
“cửa hàng ảo” trên các trang Web với các danh mục hàng hoá được tập hợp
thành “dãy cửa hàng ảo”. Các số liệu về nhân khẩu học trên mạng thông qua
chương trình trao đổi dữ liệu điện tử, trao đổi dữ liệu kinh doanh qua thư điện
tử và fax được dùng làm môi trường để tiếp cận và thiết lập quan hệ các
khách hàng. Là nơi bán hàng trực tuyến 24/24 giờ trên quy mô toàn cầu với
khả năng trao đổi thông tin và đặt hàng trực tiếp, trang Web đã trở thành nơi
kinh doanh có doanh thu hàng tỉ đô la của các doanh nghiệp trên thế giới.
7


Ngoài ra việc sử dụng Internet còn có thể nghiên cứu được thị trường.
Đầu năm 1999, nhờ khả năng kết nối rộng rãi của mạng Internet các công ty
đã tập hợp được rất nhiều số liệu khách hàng bằng cách đăng ký, đặt câu hỏi
và đặt hàng qua mạng. Tuy nhiên cách nghiên cứu này đang được làm rõ về
mặt pháp luật vì nó xâm phạm đến các thông tin cá nhân của người sử dụng.
Lợi ích to lớn nhất mà thương mại điện tử mang lại là thời gian giao
dịch rất nhanh với chi phí thấp. Thương mại điện tử được thực hiện qua các
hình thức kết nối điện tử như thư điện tử, Fax và điện thoại Internet. Trong
các giao dịch trực tiếp, các công ty thường sử dụng thư điện tử và Fax để
quảng cáo về công ty và sản phẩm của mình tới khách hàng và các doanh
nghiệp khác. Ngày càng xuất hiện nhiều trang Web kinh doanh chuyển các
bức thư quảng cáo điện tử tới những người nối mạng. Một xu hướng mới là
dịch vụ thư điện tử opt-in, người sử dụng mạng có thể tự nguyện đăng ký để

nhận thư điện tử có nội dung quảng cáo về những danh mục sản phẩm hay
những tiêu chí khác mà họ quan tâm.
Với những tiến bộ nhanh chóng của kỹ thuật điện tử, tin học và viễn
thông trong những thập niên vừa qua máy tính đang được sử dụng khắp mọi
nơi và được liên kết lại với nhau thành mạng quốc gia, khu vực và Internet.
Trong tương lai các siêu xa lộ thông tin sẽ phủ khắp mọi nơi trong nước và
trên thế giới. Nhờ vậy, CNTT ngày càng được ứng dụng sâu rộng trong mọi
ngành kinh tế và hoạt động xã hội. Yếu tố thông tin ngày càng chiếm vị trí
quan trọng trong nền kinh tế và hoạt động xã hội. Dưới những ảnh hưởng đó,
kinh tế công nghiệp đang chuyển dần thành kinh tế thông tin và xã hội cũng
phát triển theo xu hướng hình thành một xã hội thông tin.
 Máy tính điện tử và CNTT.
CNTT khởi đầu từ lúc con người chế tạo ra các loại máy móc tự động
thực hiện một số chức năng xử lý thông tin, trước hết là các máy tính điện tử
(MTĐT) để chế tạo ra MTĐT người ta phải tìm được cách biểu diễn thông tin
bằng các tín hiệu kỹ thuật và cách thực hiện các hoạt động lưu trữ, xử lý
thông tin bằng các biện pháp xử lý kỹ thuật trên các tín hiệu tương ứng.
8


Trong hoạt động của con người, thông tin thường được thể hiện qua các hình
thức như chữ số, chữ viết, tiếng nói, âm thanh, hình ảnh, màu sắc... nghĩa là
được thể hiện bằng nhiều hệ thống tín hiệu rất đa dạng và phong phú. Tuy
nhiên trong MTĐT và các thiết bị thông tin để biểu diễn thông tin người ta
dựa vào trạng thái vật lý của các vật liệu. Đầu tiên là các bóng bán dẫn rồi
đến các tinh thể con người mới tạo được hai trạng thái khác nhau của vật chất
là “đóng” và “mở”. Do đó việc mã hoá thông tin chỉ dùng hai trạng thái trên
và để thuận tiện người ta dùng hai con số toán học là 0 và 1 để biểu diễn sự
mã hoá này. Cùng với sự phát triển của toán học, bằng nhiều phương pháp
mã hoá kết hợp các phương pháp xấp xỉ bằng cách làm gián đoạn, rời rạc, các

tín hiệu liên tục, người ta có thể mã hoá mọi dạng biểu diễn thông tin bất kỳ
bằng các dãy ký hiệu chỉ gồm hai số 0 và 1.
Do có thể biểu diễn mọi dạng thông tin bất kỳ qua một hệ thống tín
hiệu đơn giản và thống nhất dựa trên các ký tự nhị phân, MTĐT đã trở thành
thiết bị xử lý thông tin thống nhất và đa năng. Trên nguyên tắc mọi quá trình
xử lý thông tin đều có thể quy về một trình tự thực hiện liên tiếp của các phép
toán sơ cấp đơn giản nên cấu trúc một MTĐT gồm: bộ lôgic-số học thực hiện
các phép toán sơ cấp theo trình tự quy định; bộ nhớ để ghi các chương trình
tính toán và dữ liệu; các thiết bị đưa dữ liệu vào và đưa kết quả ra. Kết cấu đó
được gọi phần cứng của máy tính, nó là bộ khung vật chất cơ bản cho quá
trình xử lý thông tin nhân tạo. Còn phần logic của quá trình xử lý thông tin
được người dùng đưa vào để điều khiển cỗ máy đó thông qua các lệnh. Tập
hợp các lệnh đó tạo nên một chương trình xử lý thông tin và đó gọi là phần
mềm của máy tính. Đây là phần linh hoạt nhất của máy tính, nó tuỳ biến theo
mục đich của người dùng và là phần mang nhiều dấu ấn đặc trưng nhất của
con người. Tuỳ nhu cầu xử lý khác nhau người ta chia phần mềm ra làm
nhiều loại như phần mềm hệ thống, phần mền tiện ích và phần mềm ứng
dụng.
Có thể thấy MTĐT và việc xử lý thông tin bằng MTĐT là thành phần
cốt lõi của CNTT. Tuy nhiên theo nghĩa rộng CNTT là một thuật ngữ dùng
để chỉ ngành khoa học và công nghệ liên quan đến thông tin và các quá
9


trình xử lý thông tin. Theo cách nhìn đó, CNTT bao gồm các luận cứ
khoa học, các phương tiện và giải pháp kỹ thuật để xử lý thông tin. Công
nghệ này đòi hỏi phải có phương tiện là máy tính và mạng truyền thông;
nguyên liệu là nội dung thông tin để tổ chức, lưu trữ, xử lý và khai thác.

1.1.1.2. Những đặc điểm chính

 CNTT là một công nghệ mũi nhọn:
Mũi nhọn ở đây có nghĩa là chóp của một kim tự tháp, được xây dựng
trên thành quả của nhiều khoa học và công nghệ khác. Ví dụ như việc tự sản
xuất các bản mạch bìa in (printed board) hay “Bản in mặt hậu” (Back panel)
là một bước tiến rất lớn trong công nghệ vì nó giúp việc sản xuất các thiết bị
điện tử được thuận lợi hơn, giá rẻ hơn và đặc biệt độ là ổn định cao hơn hẳn
các loại mạch cũ. Nhưng hiện nay để có thể gắn các mạch tổng hợp vào bản
in, người ta phải in được trên bìa những đường dây rộng khoảng 0,10 mm,
cách nhau cũng cỡ đó, đục lỗ xuyên bìa và hàn cũng với đường kính đó với
độ chính xác tương ứng. Phải nắm vững kỹ thuật tráng nhựa Epoxy nhiều lớp
trong một nhà máy rất sạch mới có thể thực hiện được. Mặc khác việc vẽ
những mạch in trên bìa cũng cần những chương trình “tìm đường” (routing)
có độ chính xác cao, sử dụng những phương pháp gần tối ưu của vận trù học
(operational research). Tóm lại công nghệ đó là kết quả tổng hợp của ngành
toán học, hoá học, quang học, cơ khí chính xác cũng như công nghệ làm
mạch tổng hợp, nhưng ở mức độ tinh vi hơn nhiều.
Dĩ nhiên công nghệ mũi nhọn luôn luôn nặng về tri thức, và đó cũng
là đặc điểm của CNTT. Công nghệ hay người ta còn gọi là “cách làm” (know
how) là thành quả của nhiều nghiên cứu, thử nghiệm. Đây là yếu tố then chốt
để phát triển một ngành công nghiệp và để nắm bắt nó cần có một cơ sở lý
thiết vững vàng về khoa học. Chính điều này đã giải thích tại sao để phát
triển CNTT chúng ta cần đặc biệt quan tâm tới vấn đề phát triển nguồn nhân
lực.

10


 Một công nghệ được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực
Hiện nay CNTT được sử dụng trong mọi lĩnh vực từ khoa học tới kinh
tế và xã hội. Khởi đầu CNTT được sử dụng chủ yếu trong nghiên cứu khoa

học rồi cùng với sự lớn mạnh của công nghiệp nó là con át chủ bào cho quá
trình tự động hoá công nghiệp. Đến nay CNTT đã trở thành công cụ hữu hiệu
nhất trong quản lý và truyền thông. Hơn thế nữa nó đang thay dổi cuộc sống
của chúng ta bởi những vi mạch tinh khôn trong các đồ dùng sinh hoạt. Một
ví dụ cụ thể chỉ một nửa doanh số của công nghiệp điện tử được bán ra để sản
xuất máy tính (Mỹ 60% và Nhật 40%), tức là để phục vụ hai lĩnh khoa học,
quản lý. Còn lại 20% cho lĩnh vực công nghiệp và 30% cho khu vực sản xuất
hàng tiêu dùng.
 Một công nghệ có nhiều tầng lớp
Chữ 'tầng lớp' để nói một cách tổng quát nhất về các khâu đoạn sản xuất
trong CNTT, cả phần cứng lẫn phần mềm, và về sự liên hệ giữa chúng với
nhau, cũng như các chuẩn mực trong sự liên hệ ấy. Nó bao gồm chữ 'tầng'
(layers) thường được dùng trong phân tích hệ thống, và chữ 'tầng giao thức'
(protocol layers) có ý nghĩa hẹp và chính xác hơn.
Có thể phân chia thành những tầng lớp sau trong CNTT, mỗi tầng lớp được
xây dựng trên các tầng lớp phía dưới :
 Các chương trình ứng dụng riêng cho từng cơ quan, xí nghiệp, đó có
thể là thành lập từ một ngôn ngữ lập trình ít hay nhiều cao cấp, dựa
trên những hệ quản trị cơ sở dữ liệu. Tầng lớp trên cùng này thường
được viết tại chỗ hoặc thiết kế tại chỗ và đặt gia công bên ngoài.
 Phần ở giữa các chương trình ứng dụng và hệ mềm cơ bản. Phần này là
chỗ phức tạp nhất và giàu có nhất. Nói chung ở đây là sản phẩm của
các công ty chuyên sản xuất phần mềm, trong đó kỹ nghệ phần mềm
của Mỹ chiếm ưu thế tuyệt đối, trừ một vài ngoại lệ ở châu Âu có kết
quả tốt, như robotics trong lĩnh vực công nghiệp, ngôn ngữ lập trình
Ada, Prolog... Nhật gần như không bán ra bên ngoài những chương

11



trình gì đáng kể, có lẽ vì hàng rào ngôn ngữ . Có thể tạm chia làm bốn
lĩnh vực khác nhau :
- Các chương trình ứng dụng tổng quát, chuyên cho quản lý, xử lý văn
bản, tính toán công nghiệp hay tính toán khoa học (ngôn ngữ lập trình
cao cấp như Mathematica, các hệ quản trị cơ sở dữ liệu ...). Người
dùng cuối cùng có thể viết những ứng dụng dễ dàng hay cũng có thể sử
dụng thẳng mà không cần viết chương trình gì thêm.
- Các chương trình gọi là "middleware", cho phép các chương trình ứng
dụng phân tán (có thể tổng quát hay không) sử dụng tới mạng thông tin
ở mức dễ dàng và trừu tượng, thông qua hệ điều hành mạng.... Về mặt
ứng dụng trong quản lý đây là lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay.
- Các chương trình gắn liền với một sản phẩm đặc biệt nào đó
(embedded systems), với những giao diện sử dụng đặc biệt thẳng với
người dùng, như ở trong máy giặt, máy hát, máy bay, trò chơi... Thật ra
loại chương trình này có thể thấy ở khắp các lĩnh vực, chỗ nào có bộ vi
xử lý mà không phải là một máy tính đều có nó. Nhưng đặc điểm của
chúng là tự giấu kín. Các chương trình này thường do những hãng làm
sản phẩm tự viết ra hoặc đặt gia công tại các công ty chuyên phát triển
hệ mềm.
- Và sau cùng là một mảng cũng khá đồ sộ những chương trình được
làm ra để phục vụ chính bản thân việc nghiên cứu và phát triển ngành
CNTT và ứng dụng trong quản lý, tính toán và điều khiển. Ngoài các
ngôn ngữ lập trình ra, phải kể đến các chương trình phụ giúp việc phát
triển và quản lý phát triển phần mềm ; cũng như các chương trình để
làm mạch tổng hợp ASIC hay để sử dụng các FPGA (ASIC:
(Application Specific Integrated Circuit) là các mạch tổng hợp có chức
năng nhất định. Còn lại là bộ nhớ, và các linh kiện có thể được biến
đổi để làm các mạch điện tử khác nhau, trong đó đặc biệt có FPGA
(Field Programmable Gate Array) là các linh kiện có thể được thay đổi
chức năng ngay trước khi hoạt động, khi linh kiện đã nằm trong bìa

12


điện tử. Một FPGA hiện nay có thể tương đương 1 triệu transistors).
Những chương trình loại sau này thường rất đắt, hàng chục hoặc hàng
trăm ngàn đôla, và thường chạy trên các trạm làm việc mạnh.
 Tầng lớp thứ ba gồm những 'khả dụng” (facilities) về phần mềm khiến
cho các chương trình ứng dụng tổng quát hay đặc biệt hoạt động được. Đó
chủ yếu là hệ điều hành và hệ điều hành mạng. Sự phân cấp của hai loại
khả dụng này tương đối phức tạp vì chúng chồng chéo lên nhau và tuỳ
thuộc các nhà sản xuất, cũng như tuỳ thuộc các loại mạng. Có thể gộp vào
trong tầng này tất cả các chương trình rất lớn nằm trong các “trạm tiếp
chuyển” (router), và các trạm đảo mạch (switch) thuộc nhiều loại khác
nhau. Đặc biệt ở đây, trừ phần mềm viễn thông ngoài Internet, kỹ nghệ
phần mềm của Mỹ từ trước tới nay là nắm độc quyền.
 Tầng lớp thứ tư có thể coi như bao gồm tất cả các hệ máy và mạng đang
hoạt động trên thế giới. Việc sản xuất các máy này bắt đầu từ: làm ra các
bìa in trong đó có gắn các linh kiện điện tử; rồi lắp ráp với phần điện, cơ
khí, các thiết bị ngoại vi... để trở thành một máy tính hoàn hảo, hay một
bộ phận của một thiết bị công nghiệp hay một sản phẩm tiêu dùng. Khâu
đoạn này chủ yếu là dùng nhân công rẻ nên đó là thế mạnh của Châu á
ngoài Nhật, đặc biệt Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapoe. Đài
Loan sản xuất được các 'bìa mẹ' (mother board) cho PC và các máy PC
hoàn chỉnh, hiện 80% bìa mẹ dùng cho PC trên thế giới được sản xuất tại
Đài Loan. Singapoe rất mạnh về các thiết bị ngoại vi.
 Tầng lớp cuối cùng là việc sản xuất các linh kiện điện tử. Hiện nay chỉ có
Mỹ, Nhật và châu Âu là có công nghệ hoàn chỉnh làm các mạch tổng hợp.
Sau giai đoạn sản xuất wafers và in mạch tổng hợp trên wafers, cần các
nhà máy siêu sạch và siêu chính xác rất tối tân, công việc còn lại là đặt và
hàn những mạch in trần đó vào hộp thành linh kiện, cần nhiều nhân công

rẻ, thường được các công ty quốc tế làm tại các chi nhánh ở châu á như
Malaysia, Singapore ... Nhưng những linh kiện sản xuất đại trà (bộ nhớ là
chủ yếu) đã được sản xuất tại Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore, kể cả
giai đoạn làm wafers trong các nhà máy mua của Mỹ hay Nhật.
13


Có một điều rất quan trọng là một nền công nghệ có nhiều tầng lớp như
trên, và lại trải ra khắp hoàn cầu, vẫn luôn luôn tiến bộ được nhịp nhàng ? vì
không phải mỗi lúc, mỗi tháng hay mỗi năm mà có thể thay đổi tất cả các
công đoạn để thành một bước nhảy vọt mới trong công nghệ, phần cứng cũng
như phần mềm. Đó chính là khía cạnh chuẩn trong giao diện của những
tầng lớp nói trên (thương lượng trong các tổ chức nghề nghiệp, hay do một
công ty áp đặt qua vị trí thượng phong của họ). Những giao diện này được
nghiên cứu rất kỹ để tồn tại lâu hơn các sản phẩm trong mỗi công đoạn, và
khi thay đổi nhanh và mạnh hơn trước thì vẫn giữ được tương thích với quá
khứ gần, tuy phải trả cái giá là có thể không khai thác được 100% công xuất
mà kỹ thuật mới có thể đem lại. Tuy nhiên sự tương thích này vẫn cần những
sửa chữa nhất định, và những sửa chữa chất chồng làm cho sản phẩm về lâu
dài có thể trở thành xấu đi về mặt chất lượng, và đến một lúc nào đó cũng
phải thay đổi toàn bộ. Cho đến nay khía cạnh xấu này được che lấp do sức
tiến luỹ thừa của công nghệ cơ bản đã không chỉ bù vào mà còn cho phép
tăng khá cao chức năng và hiệu xuất các hệ mềm nhìn từ phía người sử dụng.

 Một công nghệ biến chuyển rất nhanh
Những quan sát thị trường hàng ngày cho thấy sự biến chuyển thường
trực của các sản phẩm máy tính PC và ngoại vi. Những biến chuyển này chạy
theo kịp đà tiến của công nghiệp điện tử cơ bản theo quy luật Moore, với giá
cố định thì khả năng các linh kiện mỗi 18 tháng lại tăng gấp đôi. Và quy luật
thực nghiệm này còn có điều kiện kéo dài trên mười năm nữa trước khi gặp

phải hàng rào của những quy luật vật lý cơ bản.
Thiết kế hệ thống biến chuyển chậm hơn, và phần mềm ứng dụng tổng
quát còn biến chuyển chậm hơn nữa. Đứng về mặt chất lượng phải nói hàng
thập kỷ mới nảy sinh những thiết kế hệ thống độc đáo hay những chương
trình ứng dụng tổng quát mới, các thế hệ mạng cơ quan (LAN) cũng vậy. Và
trong một thiết kế hệ thống nhất định, nếu không thay đổi cơ bản các giao
diện mà có những sự nâng cấp tương ứng (thí dụ tăng vận tốc của 'Bus' ), thì
14


hiệu năng của sản phẩm có thể tiến triển theo kịp với hiệu năng của kỹ nghệ
cơ bản (trường hợp PC). Đứng về mặt viễn thông đường dài thì những dịch
vụ (services) được sáng tạo, cài đặt và chấp nhận còn chậm hơn nữa.
Tuy nhiên, chúng ta đang chứng kiến trên thế giới sự nảy sinh khá
đồng bộ của một loạt những tiến bộ mới về mạng, về phần mềm cơ bản và về
thiết kế hệ thống. Đó là :
- Ngôn ngữ Java, cho phép chỉ viết chương trình một lần để nó hoạt động
được ở bất cứ nơi nào.
- Phong trào phần mềm tự do (free software), mà điển hình là hệ điều hành
Linux.
- Các mạng cục bộ cực nhanh (100 - 1000 megabít/g) dùng trong các cơ
quan, mạng đường dài bằng cáp quang, kỹ thuật ADSL cho phép tăng vận
tốc thông tin đến từng nhà riêng vài chục lần mà không cần thay giây
đồng hiện có.
- Chuẩn CORBA, cho phép các chương trình tin học phân tán cộng tác
được với nhau.
- Chuẩn XML, xác định ngôn ngữ giao diện (interface) cho mạng Internet,
tổng quát hơn ngôn ngữ HTML.
- Thiết kế xử lý song song ở mạng tầm rộng (WAN), vừa (LAN) và hẹp
(cụm máy tính, cluster) dựa trên các linh kiện hay/và thành phẩm đã có

sẵn và được sản xuất đại trà.
- Công nghệ tác tử (agent), công nghệ để thực hiện trong tương lai những
ứng dụng di động và thông minh. Đó là những chương trình có thể tự
động di chuyển trong mạng viễn thông đến các nơi để hoạt động với một
mục đích nào đó.
Có thể tiên đoán trong vòng vài năm nữa những công nghệ này sẽ lần lượt
chín muồi và kết hợp được với nhau để hình thành một bước phát triển mới
của CNTT, rẻ hơn, chất lượng tốt hơn, và khả năng phục vụ cao hơn hiện
nay. Khi đó sẽ cần rất nhiều chuyên gia trong các ngành nghề và chuyên gia
15


CNTT cộng tác với nhau để thực hiện những phần mềm ứng dụng dựa trên
các thành quả nghiên cứu này.

 Một công nghệ mà sở hữu trí tuệ đóng vai trò tối quan trọng trong việc
phát triển.
Là một công nghệ mũi nhọn có hàm lượng tri thức cao nên vấn đền
bảo vệ tri thức đóng vai trò rất quan trọng trong chính sách phát triển CNTT
của các quốc gia. Các sản phẩm CNTT đặc biệt là các sản phẩm phần mềm
và các dịch vụ gia tăng giá trị, việc sao chép hết sức đơn giản và nhanh
chóng. Để ra đời một sản phẩm phải đầu tư tiền bạc, công sức, thời gian rất
lớn lại có thể sẽ dễ dàng bị sao chép, bày bán công khai chỉ trong vòng một
hai tuần sau khi được tung ra thị trường. Hơn nữa cách chuyển giao cũng hết
sức đơn giản, có thể chỉ là một vài đoạn mật mã, một vài công thức nằm gói
gọn trong không đến 1/4 trang A4. Chính vì vậy việc bảo hộ sở hữu trí tuệ là
điều then chốt để phát triển được CNTT

1.1.2. Vai trò của CNTT
1.1.2.1. CNTT hình thành nên một nền kinh tế mới và và là nền tảng của

một phương thức sản xuấ kinh doanh mới.
Xét về mặt phương thức hoạt động, CNTT đang làm thay đổi về cơ bản về
phương thức hoạt động sản xuất - kinh doanh nói riêng và các hoạt động kinh
tế nói chung. Năm 1997 nhà kinh tế học Wunul cho rằng “Số hoá, tin hoá và
mạng hoá đã đặt cơ sở kỹ thuật cho sự xuất hiện và phát triển của xã hội tri
thức” và đến lượt nó sự xuất hiện của xã hội tri thức lại làm biến đổi tính chất
của nền sản xuất. Điều này được thể hiện ở “ba hoá” sau đây:
- Từ lao động chân tay sang lao động trí óc, sự xuất hiện của tầng lớp công
nhân “cổ cồn” và vượt số công nhân “cổ xanh‟ ở Mỹ được Nightsbitt coi
là dấu hiệu của sự biến đổi xã hội Mỹ từ xã hội công nghiệp sang “xã hội
thông tin tri thức”.
16


- Từ sản xuất vật chất sang sản xuất phi vật chất . Vật chất (được cấu tạo
bởi những nguyên tử (Atom) đơn vị cơ bản của mọi vật chất) sang những
thứ phi vật chất (đơn vị truyền tin cơ bản (Bit) )
- Từ tính khép kín, tính khu vực sang tính mở, tính toàn cầu.
Năm 1998, nhà kinh tế học Reich đã cộng thêm ba hoá nối trên một hoá nữa
là chuyển từ sản xuất khối lượng lớn sang sản xuất có giá trị cao. Các loại
hình kinh doanh mới như truyền thông, dịch vụ ngân hàng, tài chính, sản xuất
các loại sản phẩm có hàm lương tri thức cao phục vụ từng nhu cầu khó tính
của mọi khách hàng đang phát triển rộng rãi và thu được nhiều lợi nhuận hơn
hẳn so với sản xuất khối lượng lớn. Bởi vì đây là một loại hình sản xuất kinh
doanh mà sản xuất kinh doanh mà sản phẩm của nó khó bắt trước và cũng
không cần số lượng thật lớn.
Như vậy có thể thấy CNTT là một cơ sở quan trọng làm biến đổi tính chất
và phương thức sản xuất - kinh doanh. Quan trọng hơn là nó đem đến những
cái lợi thu được không phải là từ đất đai, sức lao động hay tư bản mà chính là
từ tri thức loài người, nói cách khác tri thức đã trở thành một yếu tố sản xuất

trực tiếp và là “tiêu chuẩn vàng” của thời đại hiện nay.
Nếu như trong nền kinh tế cũ, mục tiêu quan trọng nhất là tối ưu hoá tiến
trình sản xuất đại quy mô; do đó đòi hỏi phải có một tổ chức có đẳng cấp và
kỷ luật công nghiệp, thì nay trong nền kinh tế mới, điều quan trọng là phát
minh khoa học, kỹ thuật và khả năng phát hiện các công nghệ mới. Tổ chức
doanh nghiệp vì thế phải mỏng, nhẹ nhằm khuyến khích sự sáng tạo và thích
nghi với điều kiện kinh doanh thay đổi nhanh chóng. Thử thánh lớn nhất hiện
nay cho giới lãnh đạo doanh nghiệp là quản lý kiến thức (knowledge
management), chứ không phải là quản lý sản xuất hay quản lý tài chính nữa.
Trong nền kinh tế mới, đại đa số người lao động làm việc bằng trí óc để
xử lý thông tin, chứ không phải làm việc bằng chân tay để chế biến hàng hoá
vật chất. Hiện nay ở Mỹ, hơn 75% lực lượng lao động làm công việc xử lý
thông tin, chứ không phải xử lý vật chất. Thông tin có thể được số thức hóa
dễ dàng, vì vậy càng thích hợp với nền kinh tế Internet.
17


Quá trình hình thành nền kinh tế mới cũng thay đổi cung cách lao động.
Trong trường hợp của Mỹ, mô hình lao động đã biến dạng rất nhiều so với
mô hình cổ điển. Khi đó công nhân viên làm việc từ 9 giờ sáng đến 5 giờ
chiều tại các xí nghiệp, văn phòng. Nhân viên trong các doanh nghiệp được
tổ chức thành đẳng cấp, ngạch thật rõ ràng. Nhưng hiện nay, khoảng 10% lực
lượng lao động là người hành nghề độc lập, chứ không phải là nhân viên của
một công ty, khoảng 20 triệu người làm việc từ xa (telecommuting), ở nhà
không cần đến cơ quan trong giờ làm việc ít nhất một ngày trong một tháng
(tăng gấp đôi so với năm 1993). Khuynh hướng làm việc với giờ giấc linh
động, qua mạng Intranet hay Internet ngày càng tăng, con số tăng từ 15% lực
lượng lao động năm 1991 tới 30% hiện nay. Năm 1999, có 17 triệu người chủ
động đổi việc, so với 6 triệu người trong năm 1994. Bây giờ chỉ có 1 trong 5
công nhân còn được xếp vào loại không cần hoặc không có tay nghề chuyên

môn, so với tỷ lệ 3 trên 5 trong năm 1950. Các doanh nghiệp có cơ cấu tổ
chức gọn nhẹ, ít cấp quản lý, phần lớn công việc được thực hiện bởi cộng
đồng chuyên gia cùng với khách hàng, được tổ chức một cách linh động,
nhanh chóng thích nghi với nhu cầu và nội dung công tác. Chiến lược đầu tư
bây giờ là mua khái niệm mới và mua khả năng tạo ra chúng, chứ không phải
mua máy móc thiết bị mới. Sở hữu trí tuệ và bảo vệ sở hữu trí tuệ trở thành
vấn đề quan trọng hàng đầu trong quan hệ kinh doanh quốc tế, đặc biệt là đối
với các nước đang phát triển.
Trong nền kinh tế mới, giá trị tăng thêm ngày càng được tạo ra bởi những
yếu tố vô hình như sáng chế, phát minh, thiết kế mẫu mã, tiếp thị, thương
hiệu, dịch vụ tài chính, quản lý kinh doanh v.v.. . Giá trị tăng thêm của các
yếu tố đầu vào là vật chất và vật chế biến ngày càng giảm đi. Hiện giá của
các tài sản vật chất của các công ty ở châu Mỹ và châu Âu nói chung chỉ
bằng 25% giá trị các công ty này trên thị trường chứng khoán. Phần lớn giá
trị của các công ty này phản ánh các yếu tố vô hình kể trên.
Trong nền kinh tế cũ, cạnh tranh diễn ra chủ yếu trong phạm vi địa
phương hay quốc gia. Trong nền kinh tế mới, cạnh tranh diễn ra trên phạm vi
toàn cầu. Hiện nay, nền kinh tế thực sự toàn cầu hoá (cạnh tranh toàn cầu
18


trong thị trường đầu vào, đầu ra và tài sản doanh nghiệp) đã chiếm một nửa
toàn bộ hoạt động kinh tế của nhân loại. Tỷ lệ toàn cầu hóa này sẽ tăng lên
nhanh chóng và đã ảnh hưởng đến phần thế giới còn lại.
Mạng lưới viễn thông cũ và mới cũng rất khác nhau. Mạng cũ chủ yếu
dùng tính tương tự (analog) và chuyển mạch (circuit-switched); mạng mới
dùng số thức, IP (Internet Protocol; Giao thức Internet) và chuyển gói
(packet-switched). Chi phí trong hệ thống cũ tính trên phút, dựa trên thời gian
và khoảng cách gọi. Trong hệ thống mới, phí tính trên megabyte truyền, vì
thế không phụ thuộc vào thời gian và khoảng cách nối mạng; làng toàn địa

cầu đã trở thành hiện thực. Sau cùng, trong mạng cũ, hệ thống viễn thông do
nhà nước sở hữu và điều hành, nhưng trong mạng mới, hệ thống viễn thông
được tư nhân hóa và tự do hóa rất nhiều. Đặc biệt mạng Internet toàn cầu
chịu rất ít luật lệ trói buộc và hiện nay các hoạt động thương mại điện tử
không bị đánh thuế.

Rõ ràng CNTT là một lực lượng quan trọng bởi vì nó trở thành một
công cụ “khuếch đại sức mạnh của não giống như các công nghệ của cuộc
cách mạng công nghiệp khuếch đại sức mạnh của cơ bắp”.

1.1.2.2. CNTT tạo nên một nền tảng văn hoá xã hội mới, nền văn hoá tri
thức với xu hướng đổi mới không ngừng.
Với sự phát triển CNTT người ta đã thấy tồn tại một nền văn hoá tri
thức mới với tinh thần chịu mạo hiểm sáng tạo tri thức mới, của cái mới.
Chính phủ nhận thức được vai trò của mình trong giáo dục, trong việc
khuyến khích sáng tạo và chấp nhận rủi ro mà hoạt động kinh doanh, văn hoá
đòi hỏi, trong việc định ra những thể chế tạo thuận lợi cho việc biến những ý
tưởng thành hiện thực. Bên cạnh đó tri thức trở thành vốn quý nhất trong nền
kinh tế. Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu thường coi lao động và vốn là hai
yếu tố chủ chốt của sản xuất, còn tri thức, giáo dục, công nghệ là các yếu tố
bên ngoài của sản xuất tuy có ảnh hưởng nhất định tới sản xuất. Tri thức khác
19


với vốn hay lao động ở chỗ người có kiến thức nếu trao kiến thức cho người
khác thì kiến thức sẽ không mất đi mà lại được sử dụng tốt hơn, càng trao
cho nhiều người thì khả năng sử dụng nó tạo ra của cải, lợi ích càng nhiều.
Mặt khác, chi phí để phổ biến tri thức ra công chúng để làm tăng số người sử
dụng bằng không.
Quyền sở hữu đối với tri thức trở thành quan trọng nhất, hơn cả vốn,

tài nguyên, đất đai, ai chiếm hữu được nhiều tài sản tri thức và giữ gìn được
nó sẽ có những lợi thế vô cùng to lớn.
Nói đến nền văn hoá mới người ta không chỉ nghĩ đến CNTT mà thực
ra là nói đến nền văn hoá cho cả một nền kinh tế mới, nền kinh tế tri thức với
CNTT là hạt nhân. Tuy nhiên có thể nói rằng chính CNTT là khởi nguồn của
một nền văn hoá mới đó, CNTT còn là đối tượng trực tiếp của lực lượng sản
xuất.
Bên cạnh đó sự dân chủ trong xã hội CNTT cũng được phát huy mạnh
mẽ. Thông tin đến được với mọi người, mọi người đều dễ dàng truy cập các
thông tin cần thiết. Do đó đặt ra vần đề là phải dân chủ hoá các hoạt động và
tổ chức điều hành trong xã hội. Người dân nào cũng có thể được thông tin kịp
thời về các quyết định của nhà nước, cơ quan, các tổ chức có liên quan. Họ
có thể có ý kiến ngay nếu thấy không phù hợp. Vì thế phải tạo được không
khí dân chủ, cách làm việc dân chủ. Khi chuẩn bị các quyết định, các chính
sách, luật pháp cơ quan nhà nước rất dễ dàng đưa ra lấy ý kiến nhân dân.
Việc tập hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân cũng rất dễ dàng, thuận tiện.
CNTT cũng làm thay đổi cách tổ chức quản lý. Mô hình chỉ huy tập
trung có đẳng cấp bị thay thế bằng mô hình phi đẳng cấp, phi tập trung, mô
hình mạng trong đó tận dụng các quan hệ ngang vì thông tin đến được một
cách thuận lợi, nhanh chóng tất cả mọi nơi, không đi qua các nút xử lý trung
gian. Đó là mô hình tổ chức dân chủ, nó linh hoạt trong điều hành, dễ thích
nghi với đổi mới, khơi dậy sự năng động và sáng tạo của mọi người.
Hơn thế nữa giáo dục và đào tạo từ xa có sự hỗ trợ của CNTT cũng
đang giúp nâng cao chất lượng các chương trình giảng dạy và học tập. Người
20


×