Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Khảo sát một số giống ngô ngắn ngày tại nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.34 KB, 9 trang )

ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ VÀ KHOẢNG CÁCH TRỒNG TỚI NĂNG SUẤT NGÔ Ở
VIỆT NAM
I. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và Việt Nam gần 50 năm qua
1. Thế giới
Ngành sản xuất ngô thế giới tăng liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Năm 2009, sản xuất
ngô thế giới đạt kỷ lục cả về diện tích, năng suất và sản lượng: với 159 triệu ha, năng suất
51,2 tạ/ha và sản lượng 817,1 triệu tấn, cao hơn lúa nước 138,4 triệu tấn và lúa mỳ 135,2
triệu tấn (theo FAOSTAT). So với năm 1961, năm 2009 năng suất ngô trung bình của thế
giới tăng thêm 32,2 tạ/ha (từ hơn 19 lên 51,2 tạ/ha), trong khi lúa nước tăng 23,3 tạ/ha (từ
18,7 lên 42,0 tạ/ha), còn lúa mỳ tăng 19,3 tạ/ha (từ 10,9 lên 30,2 tạ/ha).
Kết quả trên có được, trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ưu thế lai trong chọn tạo
giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác.
Bảng 1: Sản xuất ngô, lúa mì, lúa nước thế giới, 1961-2009
Year
Maize Wheat Rice
Area
(1000ha)
Yields
(tons/ha)
Production
(1000 tons)
Area
(1000ha)
Yields
(tons/ha)
Production
(1000 tons)
Area
(1000ha)
Yields
(tons/ha)


Production
(1000 tons)
1961 104,8 1,9 204,2 200,9 1,1 219,2 115,3 1,9 215,3
2006 148,6 4,7 704,2 212,3 2,8 593,2 153,0 4,1 622,2
2007 157,0 4,9 766,2 217,2 2,8 603,6 153,7 4,1 626,7
2008 160,8 5,1 826,7 222,7 3,0 681,4 1577,3 4,3 678,2
2009 159,0 5,1 817,1 225,6 3,0 681,9 1583,0 4,3 680,7
2010 161,908 5,215 844,4
Nguồn: FAOSTAT, USDA
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1961
1965
1970
1975
1980
1985
1990
1995
2000
2005
2009

Year
Production - Area
0
10
20
30
40
50
60
Yields
Area
(1000ha)
Productio
n
(1000 tons)
Yields
(100 kg/ha)

Figure 1: Area, yield, production maize of the world, 1961-2009
2. Việt Nam
Năng suất ngô Việt Nam đến cuối những năm 1970 chỉ đạt 10 tạ/ha do vẫn trồng
các giống ngô địa phương với kỹ thuật canh tác lạc hậu. Từ những năm 1980, nhờ hợp tác
với Trung tâm Cải tạo Ngô và Lúa mỳ Quốc tế (International Maize and Wheat
Improvement Center), nhiều giống ngô cải tiến đã được trồng ở nước ta, góp phần nâng
năng suất lên gần 15 tạ/ha vào đầu những năm 1990. Tuy nhiên, ngành sản xuất ngô nước
ta thực sự có những bước tiến nhảy vọt là từ đầu những năm 1990 đến nay, gắn liền với
việc không ngừng mở rộng giống ngô lai ra sản xuất, đồng thời cải thiện các biện pháp kỹ
thuật canh tác (đặc biệt là trồng ngô mật độ cao và thu hẹp khoảng cách hàng) theo yêu cầu
của giống mới.
Bảng 2. Sản xuất ngô Việt Nam 1961 – 2010

Year 1961 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010
Area
(1000 ha)
229,20 267,0 389,6 397,3 432,0 534,6 730,2 1052,6 1126,9
Production
(1000 tons)
260,10 280,60 428,8 587,1 671,0 1143,9 2005,9 3787,1 4609,0
Yields
(tons/ha)
1,14 1,05 1,10 1,48 1,55 2,14 2,51 3,60 4,09
http:/www.osg.gov.vn
Cụ thể là năm 1961, năng suất ngô nước ta bằng 58% trung bình thế giới (1,12/1,94
tấn/ha). Suốt gần 20 năm sau đó, trong khi năng suất ngô thế giới tăng liên tục thì năng
suất của Việt Nam lại giảm, và vào năm 1979 chỉ còn bằng 29% so với trung bình thế giới
(0,99/3,39 tấn/ha). Tuy nhiên, từ năm 1980 đến nay, năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên
tục với tốc độ cao hơn trung bình thế giới. Năm 1980, bằng 34% so với trung bình thế giới
(1,1/3,2 tấn/ha); năm 1990 bằng 42% (1,55/3,7 tấn/ha); năm 2000 bằng 60% (2,5/4,2
tấn/ha); năm 2005 bằng 73% (3,6/4,9 tấn/ha) và năm 2009 đã đạt 79,0% (4,08/5,1 tấn/ha).
Figure 2. Sản xuất ngô Việt Nam, 1961-2010
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
4500
5000

1961
1965
1970
1975
1980
1985
1990
1995
2000
2005
2010
Year
Area - Production
0,0
5,0
10,0
15,0
20,0
25,0
30,0
35,0
40,0
45,0
Yields
Area
(1000ha)
Pruction
(1000 tons)
Yields (100
kg/ha)

II. Thu hẹp khoảng cách hàng và tăng mật độ hợp lý để nâng cao năng suất
1. Nghiên cứu về mật độ và khoảng cách trồng ngô trên thế giới
Theo Minh Tang Chang (2005), năng suất ngô của Mỹ trong hơn 40 năm qua tăng
thêm 58% là nhờ đóng góp của giống lai đơn, 21% là nhờ tăng mật độ và 5% nhờ thu hẹp
khoảng cách hàng.
Tạo giống chịu mật độ cao là một trong những mục tiêu quan trọng của các nhà tạo
giống ngô. Bằng nhiều phương pháp người ta đã không ngừng cải thiện được mật độ trồng
ngô trên thế giới. Theo Hallauer (1991), Banzinger (2000) và nhiều tác giả khác, các giống
ngô lai mới tạo ra hiện nay có khả năng chịu được mật độ cao gấp 2-3 lần so với các giống
lai tạo ra cách đây 50 năm và có tiềm năng năng suất cao hơn hẳn.
Việc năng suất tăng ở khoảng cách (KC) hàng hẹp so với hàng rộng, đặc biệt ở mật
độ cao, được giải thích là do tiếp nhận năng lượng mặt trời tốt hơn, sử dụng tốt nước, dinh
dưỡng trong đất và giảm bốc hơi nước, hạn chế cỏ dại phát triển do sớm che phủ mặt đất.
Denmead và cộng sự (1962) tính toán rằng, với cùng mật độ thì năng lượng cho quang hợp
sẽ lớn hơn 15 - 20% khi giảm KC hàng từ 102cm xuống 60cm. Yao và Shaw (1964) thấy
rằng, tỉ số bức xạ thật ở mặt đất so với trên cây trồng giảm khi KC hàng tăng, năng suất và
hiệu suất sử dụng nước tăng khi KC hàng giảm.
Mật độ trồng và KC giữa các hàng ngô là những vấn đề được nghiên cứu nhiều và
sâu nhất trong các biện pháp canh tác cây ngô. Rất nhiều thí nghiệm liên quan đến mật độ
và KC ở vành đai ngô nước Mỹ và nhiều khu vực trên thế giới, trước năm 1988, đã được
đánh giá khá hệ thống trong cuốn sách do các nhà khoa học nổi tiếng thế giới biên tập:
Sprague.G.F. and J.W.Dudley, editors (1988). Corn and Corn Improvement, Third Edition,
American American Society of Agronomy, Publisher Madison, Wisconsin, USA. Inc.
986p.
Người ta đã nghiên cứu với KC giữa các hàng từ hơn 30cm đến hơn 200cm và mật
độ từ 0,5 đến 24 vạn cây/ha. Giai đoạn trước 1940, KC giữa các hàng chủ yếu phụ thuộc
vào kích thước của ngựa (vốn được dùng chủ yếu trong canh tác ngô ở Mỹ thời đó), và KC
thuận lợi cho việc canh tác là 100-112cm.
Cùng với việc mở rộng các giống ngô lai và cơ giới hoá, KC hàng hẹp hơn đã trở
nên phổ biến với KC cây đều nhau hơn. Stickler (1964) ở Kansas kết luận rằng: với cùng

một mật độ nhưng KC hàng 51cm cho năng suất tăng 5% so với 102cm ở điều kiện khô
hạn và 6% ở điều kiện có tưới. Rossman và Cook (1966) thu được năng suất tăng 14% ở
KC hàng 46 cm so với 91cm ở Michigan. Colville (1966), qua 9 thí nghiệm ở Nebraska
cho thấy, năng suất hạt tăng 16% ở KC hàng 51cm so với 102cm. Stivers và cộng sự
(1971), trong thí nghiệm ở Indiana cho thấy, năng suất tăng 7% ở KC hàng 51cm và 4% ở
KC hàng 76cm so với 102cm. Barbieri và cộng sự (2000) ở Argentina đã công bố kết quả
nghiên cứu ảnh hưởng của KC hàng gieo 35 và 70cm với cùng mật độ 7,6 vạn cây/ha ở 2
giống ngô lai DK636 và DK639 trong 2 năm 1996 và 1997 cho thấy: trong điều kiện gieo
hàng hẹp (35cm) năng suất cao hơn hẳn so với KC truyền thống.
Widdicombe và Kurt D.Thelen (2002), đã làm thí nghiệm với 4 giống ngô khác
nhau về thời gian sinh trưởng, chiều cao cây, kiểu bắp và góc lá tại 6 địa điểm ở vành đai
ngô nước Mỹ, vào năm 1998 – 1999, với 5 mật độ từ 56.000 - 90.000 cây/ha và KC hàng là
38cm, 56cm và 76cm đã rút ra kết luận: năng suất đạt cao nhất ở KC hàng 38cm và mật độ
90.000 cây/ha.
Kết quả nghiên cứu của Sener và cộng sự ở đại học Nebraska (Hoa Kỳ) cho thấy:
năng suất cao nhất (14 tấn/ha) thu được ở KC hàng 45-50cm và mật độ 9-10 vạn cây/ha.
Hiện nay các vùng ngô lớn của Mỹ, mật độ trồng phổ biến ở 8 – 8,5 vạn cây/ha và KC
hàng từ 40, 50 và 75cm.
Các nghiên cứu ở Liên Xô cũ và Bun-ga-ri cho thấy, năng suất ngô vẫn tăng khi
tăng mật độ đến trên 10 vạn cây/ha với điều kiện đủ ẩm và dinh dưỡng. Trường hợp đủ ẩm
nhưng không bón phân thì càng tăng mật độ năng suất càng giảm và mật độ tối ưu không
vượt quá 4,5 vạn cây/ha. Trường hợp có bón phân nhưng không đủ ẩm thì khi tăng mật độ
lên 9-10 vạn cây/ha vẫn cho năng suất cao hơn trường hợp đủ ẩm nhưng thiếu dinh dưỡng.
Còn trường hợp không đủ ẩm và dinh dưỡng thì cho năng suất thấp nhất trong mọi mật độ.
Tại Thái lan, trong các năm 1994 và 1995, đã làm thí nghiệm với giống ngô lai
DK888 và giống thụ phấn tự do NS1 trên đất 2 vụ lúa, với mật độ 53.333 cây/ha, 80.000 và
106.000 cây/ha, đã cho kết quả năng suất cao nhất ở mật độ 80.000 cây/ha và thấp nhất ở
mật độ 53.333 cây/ha.
2. Nghiên cứu về mật độ và khoảng cách trồng ngô ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những năm 1984-1986, Trung tâm Nghiên cứu Ngô Sông Bôi đã trồng

giống ngô MSB49 ở các mật độ 9,52 vạn cây/ha (70x15cm), 7,14 vạn cây/ha (70x20cm) và
5,7 vạn cây/ha (70x25cm). Kết quả cho thấy: ở mật độ 9,52 vạn cây/ha với mức phân bón
120 N: 80 P
2
0
5
: 40 K
2
0 cho năng suất cao nhất (55,30 tạ/ha) và ở mật độ 5,7 vạn cây/ha
cho năng suất thấp nhất. Tuy nhiên, sự sai khác về năng suất giữa các công thức không
đáng kể.
Năm 2006, Bộ Nông nghiệp đã ban hành “Quy trình kỹ thuật thâm canh ngô lai đạt
năng suất trên 7 tấn/ha ở các tỉnh miền Bắc”. Trong đó khuyến cáo, với các giống dài
ngày nên trồng với mật độ từ 5,5-5,7 vạn cây/ha, các giống ngắn và trung ngày trồng 6,0–
7,0 vạn cây/ha với KC giữa các hàng là 60-70cm. Tuy vậy, nhiều nơi bà con nông dân chưa
trồng đạt mật độ khuyến cáo, có nơi chỉ đạt khoảng 3 vạn cây/ha. Theo chúng tôi, đây là
một trong những nguyên nhân chính dẫn đến năng suất ngô trong sản xuất của nước ta chỉ
mới đạt 30 - 40% so với năng suất thí nghiệm (trong điều kiện thí nghiệm nhiều giống đã
đạt 12 - 13 tấn/ha). Trên cả nước chỉ mới có tỉnh An Giang đạt năng suất trung bình 7,5 -
7,8 tấn/ha trên diện tích gần 10.000 ha từ năm 2004 đến nay.
Trong vụ Xuân 2006, Xuân và Thu 2007 Viện Nghiên cứu Ngô đã làm thí nghiệm
với 5 giống (LVN4, LVN184, LVN99, LVN10 và LVN45) có thời gian sinh trưởng, đặc
điểm hình thái, khả năng chống chịu khác nhau tại Đan Phượng – Hà Tây. Ở mật độ 5 vạn
cây/ha có mức phân bón cho 1 ha là 160 kg N, 90 kg P
2
O
5
, 90 K
2
O, khi tăng thêm 1 vạn

cây mức phân tăng thêm 10%. Kết quả ở bảng 3 cho thấy: Tất cả các giống ngô thí nghiệm
cho năng suất cao nhất khi trồng với khoảng cách hàng 50cm, tiếp đó là 70cm và thấp nhất
là ở 90cm ở tất cả các mật độ. Các giống thí nghiệm cho năng suất cao nhất ở mật độ 8 vạn
cây/ha với khoảng cách 50 x 25cm, chỉ riêng giống LVN10 là ở 7 vạn cây/ha và khoảng
cách 50 x 28cm. Các giống cho năng suất cao ở mật độ thấp thì cũng cho năng suất cao ở
mật độ cao. Ở khoảng cách hàng 50 cm, năng suất ở mật độ 8 vạn cây/ha (8683 kg/ha)
vượt 5 vạn cây/ha (7060 kg/ha) là 1.623 kg (tương đương 23%), còn ở khoảng cách hàng
70 cm chênh lệch NS giữa mật độ 8 vạ và 5 vạn là 721 kg (tương đương 10,8%), và ở
khoảng cách 90 cm chỉ có 623 kg (tương đương 9,9%).
Ưu thế của khoảng cách hàng hẹp càng rõ khi mật độ cao. Ở mật độ 5 vạn cây/ha,
năng suất ở khoảng cách 50cm vượt ở 70 và 90cm tương ứng 6,0% (398 kg/ha) và 11,9%
(749 kg/ha); ở 6 vạn cây/ha là 8,8 và 17,3%; ở 7 vạn cây/ha là 11,4 và 18,5%; ở 8 vạn cây/
ha có chênh lệch lớn nhất - với 17,8 và 25,4%.
Với khoảng cách hàng 50 cm, khi tăng mật độ từ 7 vạn lên 8 vạn cây/ha năng suất
vẫn tăng thêm 536 kg/ha (tương đương 6,6%), còn ở khoảng cách 70cm và 90 cm chênh
lệch năng suất ở 2 mật độ chỉ là 70kg/ha và 56 kg/ha, tương đương 1,0 và 0,8%.
Kết quả nghiên cứu không thấy sự sai khác rõ về các chỉ tiêu về thời gian sinh
trưởng, đặc điểm hình thái, khả năng chống chiụ với đỗ gãy, sâu bệnh chính, tỷ lệ cây vô
hiệu…giữa các công thức.
Table 3. Average yields of 5 maize hybrids in 3 cropping seasons at different densities and
row spacing
Density of
10
3
plants/
ha
Spacing (cm)
Yield of the maize hybrids (kg/ha)
LVN 4 LVN 184 LVN 99 LVN 10 LVN 45
Aver row

spacing

5


40 x 50
7933 7185 6958 6156 7068 7060
28.5 x 70
7590 6708 6755 5983 6276 6662
22.2 x 90
7130 6457 6515 5474 5977 6311
Ave. dens.
7551 67,83 6743 5871 6440 6678

×