Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

TỔNG QUAN VỀ ĐẢM BẢO TIỀN VAY TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.13 KB, 32 trang )

TỔNG QUAN VỀ ĐẢM BẢO TIỀN VAY TRONG NGÂN HÀNG
TỔNG QUAN VỀ ĐẢM BẢO TIỀN VAY TRONG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về đảm bảo tiền vay:
1.1.1. Khái niệm về đảm bảo tiền vay:
Trong nền kinh tế ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng, là tổ chức
cung ứng vốn cho nền kinh tế nhất là với các nước mà thị trường vốn chưa phát
triển. Trong quá trình hoạt động thì ngân hàng luôn phải đối mặt với những rủi ro
dưới nhiều hình thức khác nhau, gây ra những tổn thất cho các NHTM và cho cả
nền kinh tế nói chung. Một trong những nguyên nhân gây ra nguy cơ gia tăng rủi
ro cho hoạt động của ngân hàng là việc thực hiện chưa thật hiệu quả hoạt động
đảm bảo tiền vay, từ đó dẫn đến việc không thu hồi được nợ, ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động của ngân hàng và tác động đến cả nền kinh tế. Do đó để đảm bảo
thu hồi được nợ ngân hàng phải xem xét thận trọng để áp dụng hình thức đảm bảo
tiền vay phù hợp. Với khách hàng được đánh giá tốt, có mối quan hệ tốt với ngân
hàng trong quá khứ thì ngân hàng có thể cho vay không có tài sản đảm bảo. Ngược
lại, nếu khách hàng có những biểu hiện không tốt thì ngân hàng phải thực hiện cho
vay có đảm bảo. Chính vì thế mà các hình thức đảm bảo tiền vay ra đời là cần thiết
nhằm góp phần hạn chế rủi ro và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng cho ngân
hàng.
Đảm bảo tiền vay hay đảm bảo tín dụng là việc bảo vệ quyền lợi của người cho
vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bảo
lãnh của bên thứ ba.
Ở Việt Nam khi đi vào áp dụng các hình thức ĐBTV thì Chính phủ cũng đã
ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện hoạt động này. Theo Nghị
định số 178/1999/NĐ-CP thì khái niệm về đảm bảo tiền vay được đưa ra như sau:
“Đảm bảo tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng
ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho
khách hàng vay ”.
Như vậy thực chất đảm bảo tiền vay là biện pháp để phòng ngừa rủi ro của các


tổ chức tín dụng, theo đó thì với từng đối tượng vay cụ thể mà TCTD áp dụng hình
thức đảm bảo thích hợp và các biện pháp để xử lý các đảm bảo đó.
1.1.2. Vai trò của đảm bảo tiền vay:
Thực hiện các biện pháp ĐBTV không chỉ có ý nghĩa với NH mà còn có ý
nghĩa với cả khách hàng và nền kinh tế
- Với khách hàng:
Đảm bảo tiền vay gắn trách nhiệm vật chất của người đi vay với khoản vay,
tạo cho họ động lực để thực hiện đúng cam kết trả nợ. Đồng thời cũng giúp cho
khách hàng nâng cao uy tín với ngân hàng, góp phần xây dựng mối quan hệ lâu
dài.
Đảm bảo tiền vay là một trong những điều kiện để cấp tín dụng, là bước khởi
đầu để thiết lập quan hệ tín dụng với ngân hàng, tạo điều kiện cho khách hàng vay
vốn để SXKD, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng...Tuy nhiên đây không phải là điều kiện
hàng đầu và duy nhất trong quá trình xét cấp tín dụng.
- Đối với ngân hàng:
Rủi ro xảy ra sẽ gây tổn thất cho ngân hàng, khi đó thu nhập của ngân hàng bị
giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của ngân hàng.
Chính vì thế mà trong hoạt động của mình ngân hàng luôn chú trọng phòng ngừa
và hạn chế rủi ro, để tạo điều kiện cho ngân hàng cũng như nền kinh tế phát triển.
Để đạt được mục tiêu đó các ngân hàng không ngừng hoàn thiện và áp dụng linh
hoạt các hình thức đảm bảo tiền vay.
+ Khi cấp tín dụng ngân hàng đã xác định được nguồn thu nợ thứ nhất cho
việc thu hồi khoản vay, đối với cho vay vốn cố định thì nguồn này chủ yếu là từ
khấu hao và lợi nhuận để lại, đối với cho vay vốn lưu động thì nguồn thu là doanh
thu, còn cho vay tiêu dùng thì đó là phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí. Tuy
nhiên thì có rất nhiều tình huống mà nguồn thu nợ thứ nhất không thể thực hiên
được, khi đó đòi hỏi ngân hàng phải tính đến nguồn thu nợ thứ hai để đảm bảo thu
hồi vốn. Vì thế khi cấp tín dụng ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải thực
hiện đảm bảo tiền vay. Đó là biện pháp hạn chế rủi ro, giúp ngân hàng có đủ cơ sở
pháp lý để có nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu thứ nhất không thực hiện được.

+ Đảm bảo tiền vay cũng gắn liền với trách nhiệm vật chất của nguời đi vay,
đảm bảo khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả tránh tổn thất cho
ngân hàng. Nhờ đảm bảo tiền vay mà ngân hàng có thể thu được nợ khi khách
hàng cố tình không trả nợ mặc dù hiện nay nhiều hình thức đảm bảo tiền vay chưa
thực sự phát huy được vai trò.
+ Đảm bảo tiền vay là một điều kiện để xét cấp tín dụng, giúp cho ngân hàng
có thể mở rộng tín dụng cho khách hàng. Nhờ có ĐBTV mà ngân hàng có thể dễ
đưa ra quyết định cho vay hơn, góp phần mở rộng thị phần của ngân hàng và tăng
năng lực cạnh tranh cho ngân hàng.
+ Thực hiện ĐBTV giúp cho ngân hàng có thể bảo toàn vốn vay, tăng khả
năng cung ứng vốn cho nền kinh tế.
- Đối với nền kinh tế:
Thực hiện ĐBTV sẽ giúp mở rộng tín dụng của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu
vốn của nền kinh tế, thúc đẩy SXKD phát triển. ĐBTV không chỉ góp phần lành
mạnh nền kinh tế mà còn đảm bảo phát triển hoạt động kinh doanh của cả ngân
hàng và khách hàng, đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội góp phần quan trọng vào
công cuộc xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Bên cạnh đó việc thực hiện ĐBTV cũng giúp nâng cao hiệu quả hoạt động
kiểm soát doanh nghiệp. Thông qua việc thu thập và xử lý thông tin về doanh
nghiệp, quá trình giám sát khoản vay của ngân hàng mà cơ quan chức năng có thể
nắm bắt được tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng như giám sát hoạt động
của doanh nghiệp theo đúng định hướng.
Như vậy ĐBTV có vai trò vô cùng quan trọng đối với cả khách hàng, ngân
hàng và nền kinh tế. Tuy nhiên thì trong quá trình cấp tín dụng không nên quá chú
trọng vào ĐBTV, coi đây là yếu tố quyết định mà không xét đến các yếu tố khác
như hiệu quả của dự án...có thể sẽ dẫn đến giảm chất lượng tín dụng của ngân
hàng. Vì để có thể được cấp tín dụng, khách hàng có thể làm giả giấy tờ của tài sản
đảm bảo. Và vì ngân hàng trong quá trình thẩm định cho vay cũng không tránh
khỏi những sai sót. Do đó chỉ nên coi đây là biện pháp phòng ngừa rủi ro chứ
không phải là nguyên tắc cấp tín dụng, là một điều kiện giúp cho khoản cho vay

của ngân hàng lành mạnh. Thực hiện ĐBTV một cách linh hoạt giúp giảm thiểu rủi
ro, tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng phát triển và góp phần tăng uy tín cũng
như năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
1.1.3. Các hình thức đảm bảo tiền vay:
Có 2 hình thức được sử dụng để đảm bảo tiền vay là ĐBTV bằng tài sản (đảm
bảo đối vật) và ĐBTV không bằng tài sản (đảm bảo đối nhân)
- Đảm bảo tiền vay bằng tài sản: là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà
theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng
tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc
bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
- Đảm bảo tiền vay không bằng tài sản: Đảm bảo tiền vay không bằng tài sản
là việc TCTD chủ động cho khách hàng vay mà không có tài sản thuộc sở hữu của
khách hàng để đảm bảo khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
1.1.3.1. Đảm bảo tiền vay bằng tài sản:
a. Khái niệm:
Đảm bảo tiền vay bằng tài sản là hình thức đảm bảo mà ngân hàng có một số
quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng nhằm làm căn cứ thu hồi nợ
khi khách hàng không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ.
b. Đặc trưng của tài sản đảm bảo:
Tài sản ĐBTV là tài sản của khách hàng vay, tài sản hình thành từ vốn vay và
tài sản của bên bảo lãnh dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với TCTD.
Tài sản này phải có giá trị và giá trị tiền tệ.
Tài sản đảm bảo được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuy nhiên
theo tính chất an toàn ngân hàng chia tài sản đảm bảo thành 2 loại: loại 1 và loại 2.
Loại 1: là các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng hoặc
bảo lãnh của bên thứ ba cho khách hàng của ngân hàng. Những tài sản này không
phải là tài sản hình thành từ chính khoản tín dụng của ngân hàng, có thể có giá trị
lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng khoản tín dụng tuỳ theo mức đánh giá rủi ro của ngân
hàng. Việc cho vay dựa vào tài sản đảm bảo loại 1 tuy đảm bảo an toàn cho ngân
hàng nhưng lại gây khó khăn cho cả ngân hàng và khách hàng trong việc định giá,

bảo quản, điều này làm cho việc phân tích và cấp tín dụng bị kéo dài.
Loại 2: là những tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng, đây
là biện pháp cuối cùng mà ngân hàng có thể hạn chế việc người vay bán tài sản
được hình thành từ vốn vay. Những tài sản này không đảm bảo cho ngân hàng thu
đủ gốc và lãi vì khi khách hàng không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản
này cũng đều bị giảm giá, khó bán.
Nếu phân loại theo hình thức vật chất thì tài sản đảm bảo bao gồm: đảm bảo
bằng hàng hoá trong kho như nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm...; đảm bảo bằng tài
sản cố định: nhà máy, trang thiết bị sản xuất và phương tiện vận chuyển, cây con,
quyền sử dụng đất, rừng...; đảm bảo bằng các hợp đồng chi trả của người thứ ba;
đảm bảo bằng chứng khoán; đảm bảo bằng bảo lãnh của người thứ ba; đảm bảo
bằng số dư bù.
Nhìn chung một tài sản đảm bảo tiền vay phải thể hiện được các đặc trưng
sau:
Thứ nhất: Giá trị của tài sản ĐBTV phải lớn hơn giá trị nghĩa vụ được đảm
bảo. Việc cho vay có tài sản đảm bảo là nhằm đảm bảo nguồn thu nợ và gắn liền
với trách nhiệm vật chất của người đi vay, tạo cho họ có ý thức sử dụng vốn vay có
hiệu quả để trả nợ đúng hạn. Khi nào trả hết nợ thì khách hàng mới thu hồi được tài
sản của mình. Cho nên nếu giá trị tài sản đảm bảo nhỏ hơn nghĩa vụ được đảm bảo
thì sẽ mất đi ý nghĩa của tài sản ĐBTV, khách hàng không có ý muốn trả nợ, gây
ra nhiều khó khăn trong hoạt động của ngân hàng. Chính vì thế mà khi xem xét cho
vay ngân hàng cần quyết định mức tín dụng trong giới hạn giá trị tài sản đảm bảo
và phạm vi đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đã được xác định theo quy định của pháp
luật.
Thứ hai: Tài sản đảm bảo phải có sẵn thị trường tiêu thụ, dễ xác định giá trị
của tài sản và thuận tiện cho việc trao đổi mua bán. Tính thanh khoản của tài sản
càng cao, càng dễ chuyển nhượng thì càng dễ được chấp nhận làm tài sản đảm bảo.
Ngược lại khi tính thanh khoản thấp thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn và gia tăng chi
phí khi xử lý tài sản do đó tài sản khó được chấp nhận hoặc chấp nhận với mức tín
dụng thấp.

Thứ ba: Tài sản đảm bảo phải có đủ cơ sở pháp lý để ngân hàng có quyền ưu
tiên về xử lý tài sản. Tài sản phải không có những tranh chấp về pháp lý.
Một tài sản có thể được dùng để đảm bảo tiền vay hay không phải có các điều
kiện sau:
Một là, tài sản này phải thuộc quyền sở hữu và quản lý sử dụng của khách
hàng hoặc bên bảo lãnh.
Hai là, tài sản phải không có tranh chấp tại thời điểm ký hợp đồng.
Ba là, tuỳ từng tài sản mà phải mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật
Như vậy, tuỳ từng tài sản đảm bảo mà ngân hàng có thể quyết định cho vay
hoặc không cho vay có tài sản đảm bảo.
Một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ trong các trường
hợp sau đây:
- Tài sản đã được đăng ký quyền sở hữu; quyền sử dụng đất mà người sử dụng
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;
- Tài sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu,
nhưng giao dịch bảo đảm bằng tài sản này phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký
giao dịch bảo đảm.
Khi đó thì giá trị của tài sản đảm bảo phải lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ
được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thoả
thuận khác.
Trong trường hợp các bên thoả thuận dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện
nhiều nghĩa vụ thì bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm tiếp theo
biết về các lần bảo đảm trước đó; nếu không phải bồi thường khi có thiệt hại xảy ra
cho bên bị thiệt hại. Mỗi lần thực hiện đảm bảo bằng một tài sản đảm bảo thực
hiện nhiều nghĩa vụ đều phải lập thành văn bản và đăng ký tại cơ quan đăng ký
giao dịch bảo đảm. Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng được bảo đảm
bằng một tài sản được xác định theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm, trừ khi các
bên cùng nhận bảo đảm thoả thuận thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán. Khi đó các
bên phải đăng ký việc thay đổi đó tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm.
c. Các hình thức đảm bảo tiền vay bằng tài sản:

* Thế chấp:
- Khái niệm:
Thế chấp là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ
chứng nhận sở hữu hoặc sử dụng các tài sản đảm bảo sang ngân hàng nắm giữ
trong thời gian cam kết, trong trường hợp khách hàng không trả được nợ thì ngân
hàng có quyền phát mại để thu hồi nợ.
- Đặc điểm:
Khi quyết định áp dụng hình thức đảm bảo là thế chấp thì ngân hàng phải xem
xét xem tài sản thế chấp có thoả mãn các điều kiện của tài sản đảm bảo tiền vay
hay không.
Các tài sản dùng thế chấp thường là những tài sản cồng kềnh, phân tán và khó
di dời. Đó chủ yếu là những bất động sản thuộc sở hữu của khách hàng, việc bán
và chuyển nhượng cũng không hề đơn giản. Tuy nhiên do giá trị của tài sản thế
chấp thường lớn nên giá trị khoản vay mà khách hàng có thể vay sẽ cao hơn. Một
điểm nữa là tài sản chủ yếu của doanh nghiệp là hàng hoá và tài sản cố định nên
hình thức thế chấp được áp dụng rất phổ biến.
Khi áp dụng hình thức thế chấp thì người nhận tài trợ vẫn được phép sử dụng
tài sản của mình trong quá trình SXKD. Điều đó dẫn đến sự hao mòn tài sản trong
quá trình sử dụng, làm giảm giá trị của tài sản. Thêm vào đó khi khách hàng nắm
giữ tài sản thì ngân hàng không thể kiểm soát tài sản hoàn toàn được, lợi dụng điều
này khách hàng có thể phân tán tài sản, gây tổn thất thiệt hại làm giảm giá trị của
tài sản ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó khi quyết định
cho vay đảm bảo theo hình thức thế chấp, ngân hàng phải xem xét kỹ vật thế chấp,
phải có các mô tả vật thế chấp trong hợp đồng.
Định giá tài sản thế chấp: Đây là một vấn đề khá phức tạp, nguyên tắc định
giá là phải tuân theo giá thị trường nhưng các bên có thể thoả thuận tính đến cả
những yếu tố tăng và giảm giá tại thời điểm chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên tính
theo giá thị trường cũng gây ra khó khăn là giá luôn biến động do đó khó xác định
chính xác được biên độ dao động của giá. Nếu định giá cao hơn thì khi phát mại tài
sản ngân hàng sẽ không thu hồi đủ nợ gốc, lãi và các chi phí khác. Ngược lại khi

định giá thấp hơn thì sẽ ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng và
làm giảm tính cạnh tranh của ngân hàng. Do đó ngân hàng cần chú trọng việc định
giá tài sản thế chấp, đối với các tài sản có giá trị lớn thì phải thuê các nhà chuyên
môn để định giá đúng giá trị của vật thế chấp. Và dù cán bộ của ngân hàng hay bên
thuê định giá thì cán bộ tín dụng vẫn phải trực tiếp đến nơi có tài sản thế chấp để
tìm hiểu xem xét đánh giá tài sản. Trên cơ sở đó sẽ lập hồ sơ để quyết định có hay
không cho vay.
- Phân loại:
+ Theo tính chất pháp lý có thể phân thành thế chấp pháp lý và thế chấp công
bằng:
√ Thế chấp pháp lý là hình thức thế chấp mà trong đó người đi vay thoả thuận
chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng khi không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ.
Theo hình thức này thì khi khách hàng không trả được nợ ngân hàng có quyền
bán hoặc cho thuê với tư cách người chủ sở hữu mà không phải thực hiện các thủ
tục tố tụng để nhờ toà án can thiệp.
√ Thế chấp công bằng là hình thức thế chấp mà trong đó người đi vay chỉ
chuyển giao cho ngân hàng nắm giữ giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản hoặc
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo món vay.
Theo hình thức này khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ thì
ngân hàng không được tự ý xử lý tài sản mà phải dựa trên cơ sở sự thoả thuận giữa
hai bên hoặc sự can thiệp của toà án.
Mỗi hình thức đều có ưu điểm và nhược điểm riêng nên hai bên cần có sự thoả
thuận để lựa chọn hình thức phù hợp. Thế chấp pháp lý có ưu điểm là đảm bảo cho
ngân hàng trong việc nhanh chóng xử lý tài sản để thu hồi nợ nhưng lại rất tốn kém
chi phí và khi thay đổi hay kết thúc hợp đồng thì ngân hàng lại phải tiến hành làm
lại hợp đồng hoặc chuyển giao lại quyền sử dụng. Thế chấp công bằng ít tốn kém
hơn, thủ tục đơn giản hơn nhưng lại gây khó khăn khi xử lý tài sản đảm bảo, nhất
là khi hiện nay nhiều trường hợp khách hàng làm giấy tờ giả để thế chấp vay tiền
ngân hàng gây ra những tổn thất không nhỏ cho ngân hàng.
+ Nếu phân loại theo tính chất của bất động sản thì gồm có thế chấp toàn bộ

BĐS và thế chấp một phần BĐS.
√ Thế chấp toàn bộ BĐS là hình thức thế chấp trong đó các vật phụ gắn liền
với BĐS đó cũng được tính vào giá trị của tài sản thế chấp. Khi áp dụng hình thức
này thì ngân hàng phải quản lý cả các vật phụ gắn liền, việc này không hề dễ dàng
và có thể ảnh hưởng đến hiệu quả ĐBTV nếu ngân hàng quản lý không tốt.
√ Thế chấp một phần BĐS là hình thức thế chấp trong đó vật phụ gắn liền với
BĐS không được tính vào giá trị của tài sản thế chấp nếu như hai bên không có
thoả thuận riêng với nhau. Hình thức này được áp dụng trong trường hợp có thể
phát mại riêng tài sản thế chấp mà không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên
nhận thế chấp. Tuy nhiên thì khi thanh lý cũng gặp nhiều khó khăn hơn khi thế
chấp toàn bộ BĐS.
* Cầm cố:
- Khái niệm:
Cầm cố là hình thức theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển
quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết.
- Đặc điểm:
Hình thức cầm cố thích hợp với những tài sản mà ngân hàng có thể kiểm soát
và bảo quản tương đối chắc chắn, các tài sản này thường gọn nhẹ, dễ quản lý,
không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên. Ngân hàng yêu cầu cầm
cố khi mà việc khách hàng nắm giữ tài sản đảm bảo là không an toàn cho ngân
hàng tuy nhiên thì việc ngân hàng nắm giữ tài sản đảm bảo không ảnh hưởng đến
quá trình hoạt động của khách hàng.
Bất kỳ tài sản nào khi cầm cố cũng phải đáp ứng được các điều kiện của tài
sản đảm bảo.
Khi áp dụng tài trợ dựa trên đảm bảo bằng cầm cố ngân hàng phải kiểm tra
tính hợp pháp, hợp lệ của vật cầm cố, khả năng chi trả của khách hàng, giá trị thị
trường khi phát mại....
- Phân loại:
Theo tính chất pháp lý thì gồm tài sản cầm cố không đăng ký quyền sở hữu và
tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu.

√ Đối với tài sản cầm cố không đăng ký quyền sở hữu thì tài sản phải được
chuyển giao cho bên nhận cầm cố
√ Đối với tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì tài sản có thể do bên có
nghĩa vụ, bên có quyền hoặc bên thứ ba nắm giữ tuỳ theo thoả thuận giữa các bên
mà không ảnh hưởng đến chất lượng tài sản đảm bảo.
* Đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba
- Khái niệm:
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) là việc bên bảo lãnh
cam kết với TCTD về việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu, giá trị quyền sử
dụng đất của mình, tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng để thực hiện nghĩa vụ trả
nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay thưc hiện
không đúng nghĩa vụ trả nợ.
- Đặc điểm:
Bên bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình; tài sản là
giá trị quyền sử dụng đất; tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng. TCTD và bên bảo
lãnh có thể thoả thuận về việc có hay không áp dụng biện pháp cầm cố, thế chấp tài
sản của bên bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Ngân hàng cần xét đến các nguyên tắc bảo lãnh khi quyết định cho vay bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, các nguyên tắc này bao gồm:
√ Bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh một cách tự nguyện và chỉ được bảo lãnh
bằng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình.
√ Mỗi lần bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải phát hành thư bảo lãnh riêng của
mình và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
√ NH cần phải xem xét kỹ lưỡng khả năng tài chính, tình trạng tài sản và uy
tín của bên bảo lãnh để quyết định có cho vay bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
hay không.
Khi nhận bảo lãnh, bên thứ ba phải có trách nhiệm trả nợ thay cho bên được
bảo lãnh nếu như bên được bảo lãnh không trả được nợ cho ngân hàng khi đến hạn
thanh toán và phải có trách nhiệm thúc giục bên đi vay trả nợ ngân hàng. Tuy
nhiên người bảo lãnh cũng có quyền yêu cầu ngân hàng kiểm tra việc sử dụng vốn

của khách hàng nếu thấy cần thiết. Khi bên bảo lãnh trả nợ thay cho khách hàng thì
khi đó họ trở thành chủ nợ trực tiếp của khách hàng, lúc này quan hệ giữa họ và
ngân hàng chấm dứt.
* Đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay:
- Khái niệm:
Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng vay mà giá trị tài sản
được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của tổ chức tín dụng.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng vay
dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính
khoản vay đó đối với tổ chức tín dụng.
- Đặc điểm:

×