Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Khái quát chung về công ty tài chính và hoạt động ủy thác đầu tư của công ty tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.77 KB, 22 trang )

Khái quát chung về công ty tài chính và hoạt động ủy thác đầu tư
của công ty tài chính
1.1.Công ty tài chính và các hoạt động của công ty tài chính.
1.1.1. Công ty tài chính và các loại hình công ty tài chính
1.1.1.1.Đặc điểm cơ bản của công ty tài chính
• Khái quát về công ty tài chính:
Công ty tài chính được hiểu là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, một tổ chức
tài chính phi ngân hàng. Các công ty này huy động vốn bằng cách phát hành cổ
phiếu, trái phiếu, thương phiếu và dùng tiền thu được để cho vay. Các khoản cho
vay của công ty tài chính thường đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và người
tiêu dùng nhỏ vì thường là các món tiền nhỏ
1
.
Theo Nghị định số 79/2002/NĐ-CP, Công ty Tài chính là loại hình tổ chức
tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các
nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền
tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không
được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm.
• Đặc trưng cơ bản của công ty tài chính:
- Tuy cũng là một trung gian tài chính nhưng hình thức thu hút vốn của công
ty tài chính khác với các ngân hàng thương mại, hình thức thu hút vốn chủ
yếu là thông qua việc phát hành các loại chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu,
tín phiếu), đặc biệt là không nhận tiền gửi của các tổ chức và dân cư.
- Công ty tài chính huy động các nguồn vốn lớn và cho vay chủ yếu là các
món tiền nhỏ, đặc biệt thích hợp với nhu cầu vốn của các doanh nghiệp
nhỏ và người tiêu dùng.
1 Federic S. Minskhin
- Kỳ hạn của các khoản cho vay của các công ty tài chính chủ yếu là trung
và dài hạn.
- Công ty tài chính thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua( leasing)
- Thực hiện cầm cố các giấy tờ có giá, kinh doanh tiền tệ


- Tư vấn tài chính, marketing, giám định các công việc chuẩn bị để ký kết
hợp đồng, thành lập các công ty liên doanh, tư vấn phát hành cổ phiếu…
- Trợ cấp tài chính cho các dự án phát triển kinh tế ký thuật( các dự án
được xét duyệt bởi Nhà nước hay dự án của tập đoàn đối với các công ty
tài chính trực thuộc tập đoàn)
- Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc,đá quý, mua bán chuyển
nhượng các loại chứng khoán.
- Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh, bao thanh toán…
• Phân biệt công ty tài chính với các ngân hàng thương mại:
- Điểm khác biệt đầu tiên của 1 công ty tài chính so với các NHTM là các
công ty tài chính không được phép nhận tiền gửi tiết kiệm của các tổ
chức kinh tế xã hội,của cá nhân…với thời hạn ngắn( dưới 1 năm) dưới
hình thức mở tài khoản. Vì vậy để tăng lượng vốn huy động các công ty
tài chính thường phát hành các loại tín phiếu, trái phiếu dài hạn.
- Công ty tài chính không được cung cấp các dịch vụ thanh toán qua tài
khoản và tiền mặt cho cá nhân và tổ chức, không được sử dụng vốn vay
của dân cư để làm phương tiện thanh toán.
- Một số lĩnh vực mà công ty tài chính không bị Chính phủ kiểm soát chặt
chẽ như các NHTM ,ví dụ như: Chính phủ chỉ kiểm soát, hạn chế số tiền
cực đại mà các công ty tài chính có thể cho các cá nhân vay,kỳ hạn của
các hợp đồng nợ nhưng không hạn chế về số lượng chi nhánh, về tài sản
mà họ nắm giữ và thu nhập vốn của họ. Điều đó cho phép các công ty tài
chính linh hoạt hơn để phục vụ khách hàng tốt hơn nữa.
1.1.1.2.Các loại hình và đặc trưng của từng loại hình công ty tài chính
• Phân loại theo đối tượng khách hàng:
- Công ty tài chính bán hàng: thực hiện các món cho vay cho những người
tiêu dùng để mua các món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản xuất
riêng.Các công ty tài chính bán hàng trực tiếp cạnh tranh với các ngân
hàng về cho vay tiêu dùng và người được tiêu dùng sử dụng bởi vì các
món vay thường được thực hiện nhanh hơn và tiện lợi hơn tại nơi mua

hàng
- Công ty tài chính người tiêu dùng: thực hiện các món cho vay cho người
tiêu dùng để mua những món hàng riêng như đồ đạc và dụng cụ gia đình
để cải thiện nhà cửa hoặc để giúp thanh toán những món nợ nhỏ. Các
công ty tài chính người tiêu dùng là các công ty riêng biệt hoặc do các
ngân hàng sở hữu. Các công ty này cho người tiêu dùng vay mà không có
tín dụng từ những nguồn khác và thu lãi suất cao hơn.
- Công ty tài chính kinh doanh: cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt cho
các doanh nghiệp bằng cách mua những khoản tiền sẽ thu (các hóa đơn
của hãng) có chiết khấu. Việc cung cấp tín dụng này được gọi là bao
thanh toán. Ngoài việc bao thanh toán các công ty tài chính kinh doanh
cũng chuyên môn hóa trong việc cho thuê thiết bị,là những thứ mà họ
mua và cho các nhà kinh doanh thuê một số năm( leasing).
• Phân loại theo quan hệ sở hữu
2
: theo điều 3 Nghị định 79/2002/NĐ-CP.
- Công ty tài chính Nhà nước: là Công ty Tài chính do Nhà nước đầu tư
vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh.
2 Điều 3, NĐ 79/2002/ NĐ - CP
- Công ty tài chính cổ phần: là Công ty Tài chính do các tổ chức và cá
nhân cùng góp vốn theo quy định của pháp luật, được thành lập dưới
hình thức Công ty cổ phần.
- Công ty tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng: là Công ty Tài chính do
một tổ chức tín dụng thành lập bằng vốn tự có của mình và làm chủ sở
hữu theo quy định của pháp luật, hạch toán độc lập và có tư cách pháp
nhân.
- Công ty tài chính liên doanh: là Công ty Tài chính được thành lập bằng
vốn góp giữa bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng,
doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều tổ chức
tín dụng nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh.

- Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài: là Công ty Tài chính được
thành lập bằng vốn của một hoặc của nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
• Phân loại theo tính độc lập trong hoạt động
- Công ty tài chính hoạt động độc lập: là những công ty tài chính hoạt động
thực thể kinh tế độc lập, tự quyết định trong mọi hoạt đông kinh doanh.
- Công ty tài chính trực thuộc tập đoàn kinh tế: là những công ty tài chính là
thành viên của tập đoàn,hoạt động chủ yếu của các công ty này là tìm kiếm
được các nguồn vốn đầu tư để cung ứng cho các thành viên trong tập đoàn,
điều hòa vốn giữa các thành viên trong tập đoàn, trong quan hệ với các ngân
hàng và các đối tác; quản lý áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro tài
chính cho các thành viên,cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính khác cho các
thành viên tập đoàn.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của công ty tài chính
1.1.2.1.Huy động vốn
3

- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy
định của pháp luật.
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có
giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy
định của pháp luật hiện hành;
- Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngoài nước và các tổ chức
tài chính quốc tế.
- Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân
trong và ngoài nước.
So với các ngân hàng, nguồn vốn huy động được của các công ty tài chính phải
chịu mức chi phí cao hơn do họ chỉ được phép huy động các nguồn vốn trung và
dài hạn. Bên cạnh đó, công ty tài chính không được phép vay từ cửa sổ chiết khấu
của Ngân hàng Nhà nước dễ dàng như các NHTM. Ở Mỹ, các công ty tài chính

không được tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng nên họ không cần
phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà chỉ cần trích lập quỹ dự phòng rủi ro và duy trì
tỷ lệ đảm bảo an toàn.
1.1.2.2.Hoạt động tín dụng.
Các công ty tài chính được phép hoạt động tín dụng dưới các hình thực cho vay,
bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê (leasing) và bao thanh toán( factoring). Hoạt động
tín dụng của công ty tài chính cũng có những nét khác biệt các NHTM, thể hiện
qua 3 đặc điểm sau: Công ty tài chính chủ yếu cho vay trung và dài hạn, họ chủ
yếu thực hiện vay các món lớn rồi chia thành các món nhỏ để cho vay- điều này
hoàn toàn ngược lại so với các NHTM. Đồng thời vì chi phí vốn vay lớn hơn các
NHTM nên công ty tài chính thường gặp khó khăn hơn trong việc tìm kiếm các
3 Điều 17/ NĐ 79/2002/ NĐ-CP
hợp đồng cho vay hoặc phải chấp nhận cho vay các hợp đồng hay dự án có rủi ro
cao.
Công ty tài chính có các hình thức cho vay như: cho vay tiêu dùng, cho vay trả
góp, cho vay theo ủy thác của chính phủ, cá nhân và tổ chức đã phê duyệt. Bên
cạnh đó, công ty tài chính còn chiết khấu các giấy tờ có giá theo quy định của pháp
luật,thực hiện bảo lãnh bằng uy tín của mình….
1.1.2.3.Các dịch vụ tài chính khác
Bên cạnh hai hoạt động chủ chốt là huy động vốn và tín dụng - hoạt động đặc
trưng của một trung gian tài chính,các công ty tài chính còn thực hiện thêm những
hoạt động khác như đầu tư, nhận ủy thác,tư vấn tài chính, kinh doanh vàng và
ngoại tệ….Tất cả những hoạt động này đều tuân theo quy định và giám sát của các
cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Trong tất cả các hoạt đông trên, hoạt động nhận ủy thác để đầu tư hoặc cho vay
đóng vai trò quan trọng,làm nên sự khác biệt của các công ty tài chính so với các
NHTM.
1.2. Dịch vụ ủy thác đầu tư của công ty tài chính
1.2.1.Quan niệm chung về ủy thác
1.2.1.1.Quan niệm về ủy thác

Theo từ điển “Kinh tế hiện đại”, ủy thác là việc tài sản của người này được giao
cho người khác để quản lý và kinh doanh. Người nhận quản lý tài sản sẽ không
được hưởng lợi tức sinh ra từ tài sản đó mà chỉ được nhận một khoản phí hoặc một
phần lợi nhuận nào đó theo thỏa thuận với người chủ tài sản được ủy thác.
Theo Whasington State Bar Association: ủy thác là một bản hợp đồng mà theo
đó, tài sản được nắm giữ và quản lý bởi một người vì quyền lợi của một người
khác.
Thuật ngữ ủy thác ra đời từ khi có sự tách biệt giữa một bên là chủ sở hữu tài
sản và một bên quản lý tài sản. Chủ sở hữu tài sản có thể giao phó tài sản của mình
cho người khác(người thụ thác) nắm giữ và sử dụng nó trong phạm vi mối quan hệ
của họ và theo hợp đồng thỏa thuận. Hoạt động ủy thác làm này sinh mối quan hệ:
một bên hoạt động cho lợi ích của bên kia theo như hợp đồng thỏa thuận và người
hưởng thụ sẽ cũng có thể là bên thứ ba. Trên thế giới, dịch vụ ủy thác ra đời từ rất
sớm, đầu tiên xuất hiện ở Mỹ và Anh. Trong giai đoạn đầu này các chức năng ủy
thác được thực hiện bởi các công ty bảo hiểm hoặc các cá nhân. Một đặc điểm
quan trọng trong giai đoạn này đó là chưa có sự tham gia của pháp luật trong điều
hành hoạt động ủy thác vì vậy các bên chỉ thỏa thuận trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau,
đôi bên cùng có lợi. Ở Mỹ, mãi đến năm 1913, các ngân hàng mới được quyền
thực hiện các dịch vụ ủy thác và cho đến bấy giờ,hoạt động ủy thác thường gắn
liền với hoạt động của các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty chứng
khoán…Ở Việt Nam,các công ty tài chính là cha đẻ của các loại hình dịch vụ ủy
thác và ngày nay cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam càng
có nhiều các quỹ ủy thác đầu tư xuất hiện.
Qua hai khái niệm trên ta hiểu về bản chất ủy thác biểu hiện mối quan hệ giữa
hai hay nhiều bên tham gia, bao gồm:
- Người ủy thác: trustor
- Người nhận ủy thác: trustee
- Người thụ hưởng: beneficiary (người thụ hưởng thường là chính người ủy
thác)
Trong mối quan hệ này, người ủy thác phải giao quyền nắm giữ tài sản cho

người nhận ủy thác và “tài sản” được hiểu theo nghĩa rộng là tiền mặt, bất động
sản,giấy tờ có giá hoặc một công việc ý muốn nào đó cần được thực hiện.
Ủy thác có 4 đặc điểm cơ bản sau:
- Ủy thác dựa trên cơ sở tin tưởng giữa người này với người khác, do đó thuật
ngữ Trust được sử dụng để chỉ nghiệp vụ này.
- Mang tính trung gian: người ủy thác không trực tiếp thực hiện quản lý và kinh
doanh tài sản.
- Là một loại hình dịch vụ vì nó không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu tài
sản mà vẫn mang lại lợi ích và cung cấp 1 giải pháp nào đó cho khách hàng.
- Ủy thác không chỉ đem lại lợi nhuận cho khách hàng mà còn sinh lời cho
chính tổ chức hay cá nhân nhận ủy thác.
1.2.1.2.Các loại hình ủy thác.
1.2.1.2.1.Căn cứ vào chức năng của ủy thác:
• Ủy thác quản lý vốn và tài sản: đây là sản phẩm dịch vụ ủy thác mà cá
nhân hay tổ chức nhận quản lý và kinh doanh giúp sinh lời tài sản mà bên
ủy thác giao phó.
• Ủy thác thực hiện công việc: loại hình ủy thác này được hiểu là bên nhận
ủy thác có trách nhiệm phải hoàn thành một hay một nhóm các công việc
do bên ủy thác giao phó, ví dụ như: ủy thác ký hợp đồng, ủy thác đầu tư,
ủy thác cho vay…
1.2.1.2.2.Căn cứ vào đối tượng khách hàng:
Tùy vào nhu cầu của từng khách hàng mà có rất nhiều loại hình dịch vụ ủy
thác :
• Ủy thác của cá nhân.
• Ủy thác của tổ chức
1.2.2.Khái quát hoạt động ủy thác đầu tư
1.2.2.1.Khái niệm hoạt động ủy thác đầu tư.
• Khái niệm ủy thác đầu tư: Một trong những trách nhiệm lớn nhất của
người nhận ủy thác(người thụ thác) là đầu tư sao cho hiệu quả, hợp lý nguồn vốn
ủy thác, như vậy để hiểu thế nào là “ủy thác đầu tư”, trước hết cần hiểu rõ thuật

ngữ “ đầu tư”. Trong hoạt động kinh tế, đầu tư cũng luôn là hoạt động quan trọng
của bất kỳ thành phần kinh tế nào, đó là hoạt động bỏ vốn nhằm thu lời cho tương
lai. Vì vậy đầu tư được hiểu là một quy trình từ khi xác định nguồn tài trợ, phương
thức tài trợ, chi phí của nguồn tài trợ, đầu tư vào đâu, xác suất hiệu quả như thế

×