Bà huyện thanh quan
(1 tiết)
1. Vấn đề tác giả và tác phẩm Bà Huyện Thanh Quan
1.1. Tác giả
Qua những nguồn th tịch ghi chép không nhiều về Bà Huyện Thanh
Quan, có thể rút ra một số điểm cơ bản về thân thế, sự nghiệp của nữ sĩ:
Bà Huyện Thanh Quan, cha rõ năm sinh, năm mất, tên thật là Nguyễn
Thị Hinh, ngời phờng Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, phía bắc Hồ Tây (nay
thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội). Chồng bà là Lu Nguyên Ôn (1804 - 1847) ngời
làng Nguyệt áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà
Nội. Ông Lu Nguyên Ôn đã từng làm Tri huyện huyện Thanh Quan (nay thuộc
huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình) dới triều vua Minh Mạng. Chính vì vậy bà
Nguyễn Thị Hinh đợc gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Lu Nguyên Ôn sớm qua
đời, khiến bà phải sống trong cảnh goá bụa, đơn chiếc.
Bà Huyện Thanh Quan là ngời học rộng, có tài thơ văn nên từng đợc
vua triệu vào kinh giữ chức Cung trung giáo tập để dạy cho các cung phi và
công chúa.
Qua những bài thơ còn lại, có thể hình dung Bà Huyện Thanh Quan là
ngời phụ nữ tao nhã, mực thớc, đôn hậu, trầm mặc một cách quý phái.
1.2. Tác phẩm
Thơ Bà Huyện Thanh Quan còn lu lại đến nay không nhiều, khoảng
dăm sáu bài, đều là thơ Nôm bát cú Đờng luật. Các nguồn t liệu lại có những
ghi chép khác nhau về số lợng và những bài thơ cụ thể của bà.
Có ba t liệu tơng đối thống nhất về số lợng cũng nh về các bài thơ cụ thể
của Bà Huyện Thanh Quan là Quốc văn tùng kí, Văn đàn bảo giám, Hợp
tuyển thơ văn Việt Nam (tập III). Quốc văn tùng kí là cuốn sách chữ Nôm do
Nguyễn Văn San, hiệu là Hải Châu Tử, ngời xã Đa Ngu, huyện Văn Giang
(Hải Dơng ngày nay), sống vào thời Tự Đức (1848 - 1883) su tầm và biên
soạn. Trong Quốc văn tùng kí có ghi bảy bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan.
Văn đàn bảo giám do Trần Trung Viên biên soạn, xuất bản lần đầu năm 1926,
in lại lần thứ ba năm 1934, có sự tham gia chỉnh lí của Tản Đà, Trần Tuấn
Khải, Trần Trọng Kim. Đây là cuốn sách sớm nhất bằng chữ quốc ngữ có ý
định công bố toàn bộ di cảo của Bà Huyện Thanh Quan với bảy bài thơ, hai
đôi câu đối. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập III) do Nhà xuất bản Văn hoá -
Viện Văn học xuất bản năm 1963, cho biết nữ sĩ có sáu bài thơ còn lu lại.
Dựa vào sự tơng đối thống nhất của ba công trình biên soạn nói trên, có
thể đi đến kết luận: Bà Huyện Thanh Quan còn lại sáu bài thơ là Qua Đèo
Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long thành hoài cổ, Chùa Trấn Bắc,
Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ, Tức cảnh chiều thu. Tuy hai bài Chơi đài
Khán Xuân Trấn Võ, Tức cảnh chiều thu có sách còn ghi là của Hồ Xuân H-
ơng nhng nhiều ngời vẫn cho rằng hai bài thơ này là của Bà Huyện Thanh
Quan.
2. Thơ Bà Huyện Thanh Quan - những nỗi cảm hoài
Thơ Bà Huyện Thanh Quan là tiếng thơ của những nỗi cảm hoài, có thể
khái quát thành ba nội dung liên quan tới nhau: nỗi niềm hoài cổ, nỗi niềm
hoài hơng, nỗi niềm cảm thức về cá nhân.
2.1. Nỗi niềm hoài cổ
Hoài cổ là nét khá phổ biến, nét đặc trng của thơ ca trung đại. ở giai
đoạn cuối của văn học trung đại Việt Nam thì sự xuất hiện gơng mặt hoài cổ
Thanh Quan là hợp lý, là hợp quy luật. Bởi lẽ vào thời điểm tiễn đa một triều
đại vàng son đã từng vang bóng trở thành quá khứ thì nỗi niềm bâng khuâng
nuối tiếc càng sâu sắc cũng là lẽ tự nhiên. Chính ở giai đoạn cuối thời trung
đại, tiếng nói hoài cổ càng có sức tỏa lan, vang vọng bởi độ dài của thời gian
lịch sử, bởi độ rộng của không gian quá vãng. Tất cả đã hội tụ lại trong tiếng
thơ Thanh Quan.
Nỗi niềm hoài cổ hiện lên từ nhan đề: Thăng Long thành hoài cổ đến
câu chữ, hình ảnh: dấu xa xe ngựa, nền cũ lâu đài... Hoài cổ ở ngoại cảnh,
hoài cổ trong tâm cảnh: Nhớ nớc đau lòng con quốc quốc - Thơng nhà mỏi
miệng cái gia gia.
Nỗi niềm hoài cổ ở Bà Huyện Thanh Quan vừa là nỗi niềm tiếc thơng,
gắn bó với cựu triều vừa là cảm hứng mĩ học hớng về quá khứ, cảm hứng nhân
văn trớc lẽ đời dâu bể.
Tiếc thơng, gắn bó với triều đại nhà Lê, nữ sĩ đã chọn thành Thăng
Long là không gian hoài cổ. Bởi đó là miền đất đế đô từng chứng kiến bao bớc
chân lịch sử đã đi qua, chứng kiến đầy đủ nhất những hng phế của các triều
đại, trong đó có triều Lê. Tính từ lúc Lí Công Uẩn định đô năm 1010, cho tới
khi Nguyễn ánh lên ngôi vua Gia Long (1802), lấy Huế làm kinh đô, Thăng
Long đã có tám trăm năm là đế đô của cả nớc. Đến triều Minh Mạng, cựu đô
Thăng Long chỉ còn là tỉnh Hà Nội. Đổi địa vị - từ kinh đô thành một tỉnh, đổi
cả tên - từ Đông Đô thành Hà Nội, nỗi niềm hoài cổ về Thăng Long cũng là
hoài cổ về cựu triều. Hơn nữa trong tám trăm năm Thăng Long là đế đô thì có
tới gần nửa thời gian mảnh đất này là Kinh đô của nhà Lê, vì vậy phải chăng
hoài cổ về Thăng Long cũng là nỗi niềm thơng tiếc, gắn bó với triều Lê của
một di thần?
Ngay cả một mảnh đất miền trung, một Đèo Ngang cũng trở thành một
không gian gợi nhớ về cựu triều. Đèo Ngang không chỉ ngăn chia địa giới
Đàng trong và Đàng ngoài mà còn ngăn chia hai triều đại. Bên này là quá khứ
vàng son của triều Lê. Bên kia là hiện tại tân triều nhà Nguyễn. ở không gian
mà cũng là thời gian giáp danh này, nữ sĩ nhớ về nớc cũ, nhà cũ mà đau lòng:
Nhớ nớc đau lòng con quốc quốc - Thơng nhà mỏi miệng cái gia gia. Nghe
tiếng chim cuốc cuốc mà nhớ lại cả một huyền sử bi thơng về vua Thục mất n-
ớc, khi chết hóa thành chim cuốc cứ kêu "quốc quốc". Trong quan niệm thời
trung đai, nớc, quốc gia đồng nghĩa với triều đại. Không trong tâm trạng
nhớ nớc ấy thì dù có tài chơi chữ đến đâu, tác giả cũng không thể viết đợc hai
câu thơ đặc sắc nh hai câu luận trong bài Qua Đèo Ngang. "Qua Đèo Ngang
đâu phải giản đơn là vợt qua một địa danh, một địa giới. Qua Đèo Ngang còn
là vợt qua một triều đại, vợt qua chính mình. Cái tên Đèo Ngang đối với bà
Huyện cũng có thể có chút ý vị ngang trái nào đó. Đạo đức phong kiến không
thừa nhận một thần dân có thể thờ hai vua, hai triều đại, nhng nó vẫn cần sự
cộng tác của thần dân triều đại cũ. Qua Đèo Ngang thời ấy là rời bỏ đất cũ vào
đất mới, chúa mới. Điều làm cho bà không hổ thẹn là bà vẫn không thôi thơng
tiếc cựu triều. Qua đèo là thuận theo thời thế, còn tình riêng thì trời cao, sông
núi biết cho ta!"
(1)
.
Nỗi niềm hoài cổ ở Bà Huyện Thanh Quan còn bắt nguồn từ cảm hứng
mĩ học hớng về quá khứ, cảm hứng nhân văn trớc lẽ đời dâu bể.
Con ngời thời trung đại quan niệm thời hoàng kim thuộc về quá khứ, cái
đẹp là khuôn mẫu của tiền nhân. Khổng Tử xem thời xa là một lí tởng không
thể nào đạt tới, là thế kỉ vàng của nhân loại. Một ngời đi trớc thời đại trong
nhiều lĩnh vực t tởng nh Nguyễn Trãi, khi nói lên lí tởng yêu nớc thơng dân
vẫn lấy Nghiêu, Thuấn làm hình mẫu: Dân Nghiêu Thuấn, vua Nghiêu
Thuấn - Dờng ấy ta đà phỉ sở nguyền. Tâm lí sùng cổ, hớng về quá khứ vàng
son là nét phổ biến ở con ngời thời trung đại.
Chính vì vậy mà hoài niệm về quá khứ là hoài niệm về cái đẹp, là tiếc
thơng cho cái đẹp đã bị tàn phai. Và, ở đây cảm hứng thẩm mĩ đã bắt gặp cảm
hứng nhân văn: cảnh vật, con ngời, tất cả đều đổi thay trớc lẽ đời dâu bể. Tr-
ơng Hán Siêu khi nhìn cảnh sông Bạch Đằng bến lách đìu hiu, sông chìm
giáo gãy, gò đầy xơng khô đã đứng lặng giờ lâu, trầm mặc suy t Thơng
nỗi anh hùng đâu vắng tá - Tiếc thay dấu vết luống còn lu (Bạch Đằng
giang phú - bản dịch). Bên cạnh niềm tự hào trớc chiến công oai hùng trên
dòng sông lịch sử, tác giả không khỏi buồn đau, nuối tiếc khi chiến trờng xa
một thời oanh liệt, nay trơ trọi hoang vu, dòng thời gian đang làm mờ bao dấu
vết. Cùng một tâm trạng ấy, Nguyễn Trãi khi qua cửa bể Bạch Đằng cũng
Lâm lu phủ cảnh ý nan thăng (Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng) (Bạch
1
() Trần Đình Sử, Bình giảng tác phẩm văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995, tr.81.
Đằng hải khẩu). Cha hết, ức Trai thăm núi Dục Thuý mà lòng đầy cảm khái
trớc cảnh rêu phủ trên nét chữ ngời xa: Hữu hoài Trơng thiếu bảo - Bi khắc
tiển hoa ban (Nhớ xa Trơng thiếu bảo - Bia khắc dấu rêu hoen) (Dục Thuý
sơn).
Phải đặt nỗi niềm hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan trong cảm hứng
nhân văn của một thời thi ca trung đại ấy mới thấy hết ý nghĩa giá trị của nó.
ở Thăng Long thành hoài cổ, mạch cảm xúc của tác giả là từ cảm nhận sự đổi
thay, muốn níu kéo lại dĩ vãng, nhng cuối cùng đành ngậm ngùi trớc lẽ đời
dâu bể.
Cảnh vật, cuộc đời thay đổi bởi quy luật tạo hoá gây chi cuộc hí tr-
ờng, bởi thời gian trôi thấm thoắt mấy tinh sơng. Hai chữ gây chi cho
thấy nhà thơ cảm nhận sự đổi thay trong nỗi niềm oán trách, còn hai chữ tinh
sơng để chỉ thời gian năm tháng nhng đọc lên nh toả lan cả nỗi niềm buốt
giá. Từ hiện tại, nữ sĩ hoài niệm về quá khứ, mong tìm lại dĩ vãng. Chính vì
vậy mà câu thơ: Lối xa xe ngựa hồn thu thảo - Nền cũ lâu đài bóng tịch d-
ơng có hai cách hiểu: lối xa xe ngựa giờ chỉ còn là hồn thu thảo, hoặc lối xa
xe ngựa còn ghi dấu ở hồn thu thảo; nền cũ lâu đài giờ chỉ còn bóng tịch dơng,
hoặc nền cũ lâu đài giờ chỉ còn bóng tịch dơng chứng kiến. Dù hiểu theo cách
nào thì cũng là quá khứ tìm cách đổ bóng xuống hiện tại. Hiểu theo cách nào
thì cũng là tâm trạng ai hoài, nuối tiếc. Thăng Long một thời phồn hoa với
cung vua phủ chúa vừa mới đây thôi giờ đã thành quá vãng. Tất cả chỉ còn lại
hoang vắng với cỏ mọc trên lối đi, với ánh chiều tà trên nền cũ. Quá khứ huy
hoàng chỉ còn "hồn", "bóng" ẩn hiện trong thiên nhiên hoang dã. Chữ "hồn",
chữ "bóng" là dấu nối hiện tại và quá khứ. "Hồn thu thảo" mà phảng phất hồn
ngời, "bóng tịch dơng" mà nh phảng phất bóng lâu đài. Cái mơ hồ, h ảo của
ngoại cảnh mà cũng là cái mơ hồ, h ảo của tâm cảnh. Trong sơng khói của thời
gian, nhà thơ nh gắng gợng kiếm tìm ảnh hình của quá khứ. "Đá vẫn trơ gan
cùng tuế nguyệt" hay lòng ngời hớng về quá khứ huy hoàng bất kể tháng năm?
"Nớc còn cau mặt với tang thơng" hay lòng ngời phản ứng trớc cảnh đời nơng
dâu biến thành bãi biển?
Kết lại bài Thăng Long thành hoài cổ vẫn là tâm trạng ngậm ngùi,
xót xa, thơng tiếc:
Cảnh đấy, ngời đây, luống đoạn trờng.
"Cảnh đấy" là cảnh quá khứ phồn hoa huy hoàng lu dấu tích trong hiện
tại hoang tàn, đổ nát. "Ngời đây" là ngời trong hiện tại mà nặng lòng với quá
khứ. Câu thơ nói về nỗi đoạn trờng cũng ngắt rời từng khúc nh nỗi đau đứt
ruột: "Cảnh đấy/ngời đây/luống đoạn trờng".
Với Thăng Long thành hoài cổ, có thể thấy cảm hứng hoài cổ ở Bà
Huyện Thanh Quan có đặc điểm riêng: con ngời hớng về quá khứ nhng không
phải để trốn tránh hiện tại mà là tìm lại mình, khẳng định mình trong hiện tại.
ý nghĩa nhân bản trong cảm hứng hoài cổ của thơ Bà huyện Thanh quan phải
chăng là ở đó?
2.2. Nỗi niềm hoài hơng
Trong cái nhìn hớng về quá khứ, Bà Huyện Thanh Quan tìm về triều đại
cũ, những lối xa, lâu đài của kinh thành Thăng Long, những nếp áo
chầu, hơi hơng ngự của hành cung Trấn Bắc. Cũng trong cái nhìn hớng về
quá khứ, nhà thơ còn về lại quê nhà với nỗi niềm tha hơng của ngời lữ khách.
Nếu Thăng Long thành mang nỗi niềm hoài cổ thì Chiều hôm nhớ nhà là nỗi
niềm hoài hơng của nữ sĩ.
Tâm trạng nhớ nhà gợi lên từ khung cảnh chiều hôm: Chiều trời bảng
lảng bóng hoàng hôn. Chính ở cái thời điểm chiều hôm ấy, lòng ngời thờng
dội lên bao nỗi nhớ, mà trớc hết là nhớ về quê hơng, gia đình, ngời thân. Ngời
phụ nữ trong ca dao: "Chiều chiều lại nhớ chiều chiều - Bâng khuâng nhớ mẹ
chín chiều ruột đau". Thúy Kiều khi ở lầu Ngng Bích nhớ về quê nhà: "Buồn
trông cửa bể chiều hôm- Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa". Thi sĩ Thôi
Hiệu đời Đờng, trên lầu Hoàng Hạc: "Nhật mộ hơng quan hà xứ thị - Yên ba
giang thợng sử nhân sầu" (Quê hơng khuất bóng hoàng hôn - Trên sông khói
sóng cho buồn lòng ai - Tản Đà dịch). Bà Huyện Thanh Quan cũng nhớ về quê
hơng, gia đình trong thời gian, không gian buổi chiều tà, vừa thực tại vừa
muôn đời ấy.
Mang nỗi niềm hoài hơng, nữ sĩ cảm nhận con ngời, cảnh vậtđều
trong sự trở về - trở về với mái ấm gia đình, trở về với sự sum họp:
Gác mái, ng ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sơng sa khách bớc dồn.
Giữa hai câu thực và hai câu luận nói trên có sự đối lập trong trạng thái
hoạt động, nhng đó là sự đối lập thống nhất. Hành động "gác mái" của ng ông,
"gõ sừng" của mục tử gợi sự chậm rãi, thảnh thơi, ngợc lại hoạt động "bay
mỏi" của cánh chim, "bớc dồn" của lữ khách lại gợi sự dồn dập, gấp gáp. Tuy
nhiên, nét thống nhất của những hành động đó là đều hớng tới sự nghỉ ngơi.
Cũng vậy, các chuyển động tỏa ra nhiều phơng (kẻ về, ngời lại, cánh chim trên
không, bớc chân trên đờng) nhng tất cả đều quy về một hớng: trở lại, trở về tổ
ấm. Trong sự trở về chung đó, trừ ngời lữ thứ (ngời xa nhà, đang sống trên đất
khách quê ngời) là cha biết về đâu, vẫn bơ vơ, cô quạnh trên đờng.
ở hai câu thực và luận của bài Chiều hôm nhớ nhà, tác giả đã sử dụng
bút pháp tả cảnh ngụ tình. Các hình tợng không gian gợi sự xa xăm (viễn phố),
đơn vắng (cô thôn), hiu hắt (sơng sa) thể hiện tâm trạng cô quạnh, nỗi nhớ nhà
u hoài của kẻ tha hơng.