Tải bản đầy đủ (.doc) (206 trang)

luận án tiến sĩ nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ giảng viên trẻ ở các trường sĩ quan quân đội giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 206 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu
độc lập của nghiên cứu sinh và không trùng lặp với
các công trình khoa học đã công bố. Các tài liệu, số
liệu, trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc xuất xứ rõ ràng và được ghi đầy đủ trong danh
mục tài liệu tham khảo.
Tác giả luận án

TẠ QUANG ĐẠO


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến
đề tài luận án
1.2.
Những công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến
đề tài luận án
1.3.
Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố có
liên quan đến đề tài và những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
NÂNG CAO BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ


GIẢNG VIÊN TRẺ Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
2.1.
Đội ngũ giảng viên trẻ và bản lĩnh chính trị của giảng viên trẻ ở
các trường sĩ quan quân đội
2.2.
Quan niệm, những vấn đề có tính nguyên tắc và tiêu chí nâng cao
bản lĩnh chính trị của đội ngũ giảng viên trẻ ở các trường sĩ quan quân đội
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO
BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRẺ Ở
CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
3.1.
Thực trạng nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ giảng viên trẻ ở
các trường sĩ quan quân đội
3.2.
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao bản lĩnh chính trị
của đội ngũ giảng viên trẻ ở các trường sĩ quan quân đội
Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO BẢN LĨNH
CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRẺ Ở CÁC
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao bản lĩnh chính trị của
đội ngũ giảng viên trẻ ở các trường sĩ quan quân đội giai đoạn hiện nay
4.2.
Những giải pháp nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ
giảng viên trẻ ở các trường sĩ quan quân đội giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN
CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

Trang

5
9
9
18
28

32
32
60

83
83
103

115
115
125
164
166
167
177


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết đầy đủ


Chữ viết tắt

1

Bản lĩnh chính trị

BLCT

2

Bộ Quốc phòng

BQP

3
4

Chủ nghĩa xã hội
Giảng viên trẻ

CNXH
GVT

5

Giáo dục - đào tạo

GD-ĐT

6


Khoa học xã hội và nhân văn

KHXH&NV

7

Nghiên cứu khoa học

NCKH

8

Quân ủy Trung ương

QUTW

9

Trường sĩ quan quân đội

TSQQĐ

10

Xã hội chủ nghĩa

XHCN



5

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Các TSQQĐ là những trung tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân
đội (Chỉ huy tham mưu, chính trị, kỹ thuật...) và nghiên cứu, ứng dụng, phát triển
khoa học quân sự phục vụ nhiệm vụ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chất lượng
GD-ĐT, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, sĩ quan và nghiên cứu, ứng dụng, phát triển
khoa học quân sự của các TSQQĐ là một thành tố quan trọng tạo nên chất lượng
tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đội ngũ GVT ở các TSQQĐ là lực lượng trực tiếp tham gia thực hiện
nhiệm vụ GD-ĐT và NCKH, trang bị kiến thức chuyên môn và hướng dẫn
kỹ năng hoạt động thực tiễn cho học viên; lực lượng kế cận đội ngũ cán bộ,
chỉ huy, quản lý, cán bộ khoa học của các TSQQĐ; lực lượng tiếp tục thực
hiện công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ nhiệm vụ xây dựng quân đội.
Với vai trò quan trọng đó, yêu cầu khách quan đặt ra là cần không ngừng xây
dựng, bồi dưỡng đội ngũ GVT ở các TSQQĐ một cách toàn diện; nhất là bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức, nâng cao BLCT, để mỗi GVT có BLCT vững vàng,
luôn yên tâm công tác, chủ động vượt mọi khó khăn; thực sự là tấm gương mẫu
mực về bản lĩnh, ý chí, năng lực chuyên môn cho học viên phấn đấu, noi theo.
Bản lĩnh chính trị là một thành tố quan trọng trong phẩm chất chính trị của
đội ngũ GVT; có vai trò định hướng, tạo động lực để đội ngũ GVT thực hiện tốt
chức trách, nhiệm vụ. Nâng cao BLCT có ý nghĩa quan trọng trong nâng cao chất
lượng toàn diện đội ngũ GVT ở các TSQQĐ. Những năm qua, cấp ủy, tổ chức
đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng các cấp ở các TSQQĐ đã thường xuyên
quan tâm nâng cao BLCT của đội ngũ GVT. Đại bộ phận GVT ở các TSQQĐ đã
ý thức đầy đủ và tích cực, tự giác trong tự giáo dục, tự rèn luyện nâng cao BLCT;
nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; chủ động tham
gia đấu tranh tư tưởng lý luận, phê phán các quan điểm, tư tưởng phản động góp
phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng... Tuy nhiên, do nhiều nguyên

nhân nên việc nâng cao BLCT của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ vẫn còn có những
hạn chế nhất định. Một số cấp ủy, chỉ huy, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy


6

đủ về yêu cầu nâng cao BLCT của đội ngũ GVT; nội dung, hình thức, biện pháp
nâng cao BLCT chậm được đổi mới; sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực
lượng trong nâng cao BLCT của đội ngũ GVT có lúc, có nơi chưa được chú trọng
phát huy hiệu quả… Số ít GVT chưa say mê phấn đấu vươn lên, còn thiếu tích
cực trong tự tu dưỡng, rèn luyện; một số GVT chưa có BLCT vững vàng, còn dao
động trước khó khăn, gian khổ...
Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra yêu cầu cao đối với công tác đào tạo, bồi
dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội; nhất là yêu cầu đổi mới căn
bản, toàn diện GD-ĐT, nâng cao chất lượng NCKH ở các TSQQĐ. Mặt
khác, các thế lực thù địch đang ra sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa
bình” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Tệ nạn xã hội, mặt trái cơ chế
thị trường và tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
cùng những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên đang có những tác động đến nhận thức, tư tưởng, đạo đức,
lối sống của đội ngũ GVT; trực tiếp tác động đến BLCT của đội ngũ GVT ở
các TSQQĐ. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy, NCKH và đấu tranh
trên lĩnh vực tư tưởng lý luận, đòi hỏi đội ngũ GVT ở các TSQQĐ phải thực
sự có BLCT vững vàng, có tình yêu nghề; luôn kiên định trong mọi nhiệm
vụ, trước mọi điều kiện hoàn cảnh.
Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao bản lĩnh
chính trị của đội ngũ giảng viên trẻ ở các trường sĩ quan quân đội giai
đoạn hiện nay" để làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng và
chính quyền Nhà nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu

sắc; đồng thời mang tính cấp thiết đối với việc phát huy vai trò của đội ngũ
GVT ở các TSQQĐ trong tình hình hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp nâng
cao BLCT của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ giai đoạn hiện nay.


7

Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan; xác định các vấn đề đặt
ra đề tài luận án cần tiếp tục giải quyết.
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về BLCT của đội ngũ GVT và nâng cao
BLCT của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao BLCT của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ.
- Phân tích những yếu tố tác động; xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp
nâng cao BLCT của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao BLCT của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ là đối tượng nghiên
cứu của luận án.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu BLCT và nâng cao BLCT của đội ngũ GVT ở các
TSQQĐ. Phạm vi khảo sát thực tế chủ yếu tập trung ở các cơ quan, đơn vị, khoa giáo
viên thuộc một số TSQQĐ; điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến ở các TSQQĐ như:
Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1, Trường Sĩ quan Lục quân 2,
Trường Sĩ quan Phòng hóa, Trường Sĩ quan Công binh, Trường Sĩ quan Thông tin,
Trường Sĩ quan Đặc công, Trường Sĩ quan Kỹ thuật quân sự. Các tư liệu và số liệu

điều tra, khảo sát phục vụ cho nghiên cứu đề tài luận án được giới hạn chủ yếu từ
năm 2015 đến nay. Giải pháp đề xuất có giá trị ứng dụng đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về cán bộ và công tác cán bộ; về GD-ĐT; nhân tố chính trị, tinh thần và xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị...
Cơ sở thực tiễn
Thực trạng hoạt động bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực nói
chung và hoạt động nâng cao BLCT của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ; các số


8

liệu, tài liệu, báo cáo, tổng kết của cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính trị các
cấp và hệ thống các số liệu liên quan đến thực trạng BLCT và nâng cao BLCT
của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ do tác giả khảo sát, thu thập.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và các khoa
học liên ngành; trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp lôgic, lịch sử; phân
tích, tổng hợp; hệ thống, cấu trúc, thống kê, so sánh; khảo sát, điều tra xã hội học;
tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng và làm rõ quan niệm BLCT và nâng cao BLCT của đội ngũ
GVT ở các TSQQĐ.
Rút ra một số kinh nghiệm nâng cao BLCT của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ.
Đề xuất một số nội dung, biện pháp cụ thể, khả thi trong những giải
pháp nâng cao BLCT của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ giai đoạn hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm những vấn
đề lý luận, thực tiễn nâng cao BLCT của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ; cung
cấp luận cứ khoa học phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng,
cán bộ chủ trì các TSQQĐ trong nâng cao BLCT của đội ngũ GVT giai đoạn hiện
nay.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu,
giảng dạy, học tập trong các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các
công trình công bố kết quả nghiên cứu của đề tài luận án, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục.


9

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên
quan đến đề tài luận án
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về công tác đảng, công tác chính
trị; giáo dục chính trị tư tưởng và bản lĩnh chính trị, niềm tin cộng sản
của cán bộ, đảng viên
V.A Xu-khôm-lin-xki (1961), Hình thành niềm tin cộng sản cho thế hệ
trẻ [129]. Trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bồi
dưỡng, xây dựng thế hệ trẻ, tác giả đã luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản
về bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ; trọng tâm là hình thành, phát
triển bản lĩnh - niềm tin cộng sản. Tác giả nhấn mạnh, một trong những “con
đường” hình thành niềm tin cộng sản, xây dựng bản lĩnh cho thế hệ trẻ có

hiệu quả nhất đó là thông qua học tập tại các nhà trường cộng sản. Trong đó,
việc phát huy vai trò tự học tập, tự rèn luyện của mỗi cá nhân luôn có ý nghĩa
quyết định đến việc giúp thanh, thiếu niên không ngừng hình thành, bồi đắp
niềm tin cộng sản [129, tr.64].
A.A.Grê-scô (1978), Các lực lượng vũ trang của Nhà nước Xô Viết
[54]. Công trình đã chỉ rõ vai trò to lớn của công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, bồi dưỡng bản lĩnh cho cán bộ, sĩ quan các lực lượng vũ trang. Theo
tác giả, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng bản lĩnh cần làm cho
cán bộ, sĩ quan các lực lượng vũ trang có tính kiên định cộng sản chủ nghĩa;
có lòng trung thành vô hạn với Đảng và nhân dân; có kỷ luật và ý thức chấp
hành cao; có sáng kiến và tính chủ động...
A.A Ê-pi-sép (1978), Một số vấn đề công tác đảng, công tác chính trị
trong các lực lượng vũ trang Liên Xô [53]. Công trình đã đề cập đến vấn đề xây
dựng bản lĩnh, trang bị niềm tin cộng sản chủ nghĩa cho người chiến sĩ trên cơ sở
hoạt động CTĐ, CTCT nói chung và hoạt động công tác tư tưởng nói riêng. Tác


10

giả cuốn sách đã tập trung phân tích, luận giải, làm rõ những kinh nghiệm thực
tiễn và tổng kết một số vấn đề chủ yếu nhằm nâng cao hiệu lực của hoạt động
CTĐ, CTCT. Bàn về vai trò và đặc điểm của công tác tư tưởng trong xây dựng
các phẩm chất cần thiết của người chiến sĩ quân đội và hải quân, tác giả nhấn
mạnh: “Công tác tư tưởng là một biện pháp cực kỳ quan trọng, nhằm bồi dưỡng
cho quân đội Liên Xô giác ngộ cộng sản chủ nghĩa” [53, tr.270]. Theo đó, vấn đề
quan trọng là cần xây dựng ở những người bảo vệ đất nước Liên Xô sự vững
vàng về tư tưởng bởi thực tế chứng minh, các quân nhân có nhận thức chính trị
càng cao, có bản lĩnh vững vàng và niềm tin cộng sản chủ nghĩa càng sâu sắc thì
họ càng hiểu rõ và càng hăng hái hoàn thành nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Do vậy,
“những vấn đề có liên quan đến việc xây dựng con người mới và việc giáo dục

cho con người mới thế giới quan khoa học và niềm tin cộng sản chủ nghĩa là
điểm trung tâm của công tác tư tưởng” [53, tr.287].
V.Mi-khai-lốp (1979), V.I. Lênin, Đảng Cộng sản Liên Xô bàn về công
tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang [70]. Nội dung bài
viết khẳng định rõ vai trò, tầm quan trọng, ý nghĩa của CTĐ, CTCT, công tác
giáo dục chính trị tư tưởng... Tác giả nhấn mạnh, để xây dựng Hồng quân
Liên Xô vững mạnh, vấn đề có ý nghĩa quan trọng đó là “phát huy ý thức giác
ngộ xã hội chủ nghĩa của quần chúng hồng quân, giáo dục chính trị cho họ,
tăng cường ý thức kỷ luật tự giác, nâng cao tinh thần cho họ” [70, tr.1-2].
E.Ph Xu-li-mốp và V.V Se-li-ắc (1980), Sự lãnh đạo khoa học trong các
lực lượng vũ trang Xô Viết [130]. Cuốn sách đã đề cập đến mặt phương pháp
luận của vấn đề lãnh đạo, quản lý bộ đội trong thời bình và chuẩn bị lực lượng
cho chiến tranh hiện đại, bao gồm quản lý huấn luyện quân sự và chính trị; nâng
cao sự sẵn sàng chiến đấu của quân đội; quản lý CTĐ, CTCT; quản lý đời sống
bộ đội, tác phong công tác của cán bộ quân sự… Trong đó, các tác giả đặc biệt
nhấn mạnh việc giáo dục chính trị, bồi dưỡng bản lĩnh chiến đấu cho bộ đội.
Chương IV: “Những nguyên tắc tổ chức khoa học công tác huấn luyện quân sự
cho bộ đội”, nhóm tác giả khẳng định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện bản


11

lĩnh chiến đấu: “Có bản lĩnh chiến đấu… là cơ sở sự sẵn sàng chiến đấu của các
binh đoàn, bộ đội” [130, tr.158]. Theo đó, bản lĩnh chiến đấu là “sự tổng hợp
những kiến thức, những kỹ năng và những kỹ xảo thực hành của cán bộ và
chiến sĩ, và cũng là sự hiệp đồng chiến đấu và năng lực của các tập thể quân
nhân để giải quyết những nhiệm vụ chiến đấu khác nhau” [130, tr.159].
Chương VII: “Những nguyên lý tổ chức khoa học công tác giáo dục chính trị
và quân sự”, các tác giả chỉ rõ: “Giáo dục chính trị và quân sự là khâu quan
trọng nhất trong hoạt động của cán bộ”; “Thắng lợi và thất bại, tiến trình và

kết cục của chiến tranh nói chung là do một loạt nhân tố quyết định, trong đó
nhân tố tinh thần của bộ đội giữ một vị trí đặc biệt” [130, tr.269]. Do vậy, từ
những ngày đầu xây dựng quân đội cách mạng, V.I Lê-nin và Đảng Bôn-SêVích đã đặc biệt chú ý đến việc rèn luyện về chính trị tinh thần của các chiến
sĩ Xô - Viết, qua đó, giúp họ có được bản lĩnh vững vàng, kiên định, luôn
“mang trong tim mình ngọn lửa rực cháy của những tư tưởng cách mạng, lòng
trung thành với Tổ quốc và nhân dân” [130, tr.270].
Công tác đảng - chính trị trong các lực lượng vũ trang Xô - Viết (1981),
tài liệu dùng để giảng dạy về CTĐ, CTCT do tập thể sĩ quan cao cấp đồng
thời là các nhà khoa học Xô - Viết biên soạn [88]. Với việc đề cập đến hoạt
động CTĐ, CTCT ở đơn vị cơ sở, nội dung cuốn sách vừa có tính lý luận chặt
chẽ, vừa có tính thực tiễn cụ thể và phong phú. Các tác giả khẳng định: “Phải
tăng cường hơn nữa việc giáo dục tư tưởng - chính trị cho nhân dân Liên Xô,
đặc biệt là cho thế hệ trẻ” [88, tr.123] để họ “có cảnh giác chính trị cao, cần
phải có công tác tuyên truyền tích cực, nhạy bén và đầy thuyết phục, giáng trả
kịp thời mọi sự phá hoại của tư tưởng thù địch” [88, tr.124]. Thông qua công
tác tư tưởng trong quân đội và hạm đội, công tác giáo dục tư tưởng - chính
trị sẽ giúp xây dựng ở quần chúng nhân dân và chiến sĩ bản lĩnh vững vàng,
ý chí quyết tâm cao trong thực hiện các nhiệm cách mạng. Nội dung tài liệu
chỉ rõ, “Sự giác ngộ và lòng tin vững chắc chính là nguồn gốc quan trọng
nhất của sức mạnh tinh thần của bộ đội, có tác dụng động viên mọi người tận
tụy hy sinh thực hiện nghĩa vụ quân sự, giáo dục họ ra sức rèn luyện mọi


12

phẩm chất cần thiết để chiến thắng” [88, tr.301]. Về nội dung giáo dục, rèn
luyện tinh thần - chính trị, cuốn sách xác định là giáo dục những luận điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận và chính sách của Đảng Cộng
sản; giáo dục lòng tin vào đảng của Lênin, lòng trung thành với sự nghiệp
của Đảng; giáo dục bộ đội về chủ nghĩa yêu nước Xô - Viết; giáo dục niềm

tin sắt đá vào thắng lợi tất yếu đối với bất kỳ kẻ thù xâm lược nào… nhằm
“làm cho quân đội tin tưởng vào lực lượng của mình”. “Trình độ giác ngộ
chính trị cao, khả năng nhận thức được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội,
bản lĩnh làm chủ vũ khí kỹ thuật chiến đấu, đó là những nhân tố chủ yếu xác
định niềm tin vào thắng lợi” [88, tr.308].
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về công tác cán bộ; nâng cao
phẩm chất, năng lực và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ
I.A.Moblép (1979), Hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô trong lĩnh vực
đào tạo cán bộ quân đội [82]. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề chính
liên quan đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ sĩ quan Quân đội
Liên Xô. Theo quan điểm của tác giả, sức mạnh chiến thắng của Hồng quân Liên
Xô được tạo thành từ rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố có ý nghĩa quan
trọng nhất chính là nhờ có Đảng Cộng sản Liên Xô trực tiếp tổ chức, xây dựng,
lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định ý
nghĩa chiến lược lâu dài của việc xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội vững mạnh,
bảo đảm về cả phẩm chất, trình độ, năng lực lãnh đạo, tổ chức chỉ huy các đơn vị
và các lực lượng vũ trang hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng. Muốn vậy, công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ phải được thực hiện đồng bộ, khoa học, chặt chẽ.
Trong đó, cần đặc biệt chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và nâng cao
chất lượng mọi mặt của đội ngũ cán bộ quân đội; cần thực hiện đầy đủ các khâu,
các bước với những hình thức, biện pháp phù hợp gắn với các tổ chức, các lực
lượng cụ thể. Tác giả nhấn mạnh, nâng cao chất lượng mọi mặt của đội ngũ cán
bộ Hồng quân và Hải quân Liên Xô cần toàn diện song phải tập trung vào nâng
cao chất lượng chính trị, bồi dưỡng lòng trung thành, xây dựng bản lĩnh và ý chí


13

quyết tâm chiến đấu, chiến thắng kẻ thù. “Đảng thường xuyên chăm lo giáo dục,
xây dựng đội ngũ cán bộ sĩ quan vững về tư tưởng, giỏi về quân sự và kỹ thuật”

[82, tr.3]. Đối với điều kiện hòa bình, tác giả làm rõ đặc điểm, phương hướng,
mục tiêu và yêu cầu, nhiệm vụ nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quân đội gắn
với tình hình mới; trong đó tiếp tục xác định, việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng,
rèn luyện đội ngũ cán bộ luôn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với
nhiệm vụ xây dựng Quân đội Liên Xô vững mạnh.
Sách trắng quốc phòng Trung Quốc năm 2002 [101], Tài liệu tham
khảo đặc biệt của Thông tấn xã Việt Nam có ghi: “Quan binh nhất trí, quân
dân nhất trí, làm tan rã kẻ thù” [101, tr.5]; đoàn kết trong Quân giải phóng
nhân dân Trung Quốc là đoàn kết dựa trên sự thống nhất cao về tư tưởng và
hành động của cán bộ, chiến sĩ trong mọi hoàn cảnh chiến đấu, công tác, học
tập, sinh hoạt. Theo đó, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc luôn đặt ra
yêu cầu cao trong việc hình thành ở từng chiến sĩ bản lĩnh vững vàng, nhất là
trong các điều kiện khó khăn, gian khổ; trong những tình huống chiến đấu ác
liệt. Đó là kết quả quá trình lâu dài từ việc rèn luyện trong các nhà trường
quân sự cho đến quá trình rèn luyện tại đơn vị của mỗi cán bộ, chiến sĩ.
Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm
của Trung Quốc (2004), Kỷ yếu Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt
Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc [86]. Đây là cuộc hội thảo thu hút được
nhiều nhà lãnh đạo, các chuyên gia đầu ngành về công tác xây dựng Đảng của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hội thảo đã gợi mở
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu phục vụ
thiết thực cho công tác xây dựng Đảng phù hợp với đặc điểm và điều kiện của mỗi nước.
Tống Hiểu Quần (2004), Tăng cường xây dựng ban lãnh đạo, cố gắng
hình thành tầng lớp lãnh đạo hăng hái, sôi nổi, phấn đấu thành đạt [86]. Tác
giả chỉ rõ: Cần thông qua việc kiên trì học tập lý luận và rèn luyện trong thực
tế, lựa chọn đúng người và sử dụng người một cách khoa học, cải tiến tác


14


phong, tăng cường mối liên hệ với nhân dân; ngăn ngừa và khắc phục bệnh
chủ quan, quan liêu, xa dân.
Nhìn chung, bài viết của các tác giả Trung Quốc trong cuốn Kỷ yếu Hội
thảo đã khẳng định vị trí quan trọng then chốt của Đảng cách mạng trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới; khẳng định sự cần thiết khách quan phải xây
dựng phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng; tổng kết
một bước những kinh nghiệm lý luận và thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với việc cải cách mở cửa ở Trung Quốc, đáp ứng lợi ích quốc gia,
dân tộc. Vì vậy, cần phải luôn kiên trì đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng cả
về chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ, phương thức lãnh đạo, thắt chặt mối
liên hệ giữa Đảng và nhân dân. Nghiên cứu sinh kế thừa những nội dung các
tác giả đề cập về bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên để nghiên
cứu, đề xuất những giải pháp giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện và nâng cao
BLCT của đội ngũ GVT ở các TSQQĐ hiện nay.
Nhiêm Ngạn Thân (2012), Phát hiện và sử dụng nhân tài [100]. Với
hướng nghiên cứu về cách dùng người, phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân
tài, lựa chọn cán bộ và nghệ thuật lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc,
tác giả đã tập trung đề cập sâu đến vấn đề lựa chọn cán bộ. Tác giả đã trình
bày nhiều nội dung có tính phát hiện như: Làm cán bộ phải như thế nào? vấn
đề cán bộ đương nhiệm và cán bộ tiền nhiệm; vấn đề mối quan hệ giữa cấp
trên với cấp dưới, giữa cá nhân với tập thể tổ chức; vấn đề chấp hành nguyên
tắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các nguyên tắc… Đặc biệt, bằng kinh
nghiệm thực tiễn, tác giả nhấn mạnh vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ và tầm
quan trọng của công tác cán bộ. Công tác cán bộ là vấn đề mang tính sống
còn của sự nghiệp cách mạng, liên quan trực tiếp đến Đảng và chính quyền:
“Cán bộ là nguồn tài nguyên nhân tài quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước, là những người được lựa chọn trong hàng ngàn, hàng
vạn người. Đảng và chính quyền muốn bồi dưỡng một nhân tài lãnh đạo
không phải là việc dễ” [100, tr.96]. Theo đó, tác giả chỉ rõ: “lựa chọn cán bộ
phải xuất phát từ vấn đề con người” [100, tr.98]; “Bản lĩnh của người lãnh



15

đạo chính là giỏi đơn giản hóa những vấn đề phức tạp, lựa chọn những nội
dung có giá trị nhất trong mớ thông tin hỗn độn, tìm ra đường lối rõ ràng từ
nhiều ý kiến khác nhau, sau đó dùng lời nói đơn giản, súc tích để nói rõ ý
tưởng của mình” [100, tr.117].
Sẻng Thoong Unnang (2016), Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ tiểu
đoàn bộ đội chủ lực Quân đội nhân dân giai đoạn hiện nay [125], Luận án tiến
sĩ Khoa học chính trị. Tác giả làm rõ những vấn đề cơ bản về tiểu đoàn và đội
ngũ cán bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực Quân đội nhân dân Lào; đưa ra quan niệm
về BLCT và luận giải một số vấn đề chủ yếu về nâng cao BLCT của đội ngũ cán
bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực Quân đội nhân dân Lào giai đoạn hiện nay. Theo tác
giả, BLCT có vai trò rất quan trọng đối với kết quả hoạt động của đội ngũ cán bộ
tiểu đoàn bộ đội chủ lực Quân đội nhân dân Lào. Trong mọi giai đoạn cách
mạng, việc xây dựng và nâng cao BLCT của cán bộ Quân đội nhân dân Lào nói
chung, đội ngũ cán bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực luôn là yêu cầu mang tính khách
quan. Bởi lẽ, “BLCT vững vàng của đội ngũ cán bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực
Quân đội nhân dân Lào sẽ định hướng suy nghĩ, hành động đúng đắn, phù hợp”
[125, tr.59]. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng BLCT của đội ngũ cán bộ tiểu
đoàn bộ đội chủ lực Quân đội nhân dân Lào, tác giả đã rút ra những bài học kinh
nghiệm trong nâng cao BLCT của đội ngũ cán bộ tiểu đoàn, bộ đội chủ lực Quân
đội nhân dân Lào. Trong đó, có kinh nghiệm giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp ủy trên cấp, nhất là cấp trên trực tiếp, đối với cấp uỷ và
người chỉ huy các tiểu đoàn bộ đội chủ lực:
Các cấp ủy đảng có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc nâng
BLCT cho đội ngũ cán bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực. Các tổ chức
này phải luôn xác định xây dựng đội ngũ cán bộ về mọi mặt,
trong đó có nâng cao BLCT chính là xây dựng đơn vị, xây dựng

tổ chức đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ gánh vác nhiệm vụ bảo
vệ và xây dựng Tổ quốc. Phải xác định thái độ đúng, tinh thần
trách nhiệm cao cho các cấp ủy viên trong thực hiện nhiệm vụ
này. Các tổ chức đảng phải xây dựng chương trình, kế hoạch và
nội dung về nâng cao BLCT cho đội ngũ cán bộ sĩ quan, phải phân


16

công, phân cấp lãnh đạo, chỉ đạo, có kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức
thực hiện [125, tr.102].
Với cách tiếp cận mang tính logic, tác giả đưa ra một số dự báo về sự
tác động của các nhân tố; xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp
chủ yếu nâng cao BLCT của đội ngũ cán bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực Quân
đội nhân dân Lào giai đoạn hiện nay. Theo tác giả, cần tập trung vào một số
giải pháp như: Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, trước hết là cấp
ủy, tổ chức Đảng và người chỉ huy cấp trên trong nâng cao BLCT của đội ngũ
cán bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực; tiếp tục đổi mới giáo dục, bồi dưỡng, rèn
luyện BLCT của đội ngũ cán bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực; phát huy tính tích
cực, tự giác trong tự giáo dục, tự rèn luyện để nâng cao BLCT của đội ngũ
cán bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực Quân đội nhân dân Lào; tăng cường quản lý,
kiểm tra, giám sát nhận thức tư tưởng và hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán
bộ tiểu đoàn bộ đội chủ lực Quân đội nhân dân Lào…
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về giảng viên;
xây dựng và bồi dưỡng phẩm chất, năng lực của đội ngũ giảng viên
I.S.Metnhicop (1975), Công tác đảng, công tác chính trị trong các
lực lượng vũ trang Liên Xô 1918 - 1973 [69]. Tác giả đã khái quát sự hình
thành, phát triển, những thành tựu đạt được của CTĐ, CTCT trong lực
lượng vũ trang Liên Xô qua các thời kỳ cách mạng; tổng kết thực tiễn, chỉ
ra một số bài học kinh nghiệm có giá trị cả trong hoạt động CTĐ, CTCT và

trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị, cán bộ quân sự đáp ứng yêu
cầu xây dựng Quân đội và Hải quân Liên Xô trong thời kỳ đấu tranh cách mạng
và xây dựng chính quy, hiện đại. Cùng với đó, trên cơ sở tổng kết những kết quả
công tác đào tạo cán bộ trong các lực lượng vũ trang Liên Xô, tác giả cho rằng:
đội ngũ cán bộ, giáo viên tại các nhà trường quân sự Liên Xô đã có vai trò quan
trọng trong đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ chính trị, cán bộ quân sự mẫu mực
cho các lực lượng vũ trang; trong thời gian học tập tại nhà trường, chính sự
gương mẫu, mô phạm của đội ngũ giáo viên đã trực tiếp tác động đến tâm lý,


17

nhận thức và nhân cách của lực lượng học viên, những sĩ quan của Quân đội và
Hải quân Liên Xô trong tương lai [69, tr.29].
Trương Tư Nghị (1987), Giáo trình Công tác đảng, công tác chính trị của
Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trong các học viện, nhà trường trong thời
kỳ mới [84]. Công trình đã đề cập tương đối toàn diện về các vấn đề liên quan đến
các nội dung trong hoạt động CTĐ, CTCT của Quân Giải phóng nhân dân Trung
Quốc trong các học viện, nhà trường gắn với những đặc điểm, yêu cầu của thời kỳ
mới. Nội dung công trình chỉ rõ, Quân ủy Trung ương và Quân Giải phóng nhân
dân Trung Quốc rất quan tâm, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói
chung và rèn luyện đạo đức, bồi dưỡng bản lĩnh của cán bộ trẻ nói riêng. Theo đó,
tập thể tác giả xác định việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có tính cấp thiết, quan
trọng; là một trong những nhiệm vụ chiến lược lâu dài, có ý nghĩa quyết định
trong xây dựng cách mạng hóa, hiện đại hóa và chính quy hóa. Đồng thời, các tác
giả cũng cho rằng, Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc rất coi trọng việc bồi
dưỡng chính trị tư tưởng cho người học ở các nhà trường. Trong đó, một kinh
nghiệm quan trọng được nhóm tác giả đưa ra là luôn quan tâm xây dựng, phát
triển toàn diện đội ngũ giáo viên tại các nhà trường, làm “tiền đề” để việc đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ quân đội thực sự có chất lượng [84, tr.35].

Đặc biệt, tại Chương 35, “Công tác chính trị Học viện chính trị quân sự, nhà
trường quân đội”, các tác giả chỉ rõ, cần chú trọng bồi dưỡng toàn diện đội ngũ giáo
viên trong hệ thống nhà trường quân đội (Trung Quốc), đồng thời nhấn mạnh: Phải
bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp tốt cho giáo viên. Giáo viên là
kỹ sư tâm hồn của nhân loại phải gánh vác chức trách quan trọng và nhiệm vụ vinh
quang là đào tạo thế hệ con người mới… [84, tr.579].
La Quốc Kiệt (2003), Tu dưỡng đạo đức, tư tưởng [61]. Cuốn sách
được dịch từ bộ giáo trình cùng tên, được dùng chính thức, thống nhất cho
mọi đối tượng trong các trường đại học của Trung Quốc hiện nay. Cuốn
sách trình bày khá toàn diện những yêu cầu, tiêu chuẩn đạo đức và phương
pháp tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tư tưởng của sinh viên trong giai đoạn


18

mới. Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bồi dưỡng đạo đức, tư
tưởng ở đội ngũ cán bộ, giảng viên các trường Đại học Trung Quốc nhằm
“làm gương” đối với sinh viên; đó là cơ sở xây dựng “lớp người trẻ có bản
lĩnh, trí tuệ và trình độ” [61, tr.62].
Ken Bain (2009), Phẩm chất của những nhà giáo ưu tú [3]. Với kinh
nghiệm trên 20 năm trực tiếp giảng dạy tại các trường đại học nổi tiếng ở
Anh, Giáo sư Sử học Ken Bain đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt
động giáo dục và đội ngũ nhà giáo. Với cuốn sách nói trên, tác giả tập trung
làm nổi bật vai trò, phẩm chất, năng lực của người giảng viên đại học trong
quá trình tiến hành các hoạt động giảng dạy. Theo tác giả, để hoạt động giảng
dạy có được hiệu quả, đòi hỏi khách quan đặt ra là người giảng viên phải có
kiến thức, kỹ năng sư phạm và phải gương mẫu, mẫu mực trước người học.
James H.Stronge (2013), Phẩm chất người giảng viên hiệu quả [98].
Công trình đã cung cấp cho người đọc hệ thống các yếu tố hình thành một
người giảng viên tốt. Theo tác giả, các yếu tố đó bao gồm: Việc quan tâm

đến học viên, lắng nghe và hiểu học viên; nhiệt tình, yêu nghề, có thái độ
đúng đắn với công tác chuẩn bị và thực hành giảng dạy… Trong các phẩm
chất đó, tác giả đặc biệt quan tâm và đề cao mối quan hệ chặt chẽ giữa thái
độ, tình cảm của người giảng viên với môn học và người học.
1.2. Những công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về bồi dưỡng phẩm chất chính trị,
bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên nói chung
Vũ Văn Phúc - Ngô Văn Thạo (2011), Những giải pháp và điều kiện
thực hiện phòng, chống suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ,
đảng viên, [91]. Nhóm tác giả chỉ rõ, trong thời kỳ đổi mới, do những nguyên
nhân chủ quan và khách quan đã dẫn đến tình trạng suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Tình trạng
này chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn có những diễn biến phức tạp, đang
là nguyên nhân làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà


19

nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Do đó, phòng, chống suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên là vấn đề
đặt ra mang tính cấp bách và cần thiết, đòi hỏi phải giải quyết. Sau khi phân
tích, làm rõ nguyên nhân, thực trạng của công tác phòng, chống suy thoái suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, nhóm tác
giả đã đề xuất các giải pháp đấu tranh phòng, chống suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Các giải pháp được đưa ra khá
đồng bộ, bao gồm giải pháp về công tác xây dựng Đảng; giải pháp về lĩnh vực
quản lý nhà nước; giải pháp về phát huy vai trò của nhân dân và xã hội; giải
pháp hạn chế tác động từ bên ngoài đến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
trong cán bộ, đảng viên… Đặc biệt, theo nhóm tác giả cần chú trọng “Phát
huy vai trò tự giác, tích cực của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong phòng,

chống suy thoái suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” [91, tr.333].
Phát triển đảng viên, nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện tư tưởng,
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay (2013), tập hợp
các bài viết của nhiều tác giả [13]. Ở mục “Nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ,
đảng viên”, các tác giả chỉ rõ, BLCT là cơ sở đầu tiên tạo nên sức mạnh, uy tín, sự
thống nhất ý chí, hành động của Đảng; là điều kiện bảo đảm cho Đảng vượt qua
mọi khó khăn, đưa phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo vượt qua những thử
thách của lịch sử. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cả trong đấu tranh giành chính
quyền trước đây và trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay đã chứng
minh một chân lý: Khi nào Đảng thể hiện được BLCT vững vàng, độc lập, sáng
tạo thì cách mạng sẽ phát triển thuận lợi; quần chúng nhân dân sẽ tin tưởng tuyệt
đối và sẵn sàng đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Theo các tác giả:
Bản lĩnh chính trị là có tư duy khoa học, tự quyết định một cách độc lập
hành động của mình, không vì áp lực bên ngoài mà thay đổi quan điểm.
Bản lĩnh thể hiện sự trưởng thành, sự vững vàng của một con người, một
tổ chức. Càng nhiều khó khăn, thử thách thì càng bộc lộ rõ bản lĩnh,
đồng thời bản lĩnh càng được tôi luyện, vững vàng. Có bản lĩnh là có
được phẩm chất quyết định sự sống còn và thành công của mỗi cá nhân,


20

tổ chức. Thiếu bản lĩnh thì dễ bị sai lầm, thất bại, khó vượt qua thử thách,
trở ngại để đi đến thành công [13, tr.46].
Vì thế, cần coi trọng việc nâng cao hơn nữa BLCT của cán bộ, đảng viên.
Lê Hữu Nghĩa (2016), Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế [85]. Nội dung
nghiên cứu chỉ rõ, BLCT “là phẩm chất chính trị tuyệt đối cần thiết đối với
Đảng Cộng sản và cán bộ, đảng viên của Đảng” [85, tr.56]. Đồng thời,
khẳng định, BLCT của cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng không chỉ

đối với sự phát triển, hoàn thiện chính bản thân người cán bộ, đảng viên mà
còn là cơ sở để nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.
Theo tác giả, BLCT của cán bộ, đảng viên được biểu hiện một cách thường
xuyên, liên tục và phong phú; tập trung trên một số phương diện chủ yếu như:
Sự kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng - mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi
mới của Đảng, kiên định các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng,
nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ… [85, tr.56].
Đặc biệt, từ góc nhìn xây dựng Đảng, tác giả nhấn mạnh những thách
thức đang đặt ra đối với việc nâng cao BLCT của cán bộ, đảng viên: Tác động
tiêu cực từ những biến động phức tạp của tình hình thế giới; âm mưu và hoạt
động “diễn biến hòa bình”, kết hợp bạo loạn lật đổ chế độ chính trị nước ta của
các thế lực thù địch; sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên… Từ đó, tác giả đề xuất nhiều giải
pháp đồng bộ nhằm tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng để xây dựng, nâng
cao BLCT của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay: Một là, giáo dục nâng
cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Hai là, tăng
cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục làm sáng tỏ lý luận về


21

CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta; Ba là, tăng cường giáo dục nâng
cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên… Tác giả cho rằng
việc phát huy tính tích cực, tự giác rèn luyện BLCT của cán bộ, đảng viên là
phương thức đặc biệt quan trọng để mỗi cán bộ, đảng viên tự mình nâng cao
phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực công tác đáp ứng được yêu

cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế. Vì vậy, các tổ chức
đảng phải đẩy mạnh công tác giáo dục thường xuyên cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên; đồng thời, chú trọng xây dựng môi trường thuận lợi gắn với các
phong trào hoạt động thực tiễn để cán bộ, đảng viên tích cực, tự giác tu
dưỡng, rèn luyện, nâng cao BLCT.
Lê Hồng Vương (2019), Xây dựng bản lĩnh chính trị của lực lượng
Cảnh vệ Công an nhân dân Việt Nam [127], Luận án Tiến sĩ Triết học. Tác
giả đã đưa ra quan niệm, cấu trúc BLCT của lực lượng Cảnh vệ Công an
nhân dân Việt Nam; luận giải thực chất việc xây dựng BLCT của lực lượng
Cảnh vệ Công an nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở phân tích, làm rõ thực
trạng xây dựng BLCT của lực lượng Cảnh vệ Công an nhân dân Việt Nam,
tác giả đã đề xuất các giải pháp cơ bản để xây dựng BLCT của lực lượng
Cảnh vệ Công an nhân dân Việt Nam. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh
giải pháp “Phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, chỉ huy các cấp
và đổi mới công tác giáo dục, rèn luyện trong xây dựng BLCT của lực
lượng Cảnh vệ Công an nhân dân Việt Nam” [127, tr.117]; “Phát huy tác
động tích cực của điều kiện kinh tế - xã hội và xây dựng môi trường chính
trị để xây dựng bản lĩnh chính trị của lực lượng Cảnh vệ Công an nhân dân
Việt Nam” [127, tr.135].
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về phẩm chất chính trị, bản lĩnh chính trị
và nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, quân nhân trong quân đội
Nguyễn Đình Tu (1996), Nâng cao bản lĩnh chính trị của sĩ quan trẻ
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [123], Luận án tiến sĩ khoa học quân
sự. Tác giả cho rằng sĩ quan trẻ là những người không quá 30 tuổi, có quân


22

hàm từ thiếu úy đến đại úy, có chức vụ quản lý, chỉ huy cấp phân đội hoặc
tương đương. Luận án khẳng định rõ, cả lý luận và thực tiễn công tác,

chiến đấu của bộ đội trong những năm qua đã cho thấy, việc nâng cao
BLCT của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam là một nhiệm vụ tất
yếu, khách quan, cấp bách và lâu dài. Thực hiện có hiệu quả vấn đề này sẽ
là cơ sở giúp quân đội đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu, nhiệm vụ trong giai
đoạn cách mạng mới. Để nâng cao BLCT của sĩ quan trẻ Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay, cần phải tiến hành đồng thời hệ thống các biện
pháp đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, ở mọi thời gian, mọi địa điểm trong
xã hội và trong từng đơn vị quân đội. Trên cơ sở đó, luận án kiến nghị một
số biện pháp chủ yếu như: Gia tăng hàm lượng trí tuệ trong BLCT của sĩ
quan trẻ Quân đội ta hiện nay; tăng cường rèn luyện năng lực, kinh nghiệm
hoạt động chính trị thực tiễn cho đội ngũ sĩ quan trẻ…
Phạm Thanh Ngân (1999), Bản lĩnh chính trị Bộ đội Cụ Hồ trong thời
kỳ mới [83]. Công trình tuyển chọn những bài viết, bài phát biểu của đồng
chí Phạm Thanh Ngân, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị, Quân đội nhân dân Việt Nam. Nội dung cuốn sách đã luận giải khá
sâu sắc, toàn diện về BLCT đối với cán bộ, đảng viên trong quân đội nói
chung. Theo tác giả, tình hình mới hiện nay đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên
trong quân đội phải nâng cao BLCT, năng lực trí tuệ để xử lý đúng đắn các
vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn. Tác giả nhấn mạnh, lập trường, BLCT
phải được bồi dưỡng, nâng cao trên cơ sở khoa học [83, tr.10] và phải được
biểu hiện ở cán bộ, đảng viên thông qua phẩm chất, năng lực, kết quả thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên
trong quân đội cần nhạy bén, sắc sảo đấu tranh với các luận điệu phản động,
thù địch; góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (2000), Xây dựng bản
lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng cho cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ
quân đội làm kinh tế [104]. Cuốn sách nêu rõ, xây dựng BLCT, phẩm chất
cách mạng cho cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ trong các doanh nghiệp



23

quân đội là một yêu cầu tất yếu khách quan xuất phát từ kinh nghiệm thực
tiễn, thực trạng và những dự báo về tình hình, nhiệm vụ lao động sản xuất
của quân đội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Trên cơ sở những luận cứ khoa học về phạm trù BLCT, phẩm chất
cách mạng và những hiểu hiện cụ thể của các vấn đề này trong thực tiễn
hoạt động làm kinh tế của quân đội, tác giả tiến hành khảo sát thực tiễn và
nghiên cứu đánh giá thực trạng BLCT, phẩm chất cách mạng của cán bộ,
công nhân viên trong các doanh nghiệp quân đội; đồng thời, dự báo những
tác động khách quan trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Từ đó, tác giả đề xuất và phân tích những giải pháp chủ yếu để
xây dựng BLCT, phẩm chất cách mạng cho cán bộ, công nhân viên, chiến
sĩ quân đội làm kinh tế. Trong đó, hai giải pháp quan trọng hàng đầu được
xác định đó là “Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh ở các doanh
nghiệp quân đội” [104, tr.177] và “Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị,
lãnh đạo tư tưởng, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn và năng lực
quản lý kinh tế, giáo dục truyền thống, pháp luật và kỷ luật quân đội trong
các doanh nghiệp quân đội” [104, tr.188].
Nguyễn Mạnh Hưởng (2011), Xây dựng quân đội về chính trị trong
tình hình mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh [59]. Nội dung cuốn sách chỉ rõ, tư
tưởng xây dựng quân đội về chính trị là một nội dung đặc biệt quan trọng
trong di sản tư tưởng quân sự, tư tưởng về quân đội cách mạng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Tác giả đã trình bày một cách có hệ thống và luận giải sâu sắc
những nội dung cơ bản trong tư tưởng xây dựng quân đội về chính trị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở phân tích những tác động của tình hình
mới, tác giả cuốn sách tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản của việc vận
dụng tư tưởng xây dựng quân đội về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới; đồng thời phê phán một số quan điểm sai trái,

thù địch xung quanh vấn đề xây dựng quân đội về chính trị. Tác giả cho
rằng: Trước yêu cầu xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn hiện nay,


24

chúng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ quân đội có số lượng phù hợp,
chất lượng cao và cơ cấu hợp lý, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Cán bộ quân đội phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích
của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, không
dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong
sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với
chiến sĩ [59, tr.209-210].
Nguyễn Đăng Tuyên (2019), Phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan
kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [124]. Cuốn
sách đã làm rõ vị trí, vai trò, ưu điểm, hạn chế về phẩm chất chính trị của sĩ quan
kỹ thuật cấp phân đội. Theo tác giả, “một số sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội thiếu
tích cực trong rèn luyện; còn tư tưởng bình quân chủ nghĩa... thiếu tự giác học
tập, rèn luyện... vi phạm kỷ luật quan hệ quân dân, tham gia vào các tệ nạn xã
hội dẫn đến phải xử lý kỷ luật” [124, tr.70]. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải
pháp phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội; trong đó
nhấn mạnh cần xây dựng và phát huy vai trò của môi trường văn hóa chính trị ở
phân đội; nâng cao ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện phẩm chất chính trị của sĩ
quan kỹ thuật cấp phân đội hiện nay.
1.2.3. Những công trình khoa học nghiên cứu về
phẩm chất chính trị, bản lĩnh chính trị, đạo đức, năng
lực của đội ngũ giảng viên, giảng viên trẻ ở các nhà
trường thuộc lực lượng vũ trang

Lê Huy Bình (2010), Xây dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ giảng
viên ở Học viện Chính trị hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh [12], Đề tài
khoa học cấp Học viện. Nội dung đề tài khẳng định, để đáp ứng yêu cầu xây
dựng quân đội về chính trị, tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị quyết 86
của Đảng ủy Quân sự Trung ương về công tác GD-ĐT trong tình hình mới,


25

những năm qua, Học viện Chính trị đã chủ động, tích cực trong việc thực
hiện chuẩn hóa, kiện toàn và phát triển đội ngũ nhà giáo, quan tâm bồi
dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ giảng viên và các lực lượng sư phạm.
Nhìn chung, đội ngũ giảng viên đã phát huy tốt vai trò trách nhiệm và là lực
lượng chủ chốt trong nghiên cứu KHXH&NV quân sự; đồng thời, đội ngũ
giảng viên cũng là những tấm gương sáng về ý chí phấn đấu, tu dưỡng rèn
luyện về phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống cho các thế hệ học viên noi
theo. Tuy nhiên, công tác xây dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ giảng
viên ở Học viện Chính trị còn có mặt thiếu chiều sâu, chưa được tiến hành
thường xuyên, tích cực… Xuất phát từ việc phân tích, đánh giá thực trạng
nói trên, các tác giả đã xác định mục tiêu bồi dưỡng đạo đức cách mạng của
đội ngũ giảng viên ở Học viện Chính trị hiện nay là “Bồi dưỡng cho đội ngũ
giảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng,
với sự nghiệp cách mạng, thương yêu, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp, một
lòng hiếu nghĩa với nhân dân” [12, tr.65]; “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng
phải hướng tới xây dựng cho đội ngũ giảng viên đức cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư; bồi dưỡng lòng tự hào, tôn vinh nghề nghiệp sư phạm, nâng
cao quyết tâm, trách nhiệm, tinh thần tận tụy với nghề nghiệp, chống mọi
biểu hiện trung bình chủ nghĩa” [12, tr.65].
Lương Thanh Hân (2011), Phát triển bản lĩnh chính trị và tri thức khoa
học của giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn ở các trường sĩ quan Quân đội

nhân dân Việt Nam hiện nay [56], Luận án Tiến sĩ Triết học. Trên cơ sở góc độ
tiếp cận của khoa học triết học, tác giả luận án đã làm rõ mối quan hệ và vai trò
quan trọng của BLCT, tri thức khoa học đối với GVT KHXH&NV ở các trường
sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Sau khi phân tích rõ thực trạng,
rút ra một số kinh nghiệm, tác giả đã đưa ra ba giải pháp cơ bản để phát triển
BLCT và tri thức khoa học của GVT KHXH&NV ở các trường sĩ quan Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Một yêu cầu quan trọng mà luận án đặt ra đó
là “Giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn cần tự tu dưỡng, rèn luyện kết


26

hợp giữa nâng cao đạo đức cách mạng, đạo đức nhà giáo với phẩm chất chính
trị và trình độ tri thức khoa học” [56, tr.168] để từ đó tự hoàn thiện phẩm chất,
năng lực của bản thân.
Nguyễn Văn Sơn (2015), Biện pháp bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trẻ
các môn khoa học xã hội và nhân văn ở nhà trường quân đội [97]. Bài báo đã
làm rõ những nét đặc thù, khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của
đội ngũ GVT ở nhà trường quân đội nói chung, GVT các môn KHXH&NV
nói riêng. Theo tác giả, bồi dưỡng GVT các môn KHXH&NV đáp ứng mục
tiêu, yêu cầu đào tạo trong tình hình mới là nhiệm vụ hết sức quan trọng của
các nhà trường quân đội. Dựa trên hướng tiếp cận này, tác giả đã trình bày
bốn biện pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng đội ngũ GVT các môn KHXH&NV ở
nhà trường quân đội; trong đó, đặc biệt nhấn mạnh việc phải “thường xuyên
giáo dục, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị, thế giới quan khoa học, phẩm
chất đạo đức, lối sống cho giảng viên trẻ” [97, tr.60].
Nguyễn Văn Giới (2016), Xây dựng đội ngũ nhà giáo trong các nhà
trường quân đội theo tinh thần Đại hội XII của Đảng [55]. Bài viết khẳng
định: Quán triệt tinh thần Đại hội XII của Đảng về nội dung “Đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục đào tạo”, “Phát triển nguồn nhân lực”… đang đặt ra

cho các nhà trường quân đội phải tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả nhiệm
vụ xây dựng đội ngũ nhà giáo, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng GD-ĐT
trong quân đội hiện nay. Trên cơ sở đánh giá: Đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu, Văn kiện Đại hội
XII của Đảng đã xác định phải: “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục” [55, tr.14]. Thực hiện chủ trương đó gắn vào việc xây dựng đội ngũ
nhà giáo trong các nhà trường quân đội, theo tác giả, vấn đề quan trọng hiện
nay là cần “Nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng đội ngũ nhà giáo trong
các nhà trường quân đội về phẩm chất nhân cách và trình độ chuyên môn, tay
nghề sư phạm” [55, tr.15]; chú trọng hoàn thiện hệ thống chuẩn mực trong mô
hình nhân cách người giảng viên, giáo viên ở từng học viện, nhà trường…


×