Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật tại tỉnh hưng yên trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.82 KB, 59 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong những năm vừa qua, thực hiện chủ trương xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN nhà nước ta đã chú trọng việc xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, nhiều văn bản pháp luật được ra đời nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tuy nhiên để hệ thống pháp
luật đó phát huy được vai trò điều chỉnh của mình thì đòi hỏi nhà nước cần
phải tiến hành nhiều biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật một cách dồng bộ.
Hiện nay ở nước ta, ý thức pháp luật và nếp sống làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật của nhân dân, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa
còn rất hạn chế, tình trạng vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết pháp luật còn
khá phổ biến.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do công tác tuyên
truyền, giáo dục, phổ biến nâng cao kiến thức pháp luật còn chưa thực sự
được coi trọng, ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý của nhân dân còn thấp, chưa
đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam - Nhà nước thực sự sủa dân, do dân, vì dân. Do vậy, đổi mới, nâng cao
chất lượng công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật đang là một
yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra hết sức cấp bách và mang tính chiến lược ở nước
ta hiện nay.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu để có một cơ sở lý luận vững vàng,
có kế hoạch, chương trình, nội dung, hình thức và biện pháp phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật cho phù hợp với từng đối tượng là mối quan tâm
của Đảng và Nhà nước ta.
Công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong thời gian qua
đã đạt được những kết quả tốt, góp phần vào yêu cầu quản lý Nhà nước bằng
pháp luật, từng bước nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân đảm
bảo mục tiêu: “Mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Tuy nhiên trong thực tế công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp
luật còn bị coi nhẹ, chưa được đặt ngang tầm với yêu cầu quản lý xã hội, quản
lý Nhà nước bằng pháp luật. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay hệ thống pháp


luật ngày càng được hoàn chỉnh, nhưng việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục
pháp luật chưa đáp ứng với yêu cầu mới, vì vậy cần phải có giải pháp hữu
hiệu để nâng cao hiệu quả quản lý công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục
pháp luật và coi đây là nhiệm vụ quan trọng.
Trên thực tế cả nước nói chung cũng như ở Hưng Yên nói riêng, tình
trạng vi phạm pháp luật còn khá phổ biến, vì nhiều lý do như: Do cố tình vi
phạm vì lợi ích kinh tế, vì tham nhũng, vì chống đối pháp luật, song có một
nguyên nhân quan trọng là công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật
của nhà nước ta còn nhiều bất cập và hạn chế.
Với những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu vấn đề “Nâng cao chất lượng
công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật tại tỉnh Hưng Yên
trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị -
Hành chính của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
- Mục đích: Đề tài nghiên cứu tìm hiểu vai trò của phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao việc thực hiện pháp luật của các
chủ thể ở tỉnh Hưng Yên.
- Nhiệm vụ của đề tài: Đề tài có các nhiệm vụ:
+ Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật .
+ Đánh giá thực trạng phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật của tỉnh
Hưng Yên trong những năm gần đây.
+ Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật ở tỉnh Hưng Yên thời gian tới.
3. Giới hạn của đề tài:
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một vấn đề rộng và cũng
được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, trong khuôn khổ luận văn, đề tài
giới hạn việc nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hưng yên, thời gian nghiên cứu từ
2005 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu :

Đề tài sử dụng phương pháp Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
Triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ CHí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt nam, đề tài cũng sử dụng một số phương pháp khác như: Phân tích,
so sánh, khảo sát, xã hội học…
5. Kết cấu đề tài:
Ngoài Lời mở đầu, kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương;
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phổ biến, tuyên truyền, giáo dục
pháp luật.
Chương 2: Thực trạng công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp
luật ở Hưng yên thời gian qua.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác phổ
biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở Hưng yên thời gian tới.
Chương 1
MỘT Sè VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUYÊN TRUYỀN,
PHæ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.1. KHÁI NIỆM PHæ BIẾN, TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
Để quản lý xã hội một cách hiệu quả, nhà nước có thể sử dụng nhiều loại
công cụ, phương tiện khác nhau, trong đó pháp luật được coi là phương tiện
để quản lý xã hội hiệu quả nhất. Để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, đảm
bảo tốt vai trò là công cụ quản lý xã hội của mình thì cần phải phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật đến tất cả các đối tượng trong xã hội, trên cơ sở
hiểu biết pháp luật, các chủ thể mới có thể tham gia tích cực vào các quan hệ
xã hội, đảm bảo thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh.
1.1.1. Định nghĩa.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động phức tạp bao
gồm nhiều công việc khác nhau song đều nhằm mục đích trang bị kiến thức
pháp luật cho các đối tượng quản lý của nhà nước.
Phổ biến: Là hoạt động thông báo một cách rộng rãi để cho đông đảo
người biết, bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua hình thức nào đó.
Tuyên truyền: Là hoạt động giải thích để thuyết phục mọi người tán

thành, ủng hộ, làm theo, ví dụ tuyên truyền đường lối chính sách, các bộ luật
mới, sửa đổi bổ sung một số điều; tuyên truyền cho cuộc bầu cử; tuyên truyền
về chính sách dân số…
Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là sự chuyển tải những thông tin
về pháp luật tới toàn xã hội nhằm mục đích nâng cao ý thức pháp luật, văn hóa
pháp luật của các đối tượng được giáo dục. Trên cơ sở đó đảm bảo cho mọi hoạt
động của công dân dù ở bất kỳ cương vị nào đều phù hợp với pháp luật.
Hiện nay, trong khoa học và thực tế, xung quanh khái niệm phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật có nhiều quan điểm khác nhau.
- Có quan niệm cho rằng: Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là
một bộ phận của giáo dục chính trị, tưởng, đạo đức. Theo quan niệm này thì
chỉ cần tiến hành giáo dục chính trị và giáo dục đạo đức tức là đã phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật và có thể đạt được sự tôn trọng pháp luật của
công dân.
- Có quan niệm lại đồng nghĩa phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật
với tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật. Theo quan niệm này thì nếu
thực hiện tốt các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật cũng có nghĩa là
đã làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Nếu quan niệm
như vậy, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật chỉ đơn giản là các hoạt
động tuyên truyền, phổ biến pháp luật chứ chưa phải là quá trình phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
- Quan niệm thứ ba cho rằng: Pháp luật là quy tắc sử sự có tính bắt buộc
chung nên mọi người phải có nghĩa vụ tuân thủ do vậy không cần đề ra vấn đề
phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Đây là quan điểm rất cực đoan
vì nó xem nhẹ những giá trị đích thực của phổ biến, tuyên truyền, giáo
dục pháp luật.
Mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, song theo chúng tôi, có thể
hiểu phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp của hoạt động
giáo dục, theo đó, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là hoạt động
định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối

tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và
hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình
thức, phương tiện, phương pháp đặc thù.
Tóm lại, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là hoạt động có định
hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể tác dụng lên đối tượng nhằm hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với sự đòi hỏi của
hệ thống pháp luật hiện hành một cách rộng rãi để mọi người tán thành, ủng
hộ làm theo; để đông đảo người biết, hiểu pháp luật bằng nhiều phương pháp
khác nhau có hệ thống từ đó tác động vào các chủ thể dần dần để họ hiểu, làm
theo luật.
1.1.2. Đặc điểm của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
- Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là hoạt động nhằm hình
thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp
luật, làm cho công dân tự giác tuân thủ, có ý thức pháp luật cao, góp phần
tăng cường hiệu quả của pháp luật.
- Đó là sự tác động có định hướng với nội dung cơ bản là truyền tải tri
thức về Nhà nước và pháp luật, trong đó pháp luật thực định, hiện hành của
Nhà nước là bộ phận cơ bản quan trọng nhất.
- So với các hoạt động khác, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật
là quá trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu dài hơn chứ không phải là sự
tác động một lần. Vì thế phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật trở thành
hoạt động thường xuyên trong các gia đình, nhà trường, các tập thể lao động,
các tổ chức Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội.
1.1.3. Mục đích của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Mục đích của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một trong
những yếu tố tạo nên cấu trúc bên trong của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục
pháp luật. Việc xác định đúng đắn các mục đích xã hội cần đạt được trong quá
trình phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật đóng vai trò quan trọng trong
lý luận và thực tiễn phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Bởi vì nội
dung, hình thức, phương pháp của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật

phần lớn phụ thuộc vào việc xác định những mục đích xã hội nào được đặt ra
trước quá trình phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Ngoài ra, dựa vào mục đích của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp
luật còn cho phép tìm kiếm các chỉ số đánh giá, xác định hiệu quả của phổ
biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật có 3 mục đích cụ thể sau đây:
- Mục đích nhận thức: Nhằm cung cấp những kiến thức pháp luật cơ bản
và từng bước nâng cao tri thức pháp luật cho công dân.
Tri thức pháp luật là tiền đề hình thành nhận thức đúng đắn và khả năng
lựa chọn hành vi hợp pháp, tích cực. Nhờ có tri thức pháp luật con người có
thể điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với các chuẩn mực pháp lý.
- Mục đích cảm xúc: Nhằm hình thành niềm tin và tình cảm vào pháp luật.
Con người có tri thức pháp luật nhưng nếu không có lòng tin và tình cảm
đúng đắn đối với pháp luật thì hành vi của con người dễ lệch khỏi các chuẩn
mực của pháp luật. Sở dĩ con người có hành vi vi phạm pháp luật là để mưu
cầu lợi ích cá nhân, hành vi của người đó đã vượt ra khỏi chuẩn mực pháp
luật. Như vậy, tri thức pháp luật là quan trọng nhưng con người cần phải có
thêm lòng tin và tình cảm vào pháp luật thì mới tạo khả năng điều chỉnh hành
vi của mình cho phù hợp với pháp luật. Lòng tin, tình cảm đối với pháp luật
càng vững chắc thì hành vi càng hợp pháp.
- Mục đích hành vi: Nhằm hình thành động cơ và hành động hợp pháp,
tích cực.
Động cơ và hành vi hợp pháp của con người được hình thành bởi nhiều
yếu tố tác động, trong đó phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là yếu tố
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Tóm lại, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật có 3 mục đích cụ thể,
giữa chúng có mối quan hệ lẫn nhau, phối hợp, bổ sung cho nhau tạo thành hệ
thống thống nhất để cùng đạt được cái đích cuối cùng của quá trình phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức pháp luật ở công dân.
1.1.4. Vai trò của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật

- Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật có ý nghĩa trực tiếp trong
việc nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Bởi vì những tri
thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp chiếm vị trí
hàng dầu trong việc sử dụng quyền lực Nhà nước, tăng cường pháp chế, phát
huy dân chủ, thực hiện các quyền và tự do của mỗi con người. Phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội
trong môi trường quản lý nhà nước, khắc phục sự bảo thủ của tư tưởng ích kỷ,
cục bộ, kích thích hành vi tự giác và xây dựng trong môi trường quản lý nhà
nước. Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng hình thành
các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Làm xuất hiện, củng cố những phẩm chất tích cực của ý thức và hành vi
quản lý, tạo khả năng không tiếp nhận những hiện tượng tiêu cực chống đối
pháp luật. Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật có ý nghĩa trong việc
hình thành và nâng cao trình độ văn hóa pháp lý cho mỗi công dân. Vì vậy
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã xác định: “Cần coi trọng công tác giáo
dục, truyền tải, giải thích pháp luật. Đưa việc phổ biến, tuyên truyền, giáo
dục pháp luật vào hệ thống trường học của Đảng, Nhà nước (kể cả trường
phổ thông, đại học) của các đoàn thể nhân dân, các cán bộ quản lý các cấp
từ Trung ương đến các đơn vị cơ sở phải có kiến thức quản lý hành chính,
hiểu biết pháp luật. Cần phải được sử dụng nhiều hình thức và phương pháp
phong phú để giáo dục nâng cao ý thức pháp luật làm tư vấn pháp lý cho
nhân dân”
1
. Để thấy rõ vai trò của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật,
cần nghiên cứu các mối quan hệ giữa phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp
luật với giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức, giáo dục nâng cao trình
độ dân trí, nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý về quyền công dân,
về xây dựng Nhà nước pháp quyền và với quá trình dân chủ hóa ở nước ta.
Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một dạng trong hệ thống
giáo dục chung có mối quan hệ với tất cả các dạng khác nhau trong cùng một

hệ thống.
-Trước hết phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật tác động tương hỗ
một cách sâu sắc với giáo dục chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà Lênin
nhấn mạnh: “Luật là biện pháp chính trị, là chính trị”
2. .
Ý chí của nhân dân
1
. Văn kiện ĐH lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội 1987. Tr.21
2

Lênin toàn tập, tập 30. Tr.99
trong việc củng cố và bảo vệ những lợi ích căn bản của mình thường được thể
chế thành các quy tắc của luật. Hiện nay, đường lối chính trị của Đảng ta, chỗ
dựa của đổi mới nhiều mặt về chính trị, kinh tế, xã hội đã đi vào tất cả các mặt
hoạt động hợp pháp, chỉ đạo nội dung của pháp luật.
- Giữa pháp luật và đạo đức có sự đan xen về nội dung. Các quan niệm
về công bằng, thiện ác, nhân đạo, tự do, lương tâm, danh dự…không có sự
đối lập giữa pháp luật và đạo đức. Pháp luật là chỗ dựa, là cơ sở của việc hình
thành đạo đức mới. Các nguyên tắc căn bản của đạo đức mới được thể chế
hóa thành các quy phạm pháp luật. Do đó, pháp luật bảo vệ và phát triển đạo
đức, bảo vệ tính công bằng, chủ nghĩa nhân đạo, tự do, lòng tin và lương tâm
con người. Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một yếu tố rất quan
trọng nhằm nâng cao trình độ dân trí. Trình độ dân trí là sự hiểu biết của nhân
dân ở mức độ nào đó về các mặt của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế,
văn hóa, khoa học pháp luật…Trình độ dân trí là thước đo sự tiến bộ, văn
minh hay lạc hậu của một cộng đồng, dân tộc, quốc gia, đồng thời ảnh hưởng
không nhỏ tới ý thức tuân thủ pháp luật của mỗi cá nhân.
1.1.5. Phương pháp, phương tiện, nội dung phổ biến, tuyên truyền, giáo
dục pháp luật.
- Phương pháp phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật .

Phương pháp phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là cách thức,
biện pháp tổ chức quá trình phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Phương pháp phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật cũng rất đa dạng,
phong phú, từ thực tiễn phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho thấy
các phương pháp phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật có thể được chia
ra làm hai nhóm cơ bản sau:
- Các phương pháp áp dụng trong một hoạt động phổ biến, tuyên truyền,
giáo dục pháp luật cụ thể như phương pháp giải thích, phương pháp thuyết
phục, phương pháp thực hành trực quan, ngoại khóa, phương pháp kết luận và
thực tiễn.
- Các phương pháp tổ chức phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật
như mô hình về phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật; các phương pháp
phối hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai công tác phổ biến, tuyên truyền,
giáo dục pháp luật ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương nhằm thực hiện
các chương trình, kế hoạch phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật dài hạn,
ngắn hạn, tổng thể theo mang theo chuyên đề trong từng giai đoạn cụ thể. Các
biện pháp phát huy ưu thế và khắc phục những điểm hạn chế trong mỗi loại
hình thức được sử dụng khi phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
- Phương tiện phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Phương tiện phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là các công cụ,
kênh truyền tải nội dung phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật từ chủ thể
đến đối tượng để đạt được mục tiêu phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp
luật. Trên thực tế các phương tiện truyền tải nội dung phổ biến, tuyên truyền,
giáo dục pháp luật chủ yếu hiện nay là các phương tiện thông tin đại chúng
(đài truyền hình chiếm đến 90%, đài phát thanh, báo chí, sách, ấn phẩm văn
hoá, mạng Internet). Qua học tập chính trị và quản lý, qua thảo luận lấy ý kiến
các dự án luật, qua hệ thống các nhà trường; qua hoạt động thực tiễn của các
cơ quan thi hành pháp luật (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự, thi
hành án dân sự) qua hoạt động của các tổ chức đoàn thể, các hoạt động trợ
giúp pháp lý, tư vấn pháp luật

- Nội dung tuyên phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Nội dung phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật rất rộng lớn bao
gồm các thông tin về pháp luật, các kiến thức cơ bản về pháp luật và các quy
phạm pháp luật, các thông tin về thực hiện pháp luật, tôn trọng, vi phạm pháp
luật, điều tra xử lý vi phạm pháp luật, về thời sự pháp lý, kết quả thành tựu
trong nghiên cứu khoa học pháp lý.
Điều cần chú ý khi nghiên cứu nội dung phổ biến, tuyên truyền, giáo dục
pháp luật là không phải tất cả các nội dung đều được truyền tải đến tất cả các
đối tượng giáo dục, mà tuỳ thuộc vào mục đích phổ biến, tuyên truyền, giáo
dục của đối tượng.
Mục đích này được xác định cụ thể tùy theo những đặc trưng của đối
tượng, nhu cầu pháp luật của họ mà được xác định những phạm vi nhất định,
những thông tin pháp luật phù hợp với liều lượng khác nhau.
Dựa vào đối tượng và mục đích, người ta chia nội dung phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật thành các dạng chính sau đây:
Nội dung tối thiểu của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật cần phổ
cập, gồm một số kiến thức cơ bản về hệ thống pháp luật và tổ chức bộ máy
nhà nước, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, một số thủ tục, trình tự
pháp lý để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện các quyền và
nghĩa vụ công dân, giúp cho mỗi công dân ý thức được vị trí của mình trong
quan hệ với Nhà nước và với công dân khác, biết mình có những quyền vào
nghĩa vụ gì, làm gì để bảo vệ các quyền đó.
Nội dung phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật theo yêu cầu của
từng ngành nghề, bao gồm hệ thống những khái niệm cơ bản mà khoa học
pháp lý thường gặp trong thực tiễn; các quy định pháp luật thực định liên
quan đến các lĩnh vực hoạt động của đối tượng, các quyền và nghĩa vụ cụ thể
của công dân trong lĩnh vực hoạt động của đối tượng; các quyền và nghĩa vụ
cụ thể của công dân trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động nghề nghiệp,
quá trình tố tụng và vị trí của các chủ thể tố tụng, để thực hiện bảo vệ các
quyền, nghĩa vụ đó.

Nội dung phổ biến, tuyền truyền, giáo dục chuyên ngành cho những
người hành nghề pháp luật. Đây là cấp độ cao nhất của phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật. Bởi vì, những người hiểu biết và thái độ, tình cảm
cũng như những kỹ năng sử dụng pháp luật của các luật gia phải là chuẩn mực
của ý thức và hành vi tuân thủ pháp luật. Sự hiểu biết (tri thức pháp luật) của
đối tượng này bao gồm cả những quan điểm, những học thuyết về Nhà nước
và pháp luật trong lịch sử và hiện tại, hiểu biết tương đối toàn diện về hệ
thống pháp luật trong nước và quốc tế trong lĩnh vực chuyên sâu, kỹ năng của
đối tượng này không chỉ dừng lại ở việc tuân thủ mà chủ yếu là vận dụng
chính xác, linh hoạt pháp luật và các quan hệ pháp lý vào việc xử lý, giải
quyết các tranh chấp, vi phạm pháp luật. Một kỹ năng quan trọng và đặc thù
của đối tượng này là kiến thức lập pháp, lập quy, khả năng tham gia vào việc
hoàn thiện pháp luật.
1.1.6. Chủ thể, đối tượng của, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
- Chủ thể của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Chủ thể của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật được hiểu là tất
cả những người đã tham gia thực hiện các mục tiêu phổ biến, tuyên truyền,
giáo dục pháp luật. Căn cứ vào mức độ liên quan giữa mục tiêu phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật và chức năng, nhiệm vụ do luật định của chủ
thể phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật được phân ra làm hai loại: Chủ
thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp.
- Chủ thể chuyên nghiệp là những người mà nhiệm vụ chủ yếu trực tiếp là
thực hiện các mục tiêu phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật (bao gồm:
Các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật ở các hệ thống trường Đảng,
cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội ở các cấp; các phóng viên, Biên tập viên
các Báo, Đài Phát thanh, Đài Truyền hình phụ trách chuyên mục pháp luật và
các nội dung liên quan đến pháp luật; các giảng viên dạy pháp luật ở các
trường; các cán bộ, chuyên gia làm công tác nghiên cứu và chỉ đạo phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật tại các cơ quan nhà nước, tổ chức nghề
nghiệp pháp luật, các tổ chức xã hội) là lực lượng nòng cốt của các chủ thể

phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
- Chủ thể không chuyên nghiệp là những người làm nhiều việc với mục đích
khác nhau nhưng trong đó có nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu pháp luật (bao
gồm: Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; các cán bộ thuộc các
cơ quan hành pháp, tư pháp; các cán bộ thành viên của các tổ chức chính trị,
xã hội, Đảng, đoàn thể; các luật gia đang hành nghề dịch vụ tư vấn pháp luật,
luật sư bào chữa; cán bộ nhân viên ở các ngành kinh tế, quản lý nhà nước,
cuối cùng là trách nhiệm công dân - cá nhân bằng sự gương mẫu trong ý thức
và trách nhiệm thi hành pháp luật trong đời sống đã có tác dụng ảnh hưởng
tích cực đến những hiểu biết nhận thức của công dân khác.
- Đối tượng của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Là những cá nhân công dân, những nhóm cộng đồng xã hội cụ thể tiếp
nhận tác động của các hoạt động phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật
(với khách thể phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là ý thức và những
thói quen nếp sống ứng xử hợp pháp của công dân, của các nhóm cộng đồng
và toàn xã hội thể hiện trình độ nhất định của nền văn hóa pháp lý). Trong
điều kiện hiện nay, các đối tượng của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp
luật cần quan tâm là cán bộ, viên chức Nhà nước, các nhà kinh doanh thuộc
các thành phần kinh tế, thanh thiếu niên, những người sống trong điều kiện
khó khăn được nhà nước đặc biệt quan tâm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp để bảo đảm cho sự bình đẳng trước pháp luật của họ (phụ nữ, người dân
tộc ít người, trẻ em…) đối tượng của phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp
luật còn được phân định với các cấp học trong hệ thống giáo dục và đào tạo
như: học sinh cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông, học sinh các trường
Cao đẳng, dạy nghề, sinh viên các trường Đại học, học viên các trường của
Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội.
1.2. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, TUYÊN
TRUYỂN, GIÁO DỤC PHÁP
1.2.1. Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật luôn luôn giữ vị trí

quan trọng trong đời sống xã hội. Trong quá trình phát triển của từng giai
đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi công tác này là một nhiệm vụ
trọng yếu, là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
là biện pháp chủ yếu để xây dựng ý thức pháp luật và tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là ý nguyện của Đảng, Nhà nước
và của toàn dân. Một trong những biện pháp để thực hiện mục tiêu chiến lược
này là chúng ta phải xây dựng cho được một nhà nước mà mọi công dân,
trước hết là cán bộ, công chức nhà nước phải sống và làm việc theo Hiến pháp
và Pháp luật. Để đạt được điều đó Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến phổ
biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, đặc biệt là khi đất nước bước sang thời
kỳ đổi mới. Công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật luôn được coi
là một trong những nhiệm vụ quan trọng, một khâu không thể thiếu trong quá
trình xây dựng và thực hiện pháp luật.
Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng có Chỉ thị 300/CT ngày 22/10/1987 về một
số công tác trước mắt nhằm tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật,
trong đó nhấn mạnh “phải làm cho khẩu hiệu sống và làm việc theo pháp luật
biến thành hành động, thành nếp sống hàng ngày của mọi người, mọi cơ
quan, mọi tổ chức”.
Nghị quyết Đại hội VII của Đảng ta cũng chỉ ra rằng: “thực chất của
việc đổi mới là thực hiện dân chủ XHCN mà điều kiện quan trọng để phát huy
dân chủ là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật”
1
. Đến Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định “Triển khai mạnh mẽ
công tác tuyên truyền và phổ biến, giáo dục pháp luật, huy động lực lượng
của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại
chúng tham gia vào các cuộc vận động, thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt
động thường xuyên, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ

quan nhà nước và trong xã hội”
2
. Thực hiện tinh thần nghị quyết nêu trên của
Đảng, ngày 07/8/1998, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị số 02/1998/CT-
TTg về việc tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật
trong giai đoạn hiện nay đã chỉ thị “Mỗi cán bộ, viên chức nhà nước phải xác
định rõ việc học tập, nghiên cứu để hiểu biết pháp luật, thi hành nghiêm
1
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII. Nxb HN 1999 tr. 90 - 91
2
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII. Nxb HN 1996 - tr 241
chỉnh pháp luật là trách nhiệm của mình. Cán bộ, viên chức Nhà nước phải
là những người gương mẫu trong việc giữ gìn kỷ cương phép nước và góp
phần phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân”. Để triển
khai thực hiện chỉ thị nói trên cùng ngày 07/8/1998 Thủ tướng chính phủ đã
ban hành Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg, ban hành kế hoạch triển khai công
tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật giai đoạn từ 1998 - 2003 và
thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp
luật cấp Trung ương do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Chủ tịch. Sau 5 năm triển
khai thực hiện, kết quả đánh giá chung cho thấy đã có bước chuyển đáng kể
trong công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật trên phạm vi cả
nước. Tuy nhiên ở một số địa phương nhận thức và vai trò lãnh đạo của cấo
ủy Đảng đối với lĩnh vực công tác này chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
và những đòi hỏi khách quan. Trên cơ sở phát huy các kết quả đạt được sau 5
năm thực hiện Chỉ thị số 02 và Quyết định 03 nêu trên, ngày 17/3/2003 Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg về phê duyệt
chương trình phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật từ năm 2003 - 2007.
Ngày 19/12/2003 Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành chỉ thị số 32/CT-
TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ,

nhân dân.
Thực hiện tinh thần chỉ đạo của Ban bí thư, ngày 16/12/2004 Thủ tướng
tiếp tục ban hành Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg phê duyệt chương trình
hành động Quốc gia về phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật và nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ
năm 2005 đến năm 2010. Sau đó, ngày 28/01/2006 Thủ tướng chính phủ ban
hành quyết định số 28/2006/QĐ-TTg phê duyệt các đề án chi tiết thuộc
chương trình hành động quốc gia phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật
và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường,
thị trấn từ năm 2005 - 2010.
Như vậy với việc ban hành chỉ thị 32/CT-TW; Quyết định 212/2004/QĐ-
TTg một lần nữa khẳng định rõ quan điểm, quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta
về tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong thời
kỳ đổi mới của đất nước.
1.3.2 . Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX xác định: “Nhà nước ta là công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, là nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ
chấp hành Hiến pháp và pháp luật”.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để đảm bảo xây dựng nhà nước ta là nhà
nước của dân, do dân và vì dân hoạt động có hiệu lực, hiệu quả thì một trong
những yêu cầu cần thiết là phải tiếp tục cải cách, kiện toàn bộ máy nhà nước,
trong đó chú trọng các cơ quan tư pháp.
Xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật,
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý nghiêm minh, kịp

thời các vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là mục tiêu
quan trọng của nhà nước ta hiện nay. Để đạt được mục tiêu đó cần phải tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của xã hội
và nhà nước, có chuẩn mực để đánh giá đúng sai. Tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa cần huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, nhất là sự tham
gia của nhân dân, của các đoàn thể tổ chức xã hội, của các phương tiện thông
tin đại chúng trong cuộc đấu tranh bảo vệ pháp luật. Đồng thời phải tích cực
triển khai các hoạt động phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong cán
bộ và nhân dân, mở rộng các hoạt động tư vấn và trợ giúp pháp lý trong xã
hội, chấn chỉnh các tổ chức và các hoạt động bổ trợ tư pháp như luật sư, công
chứng, hộ tịch, giám định tư pháp. Đây là đòi hỏi cấp bách trong nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa .
1.2.3. Xuất phát từ yêu cầu tăng cường trật tự kỷ cương, ngăn ngừa vi
phạm pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý.
Đối với một con người, ý thức pháp luật phải được hình thành ngay từ
ban đầu. Do vậy phải phổ cập những kiến thức pháp lý cơ bản cho mọi đối
tượng xã hội, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm hình thành tình
cảm và quan niệm đúng đắn sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc làm cho mọi công
dân hiểu biết pháp luật, quan tâm đến pháp luật, xây dựng động cơ đúng đắn
trong thực hiện pháp luật và tích cực đấu tranh chống các hành vi vi phạm
pháp luật. Thực tế ở Việt nam hiện nay, mặc dù nhà nước đã ban hành một hệ
thống pháp luật khá hoàn chỉnh, cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật cũng
được triển khai đồng bộ, nhiều chế tài nghiêm minh được áp dung, tuy
nhiên tình trạng vi phạm pháp luật và tội phạm vẫn không có chiều hướng
giảm, thạm chí nhiều tội phạm đặc biệt nghiêm trọng vẫn diễn ra. Thực
trạng đó phản ánh ý thức pháp luật trong nhân dân đang bộc lộ những hạn
chế nhất định.
Trong thời đại hiện nay, khi đánh giá về văn minh của một quốc gia
không chỉ coi trọng sự nghiệp của cơ sở vật chất mà còn xem xét văn minh về
mặt xã hội, trong đó được thể hiện bằng văn minh về trình độ xây dựng pháp

luật và trình độ dân trí pháp lý, văn hoá pháp lý của công dân.
Văn hoá pháp lý trong mỗi người được thể hiện bởi kiến thức pháp luật
và sự tự đánh giá về hành vi xử sự của bản thân đối với pháp luật. Cũng như
các hình thức văn hoá khác, văn hoá pháp lý chịu sự tác động và tác động lên
quan hệ xã hội thông qua ba chức năng cơ bản: thông tin, tâm lý, tổ chức. Do
vậy yêu cầu cần đặt ra trong giai đoạn hiện nay là đề cao dân trí pháp lý và
văn hoá pháp lý cần phải có sự giáo dục định hướng, có tổ chức trong hệ
thống Đảng và nhà nước cũng như các tổ chức xã hội .
1.2.4. Xuất phát từ yêu cầu mở rộng nền dân chủ ở nước ta hiện nay.
Dân chủ là khát vọng của loài người. Một nhà nước dân chủ thực sự là
Nhà nước thông qua những quy phạm pháp luật chứa đựng những đòi hỏi dân
chủ, cơ chế thực hiện dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động, đáp ứng ngày
càng tốt hơn yêu cầu dân chủ của con người. Nói dân chủ là nói tới mối quan
hệ qua lại giữa quyền và nghĩa vụ, quyền gắn với lợi ích và nghĩa vụ đồng
thời là trách nhiệm giữa công dân với nhà nước, giữa các công dân với nhau,
giữa các nhóm với cộng đồng và xã hội, những mối quan hệ đó được thông
qua hệ thống pháp luật. Để đảm bảo cho những quan hệ đó thật sự dân chủ thì
phải có vai trò của pháp luật để hướng dẫn nhận thức, điều chỉnh và kiểm soát
hành vi. Pháp luật là công cụ, là phương tiện chủ yếu và quan trọng nhất của
nhà nước để thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Dân chủ phải đi đôi với
pháp luật, pháp luật là yếu tố cấu thành dân chủ, là cấu trúc nội tại, bên trong
của dân chủ. Không có pháp luật thì không thể có dân chủ, không thể có sự
đảm bảo dân chủ trong thực tế. Mặt khác, pháp luật nếu được xây dựng và
thực hiện phù hợp với những chuẩn mực dân chủ thì pháp luật đó phải là nền
pháp luật công khai, tiến bộ, hướng vào việc thực hiện và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân.
Vai trò, tác dụng của pháp luật là ở chỗ, nó là giới hạn của dân chủ, là
hành lang vận động của dân chủ. Pháp luật là nhân tố đảm bảo cho dân chủ
vận động trong quỹ đạo đúng đắn, lành mạnh, không chệch hướng. Bình đẳng
của mọi công dân trước pháp luật, đó là nguyên tắc của dân chủ, không có bất

cứ một ngoại lệ nào. Theo đó, một hành động phù hợp với dân chủ phải là
hành động đúng luật, không vượt quá hạn mà pháp luật cho phép, càng mở
rộng, phát huy dân chủ, công khai càng phải tăng cường và tôn trọng pháp
luật. Nếu dân chủ và tự do ở bên ngoài pháp luật, con người mặc sức làm theo
ý muốn của mình dẫn đến hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật thì sẽ gây tổn
hại tới quyền và lợi ích của người khác và của cộng đồng xã hội. Do vậy,
pháp luật là công cụ hiệu lực nhất cho quản lý nhà nước, là nhân tố đảm bảo
cho xã hội được duy trì trong trật tự, một tất yếu cho sự tồn tại và phát triển
cộng đồng của cá nhân và xã hội .
Thực chất của tinh thần dân chủ là tinh thần trọng pháp, thực hành dân
chủ, do đó phải tăng cường pháp chế, tôn trọng pháp luật, làm cho pháp luật
đi vào cuộc sống và hành vi của con người trở thành thói quen tuân thủ pháp
luật. Pháp chế đảm bảo cho dân chủ được từng bước thực hiện, những vi
phạm dân chủ phải bị phê phán, lên án và trừng trị theo pháp luật, những hành
vi phản dân chủ sẽ được phòng ngừa và khắc phục.
Nội dung của nền dân chủ được thể chế, quy định trong pháp luật, là
phương thức thực hiện nền dân chủ đó. Ngược lại, khi nội dung dân chủ thể
hiện trong pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, chính xác tạo môi trường
thuận lợi cho quản lý xã hội.
Xây dựng nhà nước dân chủ là một trong những tư tưởng lớn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói rằng điểm xuyên suốt nhất quán trong tư tưởng
lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh là thiết lập thực tế ở nước ta
một nhà nước dân chủ. Trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà
nước ta luôn có những chủ trương, giải pháp phù hợp nhằm mở rộng, phát
huy dân chủ trong bộ máy Nhà nước và hệ thống chính trị. Điều này đã được
thể hiện rất rõ trong quá trình đổi mới ở nước ta. Đại hội lần thứ VIII của
Đảng đã nhận định một trong những thành tựu sau 10 năm đổi mới là quyền
làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, chính trị, tư tưởng, văn
hoá được phát huy. Đến đại hội IX của Đảng đã bổ sung thêm “dân chủ” vào
mục tiêu chung là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội X của Đảng
khẳng định “dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
công cuộc đổi mới”.
Điều cốt lõi trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là xây dựng
chế độ xã hội mà trong đó nhân dân là người chủ thực sự tham gia vào quản
lý nhà nước, quản lý xã hội. Tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân, những
quyền lực này phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp và pháp luật. Muốn phát
huy dân chủ phải bảo đảm thực hiện dân chủ từ cơ sở. Trung thành và vận
dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước dân chủ, ngày
18/12/1998 Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã ra chỉ thị số 30/CT-TW
về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Bộ Chính trị khẳng định dân chủ vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Do vậy vấn đề phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật gắn với quá trình dân chủ hoá đóng vai trò
hết sức quan trọng trong đời sống hiện nay. Xây dựng Nhà nước dân chủ của
dân, do dân, vì dân là nền tảng, kim chỉ nam cho việc xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là một tất yếu khách
quan trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay.
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, TUYÊN TRUYỀN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở HƯNG YÊN THỜI GIAN QUA
2.1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TỈNH HƯNG YÊN
2.1.1. Điều kiện tự nhiên:
Tỉnh Hưng Yên nằm ở trung tâm khu vực Đồng bằng Sông Hồng,
với vị trí thuận lợi để phát triển kinh tế, phía tây bắc tiếp giáp với thành phố
Hà Nội, phía Đông Bắc giáp với tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, phía Đông Nam
tiếp giáp với tỉnh Thái Bình và Hà Nam. Toàn tỉnh có diện tích 923,09 km
2
,
dân số 1.134.294 người, trong đó 60% dân số sống ở vùng nông thôn.
Do điều kiện địa lý tự nhiên Hưng Yên là tỉnh đồng bằng thuần

nông. Khoáng sản và tài nguyên nghèo nàn, là tỉnh duy nhất trên cả nước
không có rừng và biển, đó là thiệt thòi lớn đối với Hưng yên, do vậy tỉnh
cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, Hưng Yên có hệ thống giao thông thuận lợi gồm cả
đường bộ, đường sắt, đường sông. Hệ thống đường bộ đến tất cả các
vùng kinh tế trọng điểm và các xã trong tỉnh. Hưng Yên có hệ thống
mạng lưới điện quốc gia về tất cả các xã trong tỉnh, hệ thống thông tin
liên lạc đã được hiện đại hoá thuận tiện cho liên lạc trong nước và quốc
tế, đảm bảo đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Về lực lượng lao động: Nguồn lao động toàn tỉnh là 590.985
người; trong đó lao động nam là 289.582; nữ là 301.403, lao động ở phi
nông nghiệp là 171.842; lao động ở nông nghiệp là 419.143.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội:
Kinh tế của tỉnh duy trì được tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức khá cao.
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Năm 2010 tổng sản phẩm (GDP) của tỉnh
tăng 12,11%, giá trị sản xuất nông nghiệp và thủy sản tăng 5,78%, giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 14,65%, giá trị các ngành dịch vụ tăng 15,54%, cơ cấu
nông nghiệp 25%, công nghiệp và xây dựng 44%, dịch vụ 31%; Thu nhập
bình quân đầu người đạt 20 triệu đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt 530 triệu
USD, thu ngân sách nhà nước đạt 300 tỷ đồng, tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về
y tế 90%, tỷ lệ làng, khu phố văn hóa đạt 72%. Tổng diện tích gieo trồng nông
nghiệp đạt hơn 110.816 ha, trong đó diện tích cấy lúa đạt 81.941 ha, diện tích
gieo trồng cây vụ đông ước đạt 14. 942 ha, năng xuất lúa đạt 62,7 tạ/ ha. Giá
trị sản xuất công nghiệp ước đạt 19.855 tỷ đồng, tăng 14,65% đạt 100% kế
hoạch. Thu hút 108 dự án đầu tư với tổng số vốn đạt 8000 tỷ đồng 60 triệu
USD. Năm 2011 tỉnh Hưng Yên phấn đấu tổng sản phẩm (GDP) tăng 13,5%.
- Để thực hiện mục tiêu trên Đảng bộ chính quyền tỉnh thực hiện tốt
nghị quyết trung ương VII khóa X, đưa nghhị quyết XI vào cuộc sống. Thực
hiện tốt nghị quyết đảng bộ tỉnh lần thứ XVII về nông nghiệp, nông thôn;
hoàn thành xây dựng nông thôn mới ở 152 xã phường, thị trấn. Tổ chức làm

điểm 20 xã phường, thị trấn giai đoạn 2010-2013, từ đó nhân rộng ra toàn tỉnh.
- Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 5 (khoá IX), tỉnh Hưng Yên đã ban
hành và hướng dẫn đồng bộ hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư
phát triển kinh tế của tỉnh, đảm bảo khả năng giải quyết vướng mắc về mặt
bằng, về vốn sản xuất và sự hỗ trợ trong đầu tư phát triển.
- Thương mại dịch vụ, tài chính tín dụng đã phát triển khá nhanh với
nhiều thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống cơ sở vật chất của tư nhân, của
nhà nước đã được quan tâm đầu tư nâng cấp (hoàn thành và đưa vào sử dụng
nhiều công trình công cộng), phục vụ nhân dân.
- Về sản xuất nông nghiệp đã tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả trên một
đơn vị canh tác. Giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp theo hướng nâng cao
chất lượng và hiệu quả trên một đơn vị canh tác, hình thành được khu sản
xuất hàng hóa công nghệ cao
- Công tác quản lý đô thị có nhiều cố gắng, hoàn thành mục tiêu việc
điều chỉnh quy hoạch chung tỉnh, thành phố đến năm 2020, quy hoạch chi tiết
xong 3/4 xã, phường, thị trấn. Công tác quản lý trật tự, chỉnh trang đô thị,
khai thông hệ thống thoát nước, vệ sinh môi trường được duy trì và thực hiện
tốt. Đường phố theo tiêu chí “sáng - xanh - sạch - đẹp” được duy trì và ngày
nâng cao chất lượng sử dụng và mỹ quan đô thị. Công tác xây dựng và quản
lý đô thị đạt được kết quả khá tích cực, tỉnh thành phố ngày càng phát triển
theo hướng tăng dần chất lượng phục vụ công cộng theo tiêu chuẩn đô thị.
+ Quan hệ sản xuất mới tiếp tục được củng cố và phát triển. Tỉnh có 56
HTX chuyển đổi và thành lập mới theo luật HTX, một số hợp tác xã sau khi
chuyển đổi phát huy tác dụng tốt.
- Trên địa bàn tỉnh hiện nay có 2 346 công ty, doanh nghiệp và 12 786
hộ kinh doanh cá thể. Đây là khu vực kinh tế hoạt động khá năng động, sản
xuất kinh doanh đều hiệu quả, thích ứng với cơ chế kinh tế hội nhập quốc tế,
tham gia giải quyết tốt vấn đề xã hội, lao động việc làm, xoá đói giảm nghèo
và đóng góp nguồn thu ngân sách lớn cho tỉnh.

- Sự nghiệp giáo dục đào tạo: Tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 03-
NQ/TU về nâng cao chất lượng giáo dục các bậc học mầm non, tiểu học,
trung học cơ sở giai đoạn 2006 - 2010; xây dựng kế hoạch xã hội hoá các
hoạt động giáo dục tỉnh đến năm 2010. Hiện nay hệ thống các trường dân lập,
tư thục được hình thành và hoạt động hiệu quả khá tốt.
- Chỉ đạo các chi, đảng bộ khối trường học, Sở, phòng giáo dục - đào
tạo t hoàn thành chương trình năm học 2010-2010: Tiếp tục thực hiện tốt cuộc
vận động “hai không” với 4 nội dung do Bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo
phát động kết hợp cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Kết quả kỳ thi tốt nghiệp các trường năm 2005-2010, tỷ lệ tốt
nghiệp bực tiểu học đạt tỷ lệ 100%, THCS 97,32%, GDTX 96,34%,
THPT97,4% , số học sinh đỗ ĐH-CĐ 8.720 cháu. Trình độ giáo viên đạt
chuẩn ở trường mầm non 74,86%, trong đó đạt trên chuẩn là 3,98%,THPT
đạt chuẩn 96,36% trong đó đạt trên chuẩn 59,58%, THCS đạt chuẩn trở lên
94,8% trong đó đạt trên chuẩn 25,94%.
- Công tác văn hoá - thông tin tuyên truyền, phong trào xây dựng gia
đình văn hoá, đường phố văn hoá, thể dục thể thao phát triển mạnh ở cơ sở và
phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
- Triển khai phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá.
Hàng năm có từ 87 đến 90% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá, có
trên 78% số thôn, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hoá, có trên 85% số cơ quan,
đơn vị đạt tiêu chuẩn cơ quan văn hoá.
- Công tác TDTT đã xây dựng được phong trào phát triển sâu rộng, thu
hút đông đảo mọi từng lớp tham gia. Hiện nay có 67,6% dân số thường xuyên
tham gia tập luyện TDTT.
- Duy trì việc phủ sóng phát thanh truyền hình tỉnh đạt 100% số hộ trên
địa bàn dân cư và 100% xã, phường có trạm truyền thanh.
- Quản lý các hoạt động tôn giáo trên địa bàn có nhiều tiến bộ, kết quả
tốt, hoạt động tôn giáo cơ bản là đúng pháp luật, không để tình trạng phức tạp
trong hoạt động tôn giáo xảy ra trên địa bàn.

- Lao động việc làm: Hàng năm các cơ quan chức năng đã giải quyết
việc làm cho trên 10 000 lao động (chỉ tiêu đại hội đề ra hàng năm tỉnh giải
quyết việc làm cho 10 000 đến 13 000 lao động). Từ năm 2005 đến nay xuất
khẩu lao động dược 3 676 trường hợp. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2008
đạt 64,8% trong đó công nhân kỹ thuật có bằng nghề đạt 21%.
- Không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí cũ năm 2010 giảm
xuống còn 2,25% (đạt chỉ tiêu mỗi năm giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 0,5-1%).
- Thu nhập bình quân của dân cư tỉnh đến năm 2010 (theo giá hiện
hành) đạt 20 triệu đồng/người /năm (chỉ tiêu đề ra phấn đấu đến năm 2016 là
25 triệu đồng).
- Công tác từ thiện nhân đạo, thực hiện chính sách xã hội đối với người
có công, các gia đình chính sách và những gia đình gặp rủi ro được quan tâm
kịp thời. Hàng năm ngân sách tỉnh, huyện và các xã phường, thị trấn và nhân
dân đóng góp được trên 1 tỷ đồng số tiền trên để thăm hỏi, động viên, tặng
quà, xây nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách.
- Công tác tư tưởng đã triển khai quán triệt và tổng kết các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng nghiêm túc và bảo đảm chất lượng. Trong học tập và quán
triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng đạt 100%, số lượng đảng viên và 90% quần
chúng và các hội viên, đoàn viên tham gia học tập đóng trên địa bàn tỉnh. Qua
học tập quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.
- Thường xuyên chỉ đạo, kiện toàn cơ cấu và cấp uỷ đảng yếu kém, các
cấp uỷ đảng đã xây dựng và thực hiện tốt quy chế làm việc. Hoàn thành
phương án A2 quy hoạch cán bộ lãnh đạo, đào tạo, bố trí cán bộ, luân chuyển
cán bộ trẻ trong quy hoạch từ các sở, ban nghành của tỉnh làm cán bộ chủ
chốt quy hoạch đề bạt cán bộ trưởng, phó phòng để tạo nguồn cán bộ cho lâu
dài. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 5 (khóa IX) về củng cố hệ thống chính
trị ở cơ sở, từng bước có kết quả tốt theo hướng nâng cao chất lượng và năng
lực của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã phường thị trấn.
- Việc đánh giá, phân loại, xếp loại tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng

viên làm chặt chẽ, chính xác đúng điều lệ. Từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XVII, (năm 2005 đến nay) đã kết nạp được 5 712 đảng viên mới chiếm
67% chỉ tiêu toàn khoá đề ra. đã đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt các sở ban
nghành, đoàn thể 289 cán bộ và luân chuyển 24 cán bộ thuộc diện Ban
thường vụ quản lý.
- Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được thực hiện theo đúng
chương trình kế hoạch đề ra, gắn công tác kiểm tra, giám sát với việc xây
dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng. Công tác xây dựng Đảng theo tinh thần
Nghị quyết TW 6 (lần 2) được đưa vào nề nếp, thường xuyên, những vấn đề
nổi cộm đều được cấp ủy chỉ đạo giải quyết dứt điểm. Năm năm đã kiểm tra,
kết luận và thi hành kỷ luật 19 đảng viên. Thành lập 134 đoàn kiểm tra cấp uỷ
cấp dưới về thực hành tiết kiệm chống tham nhũng lãng phí và kiểm tra theo
điều 30 Điều lệ Đảng.

×