Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

chính sách nhà nước về xuất khẩu gạo của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.37 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GẠO CỦA VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2012-2016


MỤC LỤC

2


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH

3


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ vì vậy
hoạt động ngoại thương chiếm vị trí quan trọng và có tính quyết định đến toàn bộ quá
trình phát triển kinh tế xã hội và quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Tuy nhiên bản thân hoạt động ngoại thương ở nước ta hiện nay còn chứa đựng
nhiều điểm bất cập như tình trạng xuất khẩu thiếu định hướng, gian lận thương mại,
trốn thuế..... Vì vậy để nâng cao hiệu qủa của hoạt động ngoại thương góp phần phát
triển kinh tế thì cần phải có vai trò quản lý của nhà nước. Vai trò quản lý của nhà nước
ở đây phải mang tính định hướng và khuyến khích hoạt động ngoại thương.
Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo là một ngành kinh tế nông nghiệp rất quan trọng
ở Việt Nam. Tính đến hết năm 2017 gạo của Việt Nam đã xuất khẩu tới 132 thị trường
trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, chúng ta đã mở rộng xuất khẩu gạo
tới các thị trường mới. Tuy nhiên, thị trường gạo thế giới và khu vực tiếp tục cạnh
tranh gay gắt, có nhiều diễn biến bất lợi cho xuất khẩu gạo của Việt nam, các doanh


nghiệp xuất khẩu gạo cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, nhất là liên
quan đến hàng rào kỹ thật, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm do các thị trường đặt ra.
Mặt khác, việc phụ thuộc xuất khẩu vào một thị trường có thể đem đến nhiều rủi ro
cho doanh nghiệp và nông dân, nếu chẳng may thị trường nay ngưng nhập khẩu.
Thêm vào đó, hiện còn tồn tại nhiều vấn đề về chính sách xuất khẩu gạo,
phương thức điều hành xuất khẩu và quan hệ thị trường giữa các tác nhân tham gia
ngành hàng lúa gạo. Trong qúa trình thực hiện vai trò quản lý ở nhiều lúc, nhiều nơi
nhà nước chưa thực sự thực hiện được vai trò định hướng và khuyến khích cho hoạt
động xuất khẩu gạo tức là hoạt động quản lý của nhà nước đối với hoạt động ngoại
thương còn chứa đựng nhiều bất cập vì vậy em xin chọn đề tài “Một số vấn đề về
chính sách xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2012-2016” làm
đề tài tiểu luận của mình.

4


CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG
NGOẠI THƯƠNG
1.1. Khái quát về hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu
thông hàng hoá của một qúa trình tái sản xuất hàng hoá mở rộng, mục đích liên kết sản
xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa
các cá thể riêng biệt , mà là có sự tham ra của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều
hành của nhà nước. Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm
vi quốc tế. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn
vào hoạt động xuất khẩu. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được,
cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải
biến cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân. Xuất
khẩu hàng hoá có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia
như sau:

- Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất, phục
vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu
để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để thực hiện đường
lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì trước mắt chúng ta phải nhập khẩu một
số lượng lớn máy móc thiết bị hiện đại từ bên ngoài, nhằm trang bị cho nền sản xuất.
Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: đi vay, viện trợ, đầu tư
nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước
ngoài thì có hạn, hơn nước các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy,
nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu chính là xuất khẩu. Thực tế là nước nào gia
tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó sẽ tăng theo. Ngược lại, nếu nhập khẩu lớn
hơn xuất khẩu làm cho thâm hụt cán cân thương mại quá lớn có thể ảnh hưởng xấu tới
nền kinh tế quốc dân.
- Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản
xuất phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh
mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, sự dịch chuyển
cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển cuả
kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Ngày nay, đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản
xuất. Điều đó có tác động tích cực tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
kinh tế phát triển. Sự tác động này được thể hiện ở các khía cạnh như:
5


+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
Chẳng hạn, khi phát triển xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản
xuất nguyên vật liệu như bông, đay… Sự phát triển ngành chế biến thực phẩm (gạo, cà
phê…) có thể kéo theo các ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó.
+ Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo điều kiện cho sản

xuất phát triển và ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu
vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu có vai trò tích cực đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh doanh trên phạm vi thị trường thế giới,
một thị trường mà sự cạnh tranh ngày càng diễn ra ác liệt. Sự tồn tại và phát triển hàng
hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng và giá cả; do đó phụ thuộc rất lớn vào
công nghệ sản xuất ra chúng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất trong nước
phải luôn luôn đổi mới, luôn cải tiến thiết bị, máy móc nhằm nâng cao chất lượng sản
xuất. Mặt khác, xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh quyết liệt còn đòi hỏi
doanh nghiệp phải nâng cao tay nghề, trình độ của người lao động.
- Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết thông
qua hoạt động xuất khẩu, với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao
động vào làm việc và có thu nhập tương đối cao, tăng giá trị ngày công lao động, tăng
thu nhập Quốc dân.
Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, phục
vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho người lao động.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của
nước ta.
Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cương sự hợp tác Quốc tế với các nước,
nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên trường Quốc tế…, xuất khẩu và công nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải Quốc tế… Mặt
khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng tâ kể trên lại tạo tiền đề cho việc
mở rộng xuất khẩu.
Có thể nói xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh
tế, mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia
vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như: vốn, lao động, kỹ
thuật, nguồn tiêu thụ, thị trường… Đối với nước ta, hướng mạnh về xuất khẩu là một

6


trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế đối ngoại, được coi là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước, qua
đó có thể tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn sự
chênh lệch về trình độ phát triển của Việt nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy
bất cứ một nước nào và trong một thời kỳ nào đẩy mạnh xuất khẩu thì nền kinh tế
nước đó trong thời gian này có tốc độ phát triển cao.
1.2. Vai trò của Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu
1.2.1. Nhà nước quan tâm đến vấn đề xúc tiến thương mại
Cục xúc tiến thương mại (VIETRADE) thuộc Bộ Thương mại đã được thành
lập theo Quyết định số 78/2000/QĐ-TTg ngày 6-7-2000 với nhiệm vụ chính là “nghiên
cứu, dự báo và định hướng về thị trường trong nước và ngoài nước để phát triển thị
trường và sản phẩm thương mại; thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại, hỗ
trợ doanh nghiệp công tác xúc tiến thương mại”.
Xúc tiến thương mại là một trong những giải pháp rất hiệu quả trong việc hỗ trợ
doanh nghiệp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sang các nước trong thời gian
qua. Cụ thể năm 2017, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt xấp xỉ 410 tỷ USD. Đạt
được kết quả này là do nỗ lực cả phía Nhà nước và phía các doanh nghiệp đã có chiến
lược tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá các sản phẩm Việt Nam và gây dựng
được lòng tin của người tiêu dùng thế giới nhằm đẩy mạnh xuất khẩu.
Trong các giải pháp xúc tiến thương mại, Nhà nước đã xây dựng và triển khai
hệ thống thông tin thương mại quốc gia để cung cấp thông tin thương mại quốc gia để
cung cấp thông tin thương mại phục vụ quản lý Nhà nước và cung cấp thông tin thị
trường cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu cũng như thông tin sản
phẩm đến khách hàng. Các cơ quan thông tin của Chính phủ, của các Bộ, ngành và các
tổ chức xúc tiến thương mại của Chính phủ (Cục xúc tiến thương mại - VIETRADE,
Trung tâm thông tin thương mại - VTIC, Viện nghiên cứu thương mại – VIT…) là
những địa chỉ cung cấp thông tin quan trọng cho doanh nghiệp về thông tin kinh tế vĩ

mô, các thông tin mang tính hướng dẫn và tư vấn cho doanh nghiệp về thị trường, các
thông tin mang tính tác nghiệp về đàm phán ký kết hợp đồng… Nhà nước còn tiến
hành các hoạt động nghiên cứu, khảo sát thị trường, tổ chức tham gia hội chợ, triển
lãm thương mại ở trong và ngoài nước nhằm đem đến những cơ hội mới cho doanh
nghiệp trong tìm kiếm bạn hàng và đối tác làm ăn mới trên thị trường thế giới.
1.2.2. Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường xuất
khẩu
Bằng cách nỗ lực ngoại giao và chính sách kinh tế đối ngoại đúng đắn nhằm mở
đường và kích thích quan hệ buôn bán của các doanh nghiệp, chính phủ Việt Nam đã
7


ký trên 70 hiệp định thương mại và hiện nay có quan hệ buôn bán với trên 110 nước
trong đó đáng chú ý là hiệp định hợp tác kinh tế với Liên minh Châu Âu, tham gia vào
AFTA, bình thường hoá quan hệ buôn bán Việt Nam - Trung Quốc, ký hiệp định
thương mại với Mỹ, gia nhập APEC, WTO, ký các hiệp định thương mại tự do với các
Chính phủ và các khu vực trên thế giới.
Trong điều kiện ấy, Chính phủ đã tăng cường các cơ quan đại diện thương mại
của Việt Nam ở nước ngoài và thực hiện cải tổ hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước
ngoài nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan này. Từ đó, xây dựng cơ chế
phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài với các cơ quan
chức năng trong nước trong các hoạt động Marketing xuất khẩu hàng hóa và mở rộng
thị trường.
Ngoài ra Chính phủ còn khuyến khích việc thành lập các hiệp hội ngành nghề
sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam để hỗ trợ hoạt động cho các doanh nghiệp. Các
hiệp hội này đã làm chức năng cung cấp thông tin thị trường, giới thiệu khách hàng và
các hoạt động xúc tiến thương mại. Đồng thời, Nhà nước còn khuyến khích các doanh
nghiệp lớn thành lập phòng hoặc bộ phận xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu hoạt
động chuyên về lĩnh vực này.
1.2.3. Nhà nước tạo dựng, hoàn thiện môi trường kinh doanh

Để đảm bảo thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và xúc tiến xuất
khẩu của doanh nghiệp, Nhà nước đã tạo dựng và hoàn thiện môi trường kinh doanh
theo cơ chế thị trường. Đồng thời, trong các chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã
hội 10 năm và các kế hoạch 5 năm đều có các mục tiêu, định hướng và các biện pháp
xuất khẩu. Chẳng hạn, mục tiêu của chính sách thương mại thời kỳ 2011-2020 là cải
thiện hiệu quả phân bổ nguồn lực, tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu, góp phần ổn định
kinh tế vĩ mô.
Để kích thích xuất khẩu, Nhà nước đã có nhiều biện pháp thiết thực, cụ thể như:
hỗ trợ lãi suất, phê duyệt gói hỗ trợ xúc tiến thương mại, chỉ đạo ngành hải quan đơn
giản hóa các thủ tục xuất khẩu… Các chính sách này có hiệu quả thúc đẩy xuất khẩu
của nước ta trong thời gian qua. Nhà nước đã cân nhắc rất kỹ để không vi phạm các
nguyên tắc của WTO.
Nhìn chung, hoạt động hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu trong
thời gian qua diễn ra rất đa dạng và có ý nghĩa thiết thực với hoạt động xuất khẩu.
Bước đầu đã hình thành được mạng lưới xúc tiến xuất khẩu quốc gia và việc cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu ngày càng hiệu quả hơn. Việc Chính phủ tích cực đàm
phán và ký kết các hiệp định thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp thâm nhập thị trường thế giới cũng như cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh
8


nghiệp. Điều đáng chú ý là việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
thương mại, phát triển xuất khẩu dựa trên cơ sở khoa học của nghiên cứu thị trường và
sự vận dụng những quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị trường đã khắc phục
dần nhứng yếu kém của cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây.

9


CHƯƠNG II: MỘT SỐ CHÍNH SACH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT KHẨU

GẠO GIAI ĐOẠN 2013-2017
2.1. Tổng quan tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa gạo
Việt Nam là quốc gia có nhiều lợi thế trong việc trồng lúa nên lúa gạo được
xem là cây trồng và mùa vụ chính quan trọng nhất ở Việt Nam. Hiện nay, sản xuất lúa
gạo ở các tỉnh miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ chủ yếu nhằm
mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực tại chỗ, trong khi Đồng Bằng Sông Cửu Long có
vai trò chủ yếu trong việc sản xuất lúa gạo hàng hóa để bảo đảm an ninh lương thực cả
nước, duy trì giá lương thực phù hợp cho người tiêu dùng ở các khu vực đô thị, và
tham gia xuất khẩu. Vì vậy sản xuất lúa gạo ở Đồng Bằng Sông Cửu Long được thị
trường hóa cao độ và diễn biến giá lúa nội địa vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long gắn
chặt với giá gạo xuất khẩu và giá gạo trên thị trường thế giới.
Bảng 2.1. Diện tích và sản lượng lúa gạo của Việt Nam
Năm

2012

2013

2014

2015

2016

Tổng diện tích (nghìn ha)

7761,2

7902,5


7816,2

7830,6

7790,4

Tổng sản lượng (nghìn tấn)

43.737,
8

44.039,
1

44.974,
6

45.205,5

43.609,5

Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn chung sản lượng và diện tích trồng lúa ở Việt Nam có xu hướng tăng dân
nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng các giống mới, phân bón thủy lợi
và kỹ thuật canh tác lúa. Tuy nhiên bước sang năm 2014-2016 tổng diện tích trồng lúa
đã giảm nhiều bởi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông đã quyết định chuyển đổi
những diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các loại lương thực khác như ngô,
sắn vì đây cũng là những loại lương thực quan trọng ở Việt Nam, đứng sau lúa gạo.
Mặc dù diện tích trồng lúa có giảm nhưng sản lượng lúa gạo trong năm 2014-2015 vẫn
tăng là do áp dụng kỹ thuật thâm canh tốt. Sang đến năm 2016 diện tích trồng lúa giảm

40,2 nghìn ha, thêm vào đó nước ta gặp nhiều thiên tai dẫn đến sản lượng lúa giảm
mạnh, giảm 1.596 nghìn tấn so với năm 2015.
Thị trường gạo thế giới của Việt Nam có đặc trưng có khối lượng gạo giao dịch
rất ít so với tổng sản lượng gạo thế giới (chỉ ở mức trên dưới 5%); dễ bị tác động do
yếu tố thời tiết khí hậu; giá cả thay đổi nhanh chóng vì khả năng thay đổi cung rất
nhanh do chu kỳ sản xuất lúa rất ngắn; một số nước nhập khẩu chính như Indonesia và
Philippines đóng vai trò định giá. Các nước nhập khẩu gạo luôn có xu hướng thúc đẩy
sản xuất nội địa, trợ giá đầu vào và áp dụng thuế xuất hoặc hạn ngạch để giảm nhập
khẩu. Ngoài ra, vì tính chất giao dịch theo mùa, các nước nhập khẩu có xu hướng tập
10


trung nhập khẩu vào thời điểm thu hoạch rộ của các nước xuất khẩu để mua với giá
thấp. Trong rất nhiều năm qua, xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam luôn đứng vị trí thứ 2
sau Thái Lan về sản lượng gạo xuất khẩu. Tuy nhiên, từ năm 2013 Việt Nam đã tụt
xuống những vị trí thấp hơn. Tình hình xuất khẩu gạo cụ thể của Việt Nam trong giai
đoạn 2012-2016 được thể hiện cụ thể qua biểu đồ dưới đây:

Hình 2.1. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2012-2016
Nguồn: Tổng cục thống kê
Qua số liệu thống kê, có thể thấy kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam từ
năm 2012 đến năm 2016 có nhiều biến động. Tuy nhiên có thể thấy kim ngạch xuất
khẩu gạo của nước ta có xu hướng giảm do phải chịu sự cạnh tranh từ các thị trường
xuất khẩu khác trên thế giới. Năm 2013, xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm mạnh,
giảm 751 triệu USD so với năm 2012; đến năm 2014, giá trị xuất khẩu gạo có tăng
nhưng không đáng kể, chỉ ở mức 12,5 triệu USD. Tuy nhiên, số liệu xuất khẩu trong
hai năm 2015 và 2016 đều giảm cả về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Về chủng loại và chất lượng gạo, theo báo cáo của Hiệp hội Lương thực Việt
Nam, hiện có khoảng 50 loại giá quốc tế cho các chủng loại gạo khác nhau. Hiện nay
gạo thơm có giá cao nhất, đây là loại gạo phổ biến được xuất khẩu bởi Thái Lan và Ấn

Độ, trong khi sản lượng gạo thơm của nước ta hiện còn chưa cao. Tiếp theo là gạo
trắng hạt dài chất lượng cao (5% tấm) rồi đến gạo trắng hạt dài chất lượng thấp (chứa
25% tấm), gạo đồ và gạo tấm. Có thể thấy, phần lớn gạo xuất khẩu nước ta là gạo cấp
trung bình, gạo cao cấp chiếm sản lượng còn chưa cao, chỉ chiếm 21,08%. Chủng loại
gạo ở Việt Nam được thể hiện cụ thể qua hình 2.2:
Hình 2.2: Chủng loại và chất lượng gạo Việt Nam
Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam
Việt Nam chưa xuất khẩu được nhiều những giống có chất lượng gạo thơm
ngon nổi tiếng trong nước như: gạo Nàng thơm Chợ Đào, Nàng Nhen thơm, Huyết
rồng… Gạo thơm Việt Nam đang xuất khẩu hầu hết đều có nguồn gốc nước ngoài, ví
dụ như Jasmine 85, Khaodak mal, DS10… nên việc xây dựng thương hiệu cũng gặp
nhiều khó khăn. Chúng ta chưa xây dựng được thương hiệu cho gạo trắng cũng như
gạo thơm nói riêng cho từng giống như các nước Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan đã có.
Chúng ta chỉ có thương hiệu chung là gạo trắng, hạt dài bao nhiêu phần trăm tấm cho
cả gạo thơm và gạo trắng thường. Chất lượng gạo kém do lẫn tạp nhiều giống khác
nhau, trong đó có những giống chất lượng thấp. Như vậy, để tăng giá trị xuất khẩu gạo,
11


nước ta cần tập trung vào sản xuất các loại gạo có chất lượng cao, gạo thơm nổi tiếng
của Việt Nam, xây dựng được thương hiệu để đạt được giá trị gia tăng cao và có thể
thâm nhập vào các thị trường cao cấp trên thế giới.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các nước Châu Á và Châu Phi.
Kim ngạch xuất khẩu gạo của nước ta sang các thị trường chính trong giai đoạn 20122016 cũng có nhiều biến động.

Hình 2.3. Các thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2016
Nguồn: Tổng cục Hải Quan
Có thể thấy, thị trường Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam, chiếm đến 39% sản lượng gạo xuất khẩu. Tiếp đến là Philippines (chiếm 11%0,
Malaysia (chiếm 9%), Ghana (chiếm 6%), Baladesh (chiếm 5%), Bờ Biển Ngà (chiếm

4%), còn lại là các thị trường khác.
Giá gạo năm 2016 đạt trung bình 449,4 USD/tấn; giá xuất khẩu gạo sang các
nước Đông Nam Á nói chung đạt 490,9 USD/tấn (cao hơn 41,5 USD/tấn so với mức
giá trung bình xuất khẩu gạo của cả nước), giá đối với thị trường Trung Quốc đạt
454,5 USD/tấn (cao hơn 5,1 USD/tấn so với mức giá xuất khẩu trung bình của các thị
trường). Xuất khẩu sang hầu hết các thị trường truyền thống đều bị giảm giá so với
cùng kỳ, nhưng một điểm đáng chú ý là xuất khẩu gạo sang một số thị trường lại đạt
mức giá tăng cao như Australia, Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ghana…

12


2.2. Một số chính sách về xuất khẩu gạo Việt Nam
2.2.1. Chính sách ruộng đất
Về đất đai, Chính phủ có đưa ra Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ban hành ngày
24 tháng 6 năm 2002, trong đó đưa ra chính sách sau: “UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương tạo điều kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ, đúng pháp
luật các quyền sử dụng đất, sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn cổ phần hoặc
liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh xuất khẩu nông sản, chỉ
đạo việc xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch các vùng sản xuất nông sản hàng hóa, chỉ
đạo thực hiện việc dồn điền, đổi thửa ở nơi cần thiết. Các doanh nghiệp chế biến, tiêu
thụ, xuất khẩu nông sản có nhu cầu đất đai để xây dựng nhà máy chế biến hoặc kho
tàng, bến bãi bảo quản và vận chuyển hàng hóa thì được ưu tiên thuê đất. Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trương ương có quy định cụ thể tạo điều kiện thuận lợi
về thủ tục, giá cả để hỗ trợ các doanh nghiệp nhận đất đầu tư”.
Ngoài ra Chính phủ có Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg về chính sách khuyến
khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh
đồng lớn. Quyết định này nhằm khuyến khích liên kết sản xuất gắn với chế biến và
tiêu thụ nông sản, trong đó có mặt hàng gạo thuộc các dự án cánh đồng lớn theo quy
hoạch và được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Theo đó doanh nghiệp được miễn tiền sử

dụng đất hoặc tiền thuê đất khi được nhà nước giao đất; ưu tiên tham gia thực hiện các
hợp đồng xuất khẩu nông sản hoặc chương trình tạm giữ nông sản của Chính phủ; hỗ
trợ một phần kinh phí thực hiện quy hoạch, cải tạo đồng ruộng; hỗ trợ kinh phí tổ chức
đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân sản xuất nông sản theo hợp đồng.
Trong lĩnh vực sản xuất lúa gạo, có thể thấy điểm tạo thuận lợi của chính sách
ruộng đất thời gian qua là đã trực tiếp tạo ra động lực mới trong nông thôn. Chính sách
này đã đi theo hướng chuyển dần ruộng đất từ chỗ được làm chủ bởi các tập thể đến
chỗ được làm chủ bởi hộ nông dân từ chỗ người nông dân chỉ được chú trọng một số
khâu công việc trong quá trình trồng lúa đến chỗ họ được làm chủ toàn bộ quá trình đó
– là chủ việc sử dụng ruộng đất. Tuy nhiên, điểm bất cập là trong quá trình triển khai
luật đất đai vẫn còn nhiều vương mắc, nhiều sự thay đổi trong sử dụng đất đai vẫn còn
nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước.
2.2.2. Chính sách về chuyển giao công nghệ khoa học kỹ thuật tiến bộ
Cũng theo Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg, hàng năm ngân sách nhà nước dành
khoản kinh phí để hỗ trợ các doanh nghiệp và người sản xuất có hợp đồng tiêu thụ
nông sản: áp dụng, phổ cập nhanh các loại giống mới, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới
trong bảo quản, chế biến nông, lâm, thủy sản, đầu tư mới, cải tạo, nâng cấp các cơ sở
sản xuất và nhân giống cây trồng, giống vật nuôi, đa dạng hóa các hình thức tuyên
13


truyền, giáo dục nhằm phổ cập nhanh tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới, thông tin về
thị trường, giá cả đến người sản xuất. Các vùng sản xuất hàng hóa tập trung có hợp
đồng tiêu thụ nông sản được ưu tiên triển khai và hỗ trợ về công tác khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư.
Chính sách này đã tạo ra những thuận lợi về điều kiện chuyển giao công tiến bộ
khoa học kỹ thuật đến nông dân sản xuất lúa gạo: phần lớn các vùng lúa gạo tập trung
và xuất khẩu đều ở đồng bằng, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu được hình
thành cơ bản, trình độ dân trí của nông dân các vùng trồng lúa nói chung khá cao. Khó
khăn cơ bản cho quá trình chuyển giao là khả năng kinh tế của hộ nông dân rất eo hẹp,

địa bàn sản xuất lúa gạo lại trải rộng.
Với đặc điểm của tiến bộ khoa học kỹ thuật ở từng khâu như trên, với điều kiện
thuận lợi và khó khăn cơ bản như vậy, để có thể chuyển nhanh tiến bộ khoa học kỹ
thuật đến hộ nông dân trước hết cần có sự hỗ trợ về tài chính của Nhà Nước. Mức độ
hỗ trợ cho chuyển giao khoa học kỹ thuật đến hộ nông dân có thể khá lớn, song lợi ích
thu được qua sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ còn to lớn gấp bội. Ngoài ra hệ thống
khuyến nông là vô cùng quan trọng, và đặc biệt là đa dạng hóa các kênh thông tin về
tiến bộ khoa học kỹ thuật đến hộ nông dân.
2.2.3. Điều hành hoạt động xuất khẩu gạo
Việc điều hành xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện nay được thực hiện thông qua
hoạt động của Tổ điều hành xuất khẩu gạo của Chính phủ. Nghị định 12/2006/NĐ-CP
ngày 23/01/2006 quy định định hướng điều hành xuất khẩu gạo: “Bộ Thương mại phối
hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các tỉnh có sản
lượng lúa hàng hóa lớn và Hiệp hội Lương thực Việt Nam, điều hành việc xuất khẩu
gạo hàng năm theo nguyên tắc: bảo đảm về an ninh lương thực; tiêu thụ hết lúa hàng
hóa và bảo đảm giá lúa có lợi cho nông dân, đồng thời phù hợp mặt bằng giá cả hàng
hoá trong nước; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các giải pháp xử lý khi các nguyên tắc
này không được bảo đảm hài hoà.”
Để bảo đảm định hướng trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ
quan chịu trách nhiệm về việc dự báo và tính toán khối lượng gạo hàng hóa có thể xuất
khẩu sau khi trừ đi các nhu cầu tiêu dùng trong nước và yêu cầu về dự trữ. Đối với
những hợp đồng xuất khẩu theo thoả thuận của Chính phủ Việt Nam với Chính phủ
nước ngoài (hợp đồng Chính phủ), Bộ Thương mại trao đổi với Hiệp hội Lương thực
Việt Nam để Hiệp hội thống nhất việc tổ chức giao dịch, ký kết hợp đồng và giao hàng
(Nghị Định 12/2006/NĐ-CP). Những hợp đồng này chiếm khoảng trên 50% trong tổng
số khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam hằng năm. Theo Quy chế thực hiện các hợp
đồng xuất khẩu gạo tập trung của Hiệp Hội Lương Thực Việt Nam, các hợp đồng
14



Chính phủ này cũng được Hiệp hội chỉ định giao dịch dự thầu hoặc ký kết hợp đồng
xuất khẩu tập trung thông qua việc lựa chọn thương nhân dự thầu. Căn cứ vào kết quả
đăng ký hợp đồng và thực hiện kế hoạch 6 tháng đầu năm, Hiệp Hội Lương thực Việt
Nam sẽ nhận đăng ký tiếp số lượng xuất khẩu 6 tháng cuối năm cho các đơn vị trên cơ
sở chỉ tiêu xuất khẩu gạo định hướng đã được Chính phủ thông báo. Ngoài ra, quy chế
của Hiệp hội cũng quy định rõ là khi đàm phán với đối tác ký hợp đồng, các thành viên
phải đưa vào điều khoản về việc đăng ký hợp đồng với Hiệp hội và phải được Hiệp hội
chấp thuận mới có hiệu lực. Do đó, doanh nghiệp xuất khẩu phải đăng ký hợp đồng, và
phải được Hiệp hội chấp thuận mới được xuất khẩu.
Như vậy, rõ ràng nhiệm vụ chủ yếu của Hiệp hội là thay mặt Nhà nước chỉ định
giao dịch dự thầu hoặc ký kết hợp đồng xuất khẩu tập trung xuất khẩu cho các công ty
thành viên dựa trên các hợp đồng Chính phủ; kiểm soát các hợp đồng thương mại; và
giám sát giá xuất khẩu dựa trên giá xuất tối thiểu được Hiệp hội ấn định theo từng thời
điểm.
2.2.4. Quy định về hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo
Chính phủ đã có Nghị định 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo.
Trước khi có nghị định 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, cả nước có hơn
200 doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Hiện tại, số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu
gạo vào khoảng hơn 100 đơn vị. Mặc dù doanh nghiệp tư nhân ngày càng tham gia
nhiều hơn vào thị trường, song xuất khẩu gạo tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp
nhà nước như Vinafood 1, Vinafood 2 và các doanh nghiệp nhà nước cấp địa phương.
Các doanh nghiệp nhà nước xuất khẩu gạo chiếm tỷ trọng lớn chủ yếu là nhờ các hợp
đồng chính phủ hay còn gọi là các hợp đồng tập trung. Các hợp đồng này thường được
giao cho Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) quản lý và phân bổ cho các thành viên
của Hiệp hội.
Ngoài ra điều 4 của Nghị định có quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh xuất
khẩu gạo. Theo đó, thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo phải đáp ứng đủ các điều
kiện sau: có ít nhất 01 kho chuyên dùng với sức chứa tối thiểu 5.000 (năm nghìn) tấn
thóc, phù hợp quy chuẩn chung do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành.
Có ít nhất 01 (một) cơ sở xay, xát thóc, gạo với công suất tối thiểu 10 tấn thóc/giờ, phù

hợp quy chuẩn chung do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành. Theo Cục
Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương), thời gian qua, việc thực hiện Nghị định 109 về
kinh doanh, xuất khẩu gạo đã mang lại nhiều kết quả tích cực như định hướng thương
nhân đầu tư lâu dài và năng lực kho chứa, xay xát thóc được cải thiện rõ rệt. Tuy
nhiên, một số quy định đã không còn phù hợp với điều kiện hiện hành. Ngoài ra,
những bất cập trong việc dự trữ lưu thông, hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung, quy định
15


về giá sản, công tác điều hành và trách nhiệm các bộ, ngành cũng gây cản trở trong
việc xuất khẩu gạo.
Nhằm tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp theo tinh thần kiến tạo, đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính, Bộ Công Thương đã trình Dự thảo Nghị định sửa đổi
Nghị định 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo với 10 điểm sửa đổi căn bản
để Chính phủ xem xét ban hành nhằm tạo thuận lợi, thông thoáng, giảm tối đa chi phí
gia nhập thị trường của thương nhân.
2.2.5. Chính sách ưu đãi về tín dụng, bảo hiểm
Chính phủ đã có Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn. Theo Nghị định này, các tổ chức, cá nhân được tạo
điều kiện vay vốn để trang trải những chi phí phát sinh phục vụ quá trình sản xuất kinh
doanh sản phẩm nông nghiệp trong đó có mặt hàng lúa gạo từ khâu sản xuất đến thu
mua, chế biến và tiêu thụ, xuất khẩu, qua đó góp phần xây dựng cuộc sống của nông
dân, cư dân ở nông thôn. Chính phủ có chính sách khuyến khích việc cho vay đối với
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thông qua hỗ trợ nguồn vốn, sử dụng các công cụ
điều hành chính sách tiền tệ, chính sách xử lý rủi ro phát sinh trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn và các chính sách khác trong từng thời kỳ. Thông qua đó các địa
phương phối hợp với ngành Ngân hàng để mở rộng các vùng trồng lúa có chất lượng
cao, đáp ứng nhu cầu của các thị trường khó tính, thị trường đòi hỏi khắt khe về chất
lượng gạo.
Có thể thấy được việc nhà nước tạo điều kiện cho người nông dân và các doanh

nghiệp thu mua lúa gạo được vay vốn là rất hợp lý và rõ ràng xong trên thực tế thì lại
nảy sinh nhiều mâu thuẫn là tục thủ cho vay rất phức tạp, nhiều khâu, nhiều công
đoạn. Trong khi đó do tính thời vụ cấp bách, sự tăng giá liên lục của các yếu tố đầu
vào như phân bón, giống, …đã buộc người nông dân phải đi vay nóng ở thị trường tín
dụng chợ đen với lãi suất cao. Đó là một điểm còn hạn chế mà chính sách không lường
hết được. Vậy để cho vay kịp thời đến các hộ nông dân, đòi hỏi các ngân hàng, một
mặt phải hoàn thiện lại các thủ tục cho vay, mặt khác phải nâng cao trình độ nghiệp vụ
của mỗi cán bộ ở cơ sở. Điều đó đảm bảo ngân hàng vừa thực hiện cho vay kịp thời,
vừa không làm giảm khả năng hoàn nợ của khách hàng vay. Hơn nữa cần tăng khả
năng cung ứng vốn ở thị trường tiền tệ nông thôn, đồng thời tăng khả năng giám sát
mục đích vay tiền, khả năng thanh toán của các hộ nông dân, đẩy lùi thị trường chợ
đen, cần phải tạo điều kiện cho các qũy tín dụng nhân dân hình thành và phát triển ở
nông thôn, hơn ai hết, họ rất hiểu về hoàn cảnh của từng hộ trong thôn xóm. Đó là cơ
sở để cho phép thực hiện các món cho vay kịp thời, có khả năng hoàn trả, nhưng với
lãi suất không cao như ở thị trường chợ đen.
16


Thời gian qua, việc triển khai các chính sách tín dụng cho các chương trình lớn
về phát triển nông nghiệp – nông thôn được ngành ngân hàng thực hiện quyết liệt,
mạnh mẽ. Song, sự phối hợp đồng bộ, việc tháo gỡ vướng mắc khó khăn… của các bộ
ngành có liên quan, của các địa phương còn chậm, đặc biệt trong lĩnh vực tiêu thụ
nông sản, khuyến nông và khuyến ngư, đào tạo nghề cho người nông dân… Do đó,
cần có sự chuyển biến mạnh mẽ của các các bộ ngành, các địa phương trong nhận thức
cũng như trong triển khai thực tế.
Ngoài ra, Nghị định này cũng có đề cập đến chính sách bảo hiểm, một chính
sách có vai trò quan trọng để các tổ chức tín dụng mở rộng vốn tín dụng an toàn, hiệu
quả cho phát triển nông nghiệp – nông thôn theo xu hướng hội nhập nhưng trong quá
trình triển khai chính sách này vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại.
2.2.6. Chính sách thuế xuất khẩu gạo

Có thể xem xét thuế xuất khẩu gạo với những mục tiêu như sau:
Thứ nhât, đánh thuế xuất khẩu là để lợi dụng thế mạnh độc quyền trên thị
trường quốc tế, tăng thu cho ngân sách bằng cách đẩy chi phí về thuế cho người tiêu
dùng nước ngoài gánh chịu. Với lượng gạo xuất khẩu của ta hàng năm đạt hơn 5% thị
phần thế giới thì chưa thể là độc quyền xuất khẩu gạo trên thế giới. Vậy mục tiêu này
là không thể được trong việc đánh thuế xuất khẩu gạo của ta.
Thứ hai, đánh thuế xuất khẩu là để điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu. Mặt hàng
gạo của ta không nằm trong danh mục hàng hóa hạn chế xuất khẩu thời gian qua. Vậy
đây cũng không phải là mục tiêu của đánh thuế xuất khẩu gạo.
Thứ ba, đánh thuế xuất khẩu để ổn định cung cầu trên thị trường nội địa. Thông
qua việc đánh thuế xuất khẩu để giảm bớt lợi nhuận của người xuất khẩu, từ đó giảm
bớt lượng xuất khẩu. Đây cũng là một trong các mục tiêu mà chính sách đánh thuế
xuất khẩu gạo của ta đạt được.
Việc áp dụng thuế xuất khẩu gạo vừa mang lại nguồn thu cho nhà nước, vừa có
kinh phí để hỗ trợ nông dân sản xuất. Về lâu dài, thu thuế xuất khẩu sẽ tạo được sự
“công bằng” giữa gạo trong nước và gạo xuất khẩu, bởi lâu nay doanh nghiệp tiêu thụ
gạo trong nước vẫn phải nộp thuế giá trị gia tăng 5%. Ngày 21/7/2008 Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 104/2008/QĐ-TTg quy định mức thuế tuyệt đối
thuế xuất khẩu đối với mặt hàng gạo. Theo đó, mức thuế xuất khẩu tuyệt đối cho mặt
hàng gạo thuộc nhóm 1006 được tính theo giá FOB của mặt hàng này. Mức thấp nhất
là 500.000 đồng/tấn đối với gạo xuất khẩu với giá FOB từ 600 USD đến dưới 700
USD/tấn và mức cao nhất là 2.900.000 đồng/tấn đối với giá FOB xuất khẩu trên 1.300
USD/tấn. Tùy tình hình biến động của thị trường và giá cả hai mặt hàng này trong từng
thời kỳ, Bộ Tài chính quyết định điều chỉnh tăng hoặc giảm mức thuế tuyệt đối theo
17


quy định tại Quyết định này trong phạm vi 20%; trường hợp điều chỉnh vượt trên 20 %
mức thuế tuyệt đối đã quy định, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Chính phủ áp dụng chính sách thuế vừa điều tiết được giá gạo trong nước, vừa

thu được thuế mà lại giảm bớt các thủ tục hành chính hơn nếu so với áp dụng chính
sách hạn ngạch. Một yếu tố khác cũng cần phải nhắc tới là Việt Nam sẽ mở cửa thị
trường xuất khẩu gạo vào đầu năm tới, lúc đó các doanh nghiệp trong và ngoài nước
đều công bằng trong việc xuất khẩu gạo. Song trên thực tế chính sách này cũng còn
nhiều bất cập. Đó là các doanh nghiệp nhà nước đang được nhiều ưu đãi về thuế xuất
khẩu, về sử dụng vốn nhà nước, nhưng chưa tham gia thực sự vào điều tiết thị trường
và đã bỏ lửng thị trường trong nước. Nếu đánh thuế xuất khẩu mà doanh nghiệp không
đàm phán được giá với nhà nhập khẩu- khả năng này cao- dĩ nhiên sẽ quay sang hạ giá
thu mua, ép nông dân để bảo đảm lợi nhuận cho mình. Như vậy, về lâu dài chỉ nên
nhân rộng việc cho tư nhân đầu thầu xuất khẩu gạo, tự chịu trách nhiệm trong kinh
doanh để góp phần củng cố lại hệ thống thu mua, phân phối, gián tiếp giúp nông dân
bán lúa với giá cao hơn.
2.2.7. Chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất và xuất khẩu gạo
Theo quy định thì vùng sản xuất nguyên liệu tập trung gắn với cơ sở chế biến,
tiêu thụ nông sản hàng hóa có hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa được ngân sách
nhà nước hỗ trợ một phần về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng( đường giao thông, thủy
lợi, điện…), hệ thống chợ bán buôn, kho bảo quản, mạng lưới thông tin thị trường, các
cơ sở kiểm định chất lượng nông sản hàng hóa theo Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg.
Cụ thể chính sách này được thực hiện như sau:
- Về cơ sở hạ tầng trong khâu sản xuất nông nghiệp. Khi nói đến cơ sở hạ tầng
nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng, trước tiên cần quan tâm đến hệ
thống thủy lợi. Nhờ chính sách này mà về cơ bản chúng ta đã kiến tạo được hệ thống
kênh mương tưới tiêu nước phục vụ sản xuất lúa gạo tương đối hoàn chỉnh, xong hiện
nay các hệ thống này đã quá cũ và đang xuống cấp, đặc biệt một số nơi còn lúng túng
trong việc quản lý, khai thác và tu bổ hệ thống công trình thủy lợi đã có.
- Về cơ sở hạ tầng trong các khâu sau thu hoạch lúa gạo. Hệ thống cơ sở hạ tầng
phục vụ các khâu sau thu hoạch lúa gạo đã được chú ý đến trong vài năm gần đây.
Nhưng do nhiều nguyên nhân, nên hệ thống đó vẫn cò xa mới đáp ứng được yêu cầu
giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. Đây là điểm bất cập
mà chính sách này chưa đề cập để giải quyết nó.

2.3. Đánh giá chung
Mặc dù thời gian vừa qua hoạt động xuất khẩu ngành gạo đã có được những kết
quả đáng mừng xong cũng vẫn còn tồn tại một số vấn đề đáng được quan tâm:
18


Về sản xuất, do có quá nhiều giống lúa với chất lượng hạt khác biệt nhau, dẫn
đến không đồng nhất về chất lượng, và hệ quả là không thể xác định nguồn gốc và xây
dựng thương hiệu. Chi phí vật tư có nguồn gốc dầu mỏ mà chủ yếu là nhiên liệu, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật tăng cao do lệ thuộc nhập khẩu và chi phí phân phối, tiếp
thị cao. Chi phí lao động, nhất là công đoạn thu hoạch cao, vì thiếu hụt lao động nông
nghiệp và mức độ cơ giới hóa trong công đoạn thu hoạch còn quá thấp. Các vấn đề này
tác động làm cho chất lượng gạo xuất khẩu thấp, giá thành sản xuất cao và tỷ lệ thất
thoát sau thu hoạch quá cao (ước tính từ 10-12% tổng sản lượng).
Cơ chế xuất khẩu hiện nay đã được nới lỏng rất nhiều so với trước đây. Mặc dù
các văn bản chính thức đều không nhắc đến cơ chế hạn ngạch, nhưng tổng lượng gạo
xuất khẩu phải dựa trên định hướng số lượng xuất khẩu do Chính phủ quy định dựa
trên cân đối cung cầu thường kỳ. Ngoài ra, việc quy định tổ chức thực hiện hợp đồng
xuất khẩu tập trung (chỉ định giao dịch dự thầu hoặc ký kết hợp đồng, phân giao chỉ
tiêu 20% xuất khẩu trực tiếp, 80% xuất khẩu ủy thác qua các thành viên khác) và việc
quy định đăng ký số lượng xuất khẩu cho các hợp đồng thương mại trên cơ sở chỉ tiêu
xuất khẩu gạo định hướng cũng thể hiện bản chất của cơ chế điều hành xuất khẩu gạo
hiện nay là theo hạn ngạch.
Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo không bị ràng buộc về điều kiện
năng lực vốn, bảo đảm vùng nguyên liệu, quy mô kho bãi tồn trữ, quy mô trang thiết bị
xay xát chế biến. Vì vậy, có quá nhiều doanh nghiệp thương mại tham gia xuất khẩu
gạo như là các nhà trung gian. Sự lệ thuộc của các doanh nghiệp xuất khẩu vào hệ
thống cung ứng gạo đã tạo ra một cơ chế thu mua, chế biến thông qua nhiều tầng trung
gian nên lợi nhuận của nông dân bị giảm. Về mặt kỹ thuật, quy trình chế biến gạo xuất
khẩu dựa trên dự trữ gạo nguyên liệu, sau đó phối trộn, lau bóng, sấy và phân cấp theo

hợp đồng xuất khẩu của hệ thống thu mua - chế biến - thương mại hiện nay có bản
chất là quy trình ngược, thay vì dự trữ lúa nguyên liệu và xay xát đến gạo thành phẩm.
Quy trình ngược này dẫn đến chất lượng gạo thấp, tỷ lệ hao hụt và hư hỏng cao, tăng
chi phí trong công đoạn chế biến.
Cơ chế bình ổn giá chưa được xác lập rõ ràng và nhất quán. Cơ chế này tỏ ra
không phù hợp với bản chất kinh tế thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu, vì
buộc các doanh nghiệp thu mua tạm trữ nhằm bình ổn giá bằng nguồn vốn kinh doanh
của doanh nghiệp, mà đa số phải vay với lãi suất thỏa thuận. Việc buộc doanh nghiệp
dự trữ lớn sẽ tăng thêm chi phí, nhất là khi lãi suất cho vay của ngân hàng tăng và cuối
cùng lại tính vào giá thành làm giảm sức cạnh tranh của gạo Việt Nam khi xuất khẩu.
Trong khi đó, năng lực dự trữ chung của vùng rất hạn chế do quá thiếu kho
chứa. Ý định của Chính phủ triển khai đầu tư xây dựng hệ thống kho dự trữ hiện đại có
19


quy mô 4 triệu tấn vẫn chưa thể thực hiện do thiếu vốn, không xác định được vai trò ai
là chủ đầu tư, cơ chế đầu tư, và cơ chế vận hành, khai thác. Do đó, việc thu mua dự trữ
quốc gia nhằm mục tiêu an ninh lương thực và bình ổn cũng khó thực hiện được vì
thiếu cơ sở hạ tầng lưu trữ.
Đồng thời, việc thay đổi các quy định về hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo
theo hướng là một ngành nghề có điều kiện vẫn còn đang bị bỏ ngỏ do xung đột lợi ích
giữa các bên liên quan, mặc dù đã có những cuộc thảo luận chính thức vào giữa năm
2009 do Bộ Công Thương tổ chức.
Một vấn đề tồn tại khác là sự thiếu vắng một hệ thống cơ quan độc lập có chức
năng giám sát, đánh giá, phân tích về chi phí, giá thành và hiệu quả kinh tế của từng
hoạt động và toàn bộ ngành hàng lúa gạo để cung cấp thông tin tin cậy cho các bên
liên quan. Nhà hoạch định chính sách không biết được chi phí sản xuất, lợi nhuận, giá
trị gia tăng ở từng tác nhân tham gia trong ngành hàng là bao nhiêu, và phân phối lợi
ích kinh tế giữa các tác nhân như thế nào để điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Các
tranh cãi dai dẵng về cách tính giá thành và phân phối lợi nhuận giữa các tác nhân

trong ngành hàng cũng là hệ quả của vấn đề này.

20


CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU GẠO CỦA
VIỆT NAM
Từ các phân tích nên trên, có thể thấy rằng việc hoàn chỉnh cơ chế, chính sách
sản xuất, xuất khẩu lúa gạo khó có thể được thực hiện trong thời gian ngắn. Tuy nhiên,
dựa trên các phân tích, có thể thấy được một số gợi ý cho điều chỉnh chính sách lúa
gạo để khắc phục những khiếm khuyết hiện nay.
- Thứ nhất, Nhà nước nên cân nhắc lại việc duy trì cơ chế điều hành xuất khẩu
gạo. Để cân bằng các lợi ích quốc gia về khai thác lợi thế sản xuất và xuất khẩu gạo để
tăng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm lại lợi ích kinh tế cho nông dân và đồng thời bảo
đảm giá lương thực phù hợp cho khu vực đô thị và người tiêu dùng lương thực, việc áp
dụng công cụ thuế linh hoạt thay cho công cụ hạn ngạch vừa có tính khả thi, vừa có
hiệu quả tốt hơn. Khi áp dụng cơ chế thuế xuất khẩu, Hiệp hội lương thực sẽ quay trở
về vai trò đúng đắn của một hiệp hội ngành nghề là đại diện cho lợi ích hợp pháp của
các thành viên, nghiên cứu và cung cấp thông tin thị trường, điều phối việc xuất khẩu
của các thành viên thông qua cơ chế đấu thầu lại các hợp đồng xuất khẩu lương thực
cấp Chính phủ với mức thuế xuất khẩu xác định.
- Thứ hai, cần phải tôn trọng các quy luật thị trường và hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp xuất khẩu song song với việc bảo đảm an ninh lương thực và bình
ổn giá. Vì vậy, phải tách riêng vai trò dự trữ lương thực quốc gia ra khỏi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Điều kiện tiên quyết phải là đầu tư vốn xây dựng hệ
thống kho chứa quốc gia phục vụ mục tiêu dự trữ quốc gia, bảo đảm an ninh lương
thực và bình ổn giá và xây dựng quỹ bình ổn giá lương thực. Đẩy mạnh hoạt động thu
mua dự trữ khi giá lúa nội địa xuống thấp dựa trên quỹ bình ổn giá vừa giúp bảo bảo
an ninh lương thực vừa giúp tạo ra mặt bằng giá an toàn cho người sản xuất. Khi có
nhu cầu xuất khẩu gạo, Nhà nước có thể bán ra một phần lượng lúa dự trữ này cho các

công ty. Các doanh nghiệp cũng có thể thuê hệ thống kho chứa này để dự trữ lúa trong
khi chờ hợp đồng xuất khẩu.
- Thứ ba, để cải thiện cơ chế thu mua gạo xuất khẩu, cũng như thay đổi cơ chế
vận hành của ngành hàng lúa gạo, cần áp dụng chính sách quy định kinh doanh xuất
khẩu gạo là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Các doanh nghiệp xuất khẩu phải đạt
một quy mô vốn nhất định, phải có hệ thống kho chứa, nhà máy xay xát chế biến ở
một ngưỡng tối thiểu, có đầu tư phát triển vùng lúa nguyên liệu riêng trong quan hệ
liên kết dọc với người sản xuất mới được phép kinh doanh xuất khẩu gạo. Cũng cần
quy định bắt buộc các doanh nghiệp này phải xuất khẩu gạo với thương hiệu riêng của
mình để nâng cao trách nhiệm với chất lượng hạt gạo quốc gia.
21


- Thứ tư là cải thiện hoạt động cung cấp đầu vào cho sản xuất lúa nhằm giảm
chi phí và giá thành. Cần thiết coi phân bón là một mặt hàng chiến lược cho nông
nghiệp và có những biện pháp tiết giảm chi phí phân bón và tăng hiệu quả sử dụng.
Mở rộng cung cấp tín dụng cho chế tạo, lắp ráp và mua sắm thiết bị thu hoạch lúa để
tăng cơ giới hóa thu hoạch và giải quyết thiếu hụt lao động nông nghiệp ở các vùng
trồng lúa quy mô lớn.
Để hỗ trợ công tác điều hành vĩ mô về chính sách lương thực, cần thiết phải có
một cơ quan độc lập có chức năng giám sát, đánh giá, phân tích về chi phí, giá thành
và hiệu quả kinh tế của từng hoạt động và toàn bộ ngành hàng lúa gạo để cung cấp
thông tin tin cậy. Cơ quan này có thể là một viện nghiên cứu hoặc trường đại học
ngành kinh tế làm đầu mối để phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác trong thu thập
thông tin. Ở cấp địa phương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có thể là cơ
quan chịu trách nhiệm tổ chức điều tra định kỳ theo vụ để thu thập thông tin về giá vật
tư đầu vào, chi phí sản xuất, năng suất, giá thành. Ở cấp trung ương, Hiệp hội lương
thực phải là nơi cung cấp thông tin về giá xuất khẩu, và chi phí chế biến - xuất khẩu
của một số doanh nghiệp Nhà nước.


22


KẾT LUẬN
Cải thiện chính sách sản xuất và xuất khẩu lúa gạo là hết sức cần thiết để cân
đối và bảo đảm hài hòa lợi ích của quốc gia, doanh nghiệp, người sản xuất và người
tiêu dùng lúa gạo trong nước. Có thể thấy trong thời gian qua Chính phủ đã đưa ra và
thực hiện các chính sách liên quan đến hoạt động xuất khẩu của mặt hàng lúa gạo. Nó
đã mang lại một số lợi ích đáng kể cho người nông dân cũng như các doanh nghiệp thu
mua, tạo cho họ được lòng tin vào sản xuất và kinh doanh, mang lại giá trị cao hơn.
Tuy nhiên, việc thực hiện những chính sách này muốn mang lại được tính hiệu quả cao
hơn rộng lớn hơn thì đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, các khâu,
các thành phần tham gia vào sản xuất và kinh doanh lúa gạo. Vì thực tế các chính sách
đó vẫn chưa được triển khai một cách đồng bộ, mà mới chỉ triển khai ở những nơi
thuận lợi hoặc vùng sản xuất lớn. Nhà nước cũng đang tìm mọi cách để chính sách đến
được với tận tay người dân có vậy thì lợi ích mới thực sự mang lại cho người dân.
Tiểu luận này đã phân tích tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ở Việt Nam
cũng như một số chính sách của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả của ngành lúa gạo.
Vai trò điều phối của Nhà nước cần được nhấn mạnh ở các chức năng bình ổn giá, dự
trữ quốc gia, điều tiết nguồn thu bằng công cụ thuế xuất khẩu và cải thiện yếu tố đầu
vào cho sản xuất lúa gạo. Chức năng dự trữ quốc gia nên được sử dụng như là công cụ
chính để bảo đảm an ninh lương thực và bình ổn giá. Để giảm chi phí sản xuất và thất
thoát sau thu hoạch, cần kiểm soát chi phí đầu vào và cải thiện cơ giới hóa thu hoạch.
Một lần nữa chúng ta có thể khẳng định được là những chính sách này đã, đang
và sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trên thị trường thế
giới, khẳng định thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường.

23



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2013), Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích phát
triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn.
2. Chính phủ (2008), Quyết định số 104/2008/QĐ-TTg quy định mức thuế tuyệt đối
thuế xuất khẩu đối với mặt hàng gạo.
3. Chính phủ (2015), Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn.
4. Chính phủ (2010), Nghị định 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo.
5. Chính phủ (2006), Nghị Định 12/2006/NĐ-CP quy định định hướng điều hành xuất
khẩu gạo.
6. Chính phủ (2002), Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích tiêu
thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng.
7. Trần Văn Chu & Hà Quốc Hội (2000), Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập
khẩu, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
8.
9.

24



×