Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

ĐỀ CƯƠNG HỎI - ĐÁP LUẬT HÀNH CHÍNH (kham thảo)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.93 KB, 11 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH
CHƯƠNG I:
1.

Phân biệt quản lý nhà nước với hành chính nhà nước ý nghĩa của sự phân biệt
khái niệm này?

Xuất phát từ khái niệm quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực
lập pháp, hành pháp tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối ngoại của nhà nước , ta thấy
giữa 2 hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính nói riêng (tức là
quản lý nhà nước chỉ trong lĩnh vực hành pháp đólà hoạt động chỉ đạo thực hiện pháp
luật gọi là quản lý hành chính nhà nước). Có những điểm riêng sau:
Quản lý nhà nước
* Khái niệm : rộng hơn
Quản lý nhà nước = chỉ đạo hoạt động
+ lập pháp
+ Hành pháp
+ Tư pháp
Để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước.
* Chủ thể:
- Nhà nước và các cơ quan nhà nước .
- các tổ chức xã hội và cá nhân được trao quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước .
* Khách thể :
Trật tự quản lý nhà nước mới được xác định bởi quy phạm pháp luật.
* Khái niệm : Hẹp hơn .
Quản lý hành chính nhà nước= hoạt động chỉ đạo pháp luật ( hành pháp)
Bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh
nghị quyết, của cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan dân chủ)
* chủ thể:
- cơ quan hành chính nhà nước .



- cán bộ nhà nước có thẩm quyền .
*Khách thể :
Đảm bảo hoạt động chấp hành, điều hành trên cơ sở pháp luật để chỉ đạo thực hiện pháp
luật.
*Tóm lại: Hoạt động quản lý hành chính nhà nước (tức là hoạt động hành pháp
bằng chỉ đạo tổ chức thực hiện pháp luật trên cơ sở pháp luật) là một hoạt động rộng lớn
thường xuyên quan trọng trong quản lý nhà nước nhưng nằm trong khuôn khổ của nhà
nước .
2.

Phân tích tính chấp hành điều hành và tính chủ động sáng tạo của hoạt
độngnhành chính nhà nước? Tại sao nói đây là những đặc trưng cơ bản nhất
của hoạt động hành chính nhà nước?

Hoạt động quản lý hành chính nhà nước có tính chấp hành và điều hành.- Tính chấp
hành thể hiện ở mục đích của quản lí hành chính nhà nước là: đảm bảo thực hiện trên
thực tế các văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước. Mọi hoạt động quản
lý hành chính nhà nước đều được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp
luật.
- Tính điều hành của quản lý hành chính nnhà nước thể hiện ở chỗ: để đảm bảo cho các
văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước được thực hiện trên thực tế, các
chủ thể của quản lí hành chính nhà nước phải tiến hành hoạt động tổ chức và chỉ đạo
trực tiếp đối với các đối tượng quản lí thuộc quyền
=> Trong mỗi hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tính chấp hành và tính điều hành
luôn đan xen, song song tồn tại, tạo nên sự đặc thù của hoạt động quản lý hành chính
nhà nước, nhờ đó có thể phân biệt với hoạt động lập pháp và tư pháp: Trong lập pháp,
chấp hành là để xây dựng pháp luật làm cho pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn. trong
tư pháp, chấp hành là để bảo vệ pháp luật tránh khỏi sự xâm hại; còn trong quản lý hành
chính, chấp hành là để tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội.

– Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính chủ động và sáng tạo.
Điều này thể hiện ở việc các chủ thể quản lý căn cứ vào tình hình, đặc điểm của từng
đối tượng quản lý cụ thể để đề ra các biện pháp quản lý thích hợp. Ví dụ như đối với
đồng bào các dân tộc thiểu số thì các quy định về luật cũng như chính sách và việc áp
dụng cũng có sự khác biệt đối với những đối tượng khác. Ví dụ như một số dân tộc
người phụ nữ có tập tục búi tóc cao và như vậy khi tham gia giao thông thì họ không thể
đội mũ bảo hiểm nhưng cũng không thể phạt họ như đối với các đối tượng khác. Hơn


nữa, hầu hết các trường hợp vi phạm luật do thói quen phong tục tập quán của họ hay do
thiếu hiểu biết pháp luật do trình độ nhận thức còn thấp của một bộ phận người dân tộc
thiểu số đều được xử lý hết sức nhẹ nhàng trên tinh thần giảng giải và phân tích cho họ
hiểu pháp luật của nhà nước và về những vi phạm của họ chứ ít có sự xử phạt nghiêm
khắc hay cưỡng chế thi hành đối với những lỗi vi phạm hành chính thông thường. Điều
này thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo và khôn khéo của chủ thể quản lý hành chính.
Tính chủ động sáng tạo còn thể hiện rõ nét trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật hành chính để điều chính các hoạt động quản lý nhà nước. Ví dụ
như việc sửa đối hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã được thực hiện trên tinh thần lấy ý
kiến đóng góp của toàn thể nhân dân, sau đó quốc hội sẽ thảo luận và thống nhất các
điều luật và sự thay đổi cuối cùng để có một bản hiến pháp đầy đủ toàn diện và phù hợp
nhất với tình hình thực tế và nguyện vọng của nhân dân. Việc quyết định lấy ý kiến của
toàn thể nhân dân tham gia sửa đối hiến pháp thay vì một bộ phận chuyên thực hiện việc
nghiên cứu, sửa đổi hiến pháp như trước đây thể hiện sự chủ động và sáng tạo của hoạt
động quản lý hành chính nhà nước.
3.

Tại sao luật hành chính là ngành luật về hoạt động hành chính nhà nước?

-Quản lý hành chính nhà nước là tổ chức thực hiện quyền hành pháp bằng hoạt động
chấp hành pháp luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và điều hành hoạt động

trong các lĩnh vực tổ chức đời sống xh của các cqnn mà chủ yếu là các cq hcnn và
những người được ủy quyền được tiến hành trên cơ sở thi hành pháp luật nhằm thực
hiện trong đời sống hằng ngày các chức năng của nhà nước trên các lĩnh vực CT, HC,
KT, VH, XH.
Như vậy, bản chất của QLHCNN thể hiện ở các mặt chấp hành điều hành.
Trong khi đó LHC là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành nhà nước. LHC hướng sự
quy định vào các vấn đề chủ yếu: tổ chức QLHCNN và kiểm soát đối với QLHCNN.
Đối tượng điều chỉnh của LHC là những quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt
động QLHCNN.
4.

Tại sao luật hành chính sử dụng phương pháp quyền uy phục tùng?

Xuất pháp từ bản chất của quản lý, muốn quản lý thì phải có quyền uy.
Trong quan hệ pháp luật hành chính thường một bên, trong tuyệt đại đa số các trường
hợp, được giao quyền hạn mang tính quyền lực nhà nước: ra các quyết định đơn
phương, kiểm tra hoạt động của bên kia, áp dụng các biện pháp cưỡng chế khi nhà nước


cần thiết theo pháp luật, nghĩa là được thực hiện những hoạt động mang tính đơn
phương còn bên kia phải bắt buộc thi hành các quyết định, phục tùng bên được trao các
quyền hạn nhà nước, mặc dù trong nhiều trường hợp vấn đề được quyết định theo sáng
kiến của bên không nắm quyền hạn nhà nước.Các cơ quan hành chính, các cơ quan nhà
nước khác hoặc cơ quan tổ chức xã hội khi được trao quyền, trong hoạt động hành chính
đã nhân danh nhà nước thể hiện ý chí nhà nước tham gia thực hiện các chức năng nhà
nước.
CHƯƠNG II:
1.


Phân tích các đặc điểm quy phạm quy phạm pháp luật hành chính?

Là một dạng của quy phạm pháp luật nên quy phạm pháp luật hành chính cũng mang
những đặc điểm chung của quy phạm pháp luật như:
- Là quy tắc xử sự chung, do nhà nước ban hành theo một trình tự thủ tục nhất định và
thể hiện ý chí của nhà nước.
- Có tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước
- Là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người về tính hợp
pháp.
- Được áp dụng nhiều lần, hiệu lực của quy phạm không bị chấm dứt khi đã bị áp dụng.
Có thể nói những đặc điểm chung này có thể giúp phân biệt quy phạm pháp luật nói
chung, quy phạm pháp luật hành chính nói riêng với những quy phạm xã hội khác
không phải là quy phạm pháp luật.
Ngoài ra, quy phạm pháp luật hành chính còn có những đặc điểm cụ thể sau:
- Thứ nhất, các QPPL hành chính chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước ban
hành.
Ở nước ta, theo quy định của pháp luật hiện hành thì các cơ quan nhà nước hoặc người
có thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật hành chính có thể là chủ thể lập pháp hoặc
chủ thể quản lý hành chính nhà nước.
Quốc hội có thẩm quyền đặt ra, sửa đổi hoặc bãi bỏ các QPPL hành chính quy định
những vấn đề cơ bản, quan trọng trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính
nhà nước. Với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội cũng có thẩm quyền đặt ra, sửa đổi hoặc bãi bỏ các quy phạm pháp luật hành chính
quy định những vấn đề được Quốc hội giao (khoản 4 Điều 91 Hiến pháp 1992 sửa đổi,


bổ sung năm 2001). Một số chủ thể quản lý hành chính nhà nước là cá nhân có thẩm
quyền ban hành quy phạm pháp luật hành chính như Thủ tướng chính phủ; Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân nhân tối cao.

Các QPPL hành chính chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành trên cơ sở, cụ thể hóa, chi tiết hóa
các quy định của Hiến pháp, luật và pháp lệnh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà
nước.
- Thứ hai, cácQPPL hành chính có số lượng lớn và có hiệu lực pháp lý khác nhau.
Do phạm vi điều chỉnh của luật hành chính rất rộng và tính chất đa dạng về chủ thể ban
hành, nên các QPPL hành chính có số lượng lớn. Trong đó có những quy phạm có hiệu
lực pháp lý trên cả nước và chung cho các ngành, lĩnh vực quản lý, nhưng có những quy
phạm chỉ có hiệu lực trong phạm vi một ngành, một lĩnh vực quản lý hay trong một địa
phương nhất định.
- Thứ ba, các QPPL hành chính hợp thành một hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc pháp
lý nhất định.
Do yêu cầu điều chỉnh thống nhất pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước, các
QPPL có số lượng lớn và hiệu lực khác nhau, song chúng cần phải hợp thành một hệ
thống. Các chủ thể có thẩm quyền ban hành các quy phạm pháp luật hành chính có trách
nhiệm tuân thủ các nguyên tắc pháp lý thống nhất sau đây:
+ Một là các QPPL hành chính do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp
với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước cấp trên ban
hành.
+ Hai là các QPPL hành chính do cơ quan hành chính nhà nước, Chủ tịch nước, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của
quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp ban hành. Các cơ quan
hành chính nhà nước vơi tư cách là các cơ quan quyền lực nhà nước, khi ban hành các
QPPL hành chính cần phải căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
quyền lực nhà nước cùng cấp. Mặt khác, các cơ quan quyền lực nhà nước có trách
nhiệm và thẩm quyền trong việc giám sát, phát hiện và xử lý các văn bản quy phạm
pháp luật trái pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước hay những cơ quan khác do
mình quyết định thành lập và những người giữ chức vụ do mình bầu. Ví dụ: Quốc hội
có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính



phủ, Thủtướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
+ Ba là các QPPL hành chính do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên
môn ban hành phải phù hợp với nội dung mà mục đích của quy phạm pháp luật do cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành.
+ Bốn là các QPPL hành chính do người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ban
hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do tập thể cơ quan
đó ban hành.
+ Năm là bảo đảm tính thống nhất, phù hợp giữa các QPPL hành chính do các chủ thể
có thẩm quyền ngang cấp, cùng địa vị pháp lý ban hành.
+ Sáu là các QPPL hành chính phải được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và dước
hình thức nhất định do pháp luật quy định. Các QPPL hành chính phải được các cơ quan
nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành dưới hình thức văn bản quy phạm pháp
luật theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định thống nhất với từng loại hình văn bản quy
phạm pháp luật cụ thể:
• Xác định thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước.
• Quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính của đối tượng quản lý hành chính
nhà nước.
• Quy định cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong quá trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước.
• Quy định thủ tục hành chính.
• Quy định vi phạm hành chính.
• Quy định các biện pháp khen thưởng và cưỡng chế hành chính.
2.

Các hình thức thực hiện QPPL hành chính?

Tuân thủ quy phạm pháp luật hành chính: Tuân thủ quy phạm pháp luật hành chính (hay
tuân theo quy phạm pháp luật hành chính) là hình thức thực hiện quy phạm pháp luật

hành chính. Theo nghĩa rộng thì tuân thủ pháp luật có nội dung các chủ thể thực hiện
các hành vi hợp pháp theo đúng các yêu cầu của pháp luật hành chính. Ví dụ: Khi tham
gia giao thông thì người tham gia giao thông phải đi đúng chỉ dẫn của các đèn tín hiệu
trên đường. Còn nếu theo nghĩa hẹp thì tuân thủ quy phạm pháp luật là hình thức thực


hiện quy phạm pháp luật hành chính là kiềm chế không thực hiện những hành vi mà
pháp luật hành chính ngăn cấm. Ví dụ: không kết hôn với người đang có vợ, có chồng
hoặc không kết hôn với người có họ trong phạm vi ba đời cùng dòng máu trực hệ.
Không thực hiện hành vi vi phạm các quy phạm pháp luật hành chính nghĩa là công dân
đó đã tuân thủ các quy định của các văn bản pháp luật đó.
Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính: Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính
là hình thức thực hiện quy phạm luật hành chính, trong đó các cơ quan, tổ chức, cá nhân
thực hiện những hành vi mà pháp luật hành chính đòi hỏi họ phải thực hiện. Ví dụ:
Công dân khi dời khỏi nơi cư trú đến một địa phương khác thì phải thực hiện nghĩa vụ
đăng kí tạm trú tạm vắng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo đúng các quy định
của pháp luật hành chính
Sử dụng quy phạm pháp luật hành chính: Sử dụng quy phạm pháp luật hành chính là
hình thức thực hiện quy phạm luật hành chính, trong đó chủ thể thực hiện các quyền
pháp lý của mình theo quy định của pháp luật hay thực hiện các hành vi được pháp luật
hành chính cho phép. Ở đây có thể hiểu là các chủ thể có thể tự do thực hiện hay không
thực hiện quyền chủ thể của mình đã được pháp luật hành chính quy định. Ví dụ: Bị cáo
là người dân tộc thì được sử dụng tiếng nói chữ viết của dân tộc họ trước Tòa án theo
quy định của luật tố tụng hình sự khi bị đưa ra xét xử.
Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính: Áp dụng quy phạm luật hành chính là hình
thức thực hiện quy phạm pháp luật hành chính trong đó các chủ thể có thẩm quyền nhân
danh Nhà nước căn cứ vào các quy phạm pháp luật hành chính hiện hành để giải quyết
các công việc cụ thể phát sinh trong quá trình quản lý hành chính Nhà nước. Cụ thể hơn
có thể hiểu đó là hoạt động ban hành các văn bản cá biệt của các chủ thể có thẩm quyền
để giải quyết những việc cụ thể - cá biệt trên cơ sở quy phạm pháp luật hành chính. Việc

áp dụng là cần thiết để thực hiện các quy phạm, nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền không ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật để giải quyết những vụ việc
cụ thể phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính thì các quy phạm đó tự nó không thể
đi vào cuộc sống. Khi áp dụng quy phạm pháp luật hành chính, các chủ thể quản lý đơn
phương ban hành chính thì các quy phạm đó tự nó không thể đi vào cuộc sống. Khi áp
dụng quy phạm pháp luật hành chính, các chủ thể quản lý đơn phương ban hành các
quyết định hành chính hay thực hiện các hành vi hành chính để tổ chức việc thực hiện
pháp luật một cách trực tiếp đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền. Do đó, áp dụng
quy phạm pháp luật hành chính là sự kiện pháp lý trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hay
chấm dứt một sô quan hệ pháp luật cụ thể. Ví dụ: khi cần xác nhận một hành vi một kết
quả nào đó là hợp pháp hay không thì khi đó chủ thể có thẩm quyền thực hiện việc công


chứng, chứng thực để xác thực về vấn đề phát sinh. Bên cạnh đó, việc áp dụng quy
phạm pháp luật hành chính cần phải đáp ứng về các yêu cầu đó là: áp dụng các quy
phạm phải đúng với nội dung, mục đích của quy phạm được áp dụng, việc áp dụng phải
được thực hiện bởi chủ thể có thẩm quyền, phải được thực hiện theo đúng thủ tục do
pháp luật quy định và phải được thực hiện trong thời hạn thời hiệu do pháp luật quy
định. Không chỉ vậy, kết quả áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải trả lời công
khai, chính thức cho các đối tượng có liên quan và phải được thể hiện bằng văn bản( trừ
tường hợp pháp luật có quy định khác). Và yêu cầu cuối cùng đó là quyết định áp dụng
quy phạm pháp luật hành chính phải được các đối tượng có liên quan tôn trọng và đảm
bảo thực hiện trên thực tế.
CHƯƠNG III:
1.

Việc phân cấp quản lý trong nguyên tắc tập trung dân chủ?

Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ được hiểu là sự
chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu

quả mục tiêu chung của quản lý hành chính Nhà nước. Các cấp trong bộ máy quản lý
hành chính Nhà nước được phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và phương
tiện cần thiết để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của mình. Các cấp quản lý
được phép tiến hành những hoạt động phát huy tính năng động sáng tạo của mình trong
phạm vi thẩm quyền được giao.
Việc phân cấp quản lý được quy định tại rất nhiều văn bản, có thể kể đến như Nghị
quyết số 17/NQ-TW ngày 1/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước tại phần II, mục 4: “Tiếp tục phân cấp mạnh
và giao quyền chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương…”. Tuy nhiên, việc phân
cấp quản lý cần được bảo đảm được những yêu cầu sau đây:
– Đảm bảo cho trung ương có quyền quyết định trong lĩnh vực then chốt, những vấn đề
có ý nghĩa chiến lược nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối và hài hòa của toàn xã hội,
bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
-Mạnh dạn trao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động,
sáng tạo trong quản lý; tích cực phát huy sức người sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục
vụ đời sống, trên cơ sở đó hoàn thành mọi nhiệm vụ được trung ương và cấp trên giao
phó. Mạnh dạn nâng cấp cho địa phương và cơ sở là biện pháp bảo đảm tập trung, tránh
cho trung ương và cấp trên phải ôm đồm công việc mang tính sự vụ thuộc về chức trách
của cơ sở và địa phương.


– Việc phân cấp quản lý phải thật cụ thể, hợp lý trên cơ sở những quy định của pháp
luật.
2.
a)

. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Cơ sở pháp lý
Ðây là nguyên tắc thể hiện một nguyên lý căn bản của tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Bởi vì trước hết việc tổ chức và hoạt động hành chính phải hợp pháp,

tức là phải tuân theo pháp luật. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa vì vậy là một
biện pháp để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. "Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa". (Ðiều 12- Hiến
pháp 1992)

b) Nội dung nguyên tắc
Biểu hiện của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà
nước như sau:
1. Trong lĩnh vực lập quy
Khi ban hành quy phạm pháp luật thuộc phạm vi thẩm quyền của mình, các cơ quan
hành chính nhà nước phải tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa, phải tôn trọng vị trí
cao nhất của hiến pháp và luật, nội dung văn bản pháp luật ban hành không được trái
với hiến pháp và văn bản luật, chỉ được ban hành những văn bản quy phạm pháp luật
trong phạm vi thẩm quyền và hình thức, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
2. Trong lĩnh vực thực hiện pháp luật
Việc áp dụng quy phạm pháp luật phải tuân theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa, tức là phải phù hợp với yêu cầu của luật và các văn bản quy phạm pháp luật
khác, phải thiết lập trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể áp dụng quy phạm pháp
luật, mọi vi phạm phải xử lý theo pháp luật, áp dụng pháp luật phải đúng nội dung,
thẩm quyền và phải tôn trọng những văn bản quy phạm pháp luật do chính cơ quan
ấy ban hành.
3. Trong lĩnh vực tổ chức
Ðể đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước đòi hỏi việc thực hiện pháp
chế phải trở thành chức năng quan trọng của mọi cơ quan quản lý và ngay trong bộ
máy quản lý cũng phải có những tổ chức chuyên môn thực hiện chức năng này. Vi
phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực tổ chức là vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo


vào quản lý hành chính nhà nước, vi phạm mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính

nhà nước với nhau.
4.Trong việc quản lý nói chung
Mở rộng, bảo đảm các quyền dân chủ của công dân. Mọi quyết định hành chính và hành
vi hành chính đều phải dựa trên quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trực tiếp hoặc
gián tiếp. Ngược lại, việc hạn chế quyền công dân chỉ được áp dụng trên cơ sở hiến
định.
5. Phải chịu trách nhiệm trước xã hội và pháp luật
Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước phải chịu trách nhiệm do những sai phạm của
mình trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, xâm phạm đến lợi ích tới quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân và phải bồi thường cho công dân. Chính vì vậy, hoạt
động quản lý gắn liền với một chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt đối với một chủ thể quản
lý. Chế độ trách nhiệm ấy thông qua pháp luật và các hệ thống kỷ luật nhà nước. Cụ thể
hơn, yêu cầu của quản lý đặt dưới sự thanh tra, kiểm tra giám sát và tài phán hành chính
để pháp chế được tuân thủ thống nhất, mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý theo đúng
pháp luật. Sự kiểm tra và giám sát ấy, trước hết phải được bảo đảm thực hiện chính từ
chủ thể quản lý. Tự kiểm tra với tư cách tổ chức chuyên môn vì thế cũng rất cần thiết
như sự kiểm tra, giám sát từ phía các cơ qaun nhà nước tương ứng, các tổ chức xã hội
và công dân.
3 Sự cần thiết phải kết hợp quản lí theo nghành với lãnh thổ?
Nhằm đảm bảo cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ trong nền kinh tế quốc dân. Các đơn vị
thuộc các ngành kinh tế -kĩ thuật nằm trên các địa bàn lãnh thổ khác nhau cũng đều chịu
sự quản lí nhà nước theo ngành của các bộ (trungương) và của các cơ sở chuyên môn (ở
địa phương). Trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của luật pháp,quản lí theo ngành
bảo đảm cơ cấu ngành phát triển hợp lí trong phạm vi cả nước và có hiệu quả nhất. Các
đơn vịkinh tế nằm trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ cũng chịu sự quản lí nhà nước
theo lãnh thổ của chính phủ
Trung Ương trên tổng thể, và của chính quyền địa phương các cấp theo quy định phân
cấp của luật pháp. Trongcơ cấu quyền lực và phân công trách nhiệm quản lí hành chính
- nhà nước, chính phủ quản lí thống nhất cácngành và các đơn vị lãnh thổ; chính quyền
địa phương là người chịu trách nhiệm quản lí kinh tế - xã hội trên địabàn lãnh thổ, đại

biểu cho quyền lợi nhân dân ở địa phương; đồng thời là một bộ phận của quyền lực nhà
nước thống nhất ở địa phương, là người đại diện cho nhà nước (Trung Uơng) ở địa
phương. Vì những lí do đó nên nhấtthiết phải kết hợp hai mặt: quản lí theo ngành và


quản lí theo lãnh thổ. Trên cơ sở phân định rõ chức năng quản lí, các quy định về
phâncông, phân cấp và xây dựng nội dung và mức độ thống nhất quản lí ngành cho từng
ngành theo đặc điểm ngành;nội dung và mức độ quản lí theo lãnh thổ; nội dung, mức độ
kết hợp quản lí theo ngành với quản lí theo lãnh thổ,nhằm phát huy cao độ nhất hiệu quả
sử dụng nguồn lực của cả nước, của từng vùng kinh tế, từng địa phương trong sự
nghiệpphát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm thống nhất lợi ích quốc gia và lợi ích từng địa
phương trong sự phát triển mộtcách có lợi nhất những lợi thế của địa phương. Sự kết
hợp và thống nhất hai mặt quản lí chủ yếu được thể hiện :1) Tổ chức điều hoà, phối hợp
các hoạt động của tất cả các đơn vị thuộc các ngành, các thành phần kinh tế, cáccấp
quản lí, cũng như các tổ chức văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng để phát triển nền
kinh tế quốc dân theomột cơ cấu hợp lí nhất, có hiệu quả nhất về ngành cũng như về
lãnh thổ. 2) Quản lí công việc chung của quốc giatrên phạm vi cả nước, cũng như trên
từng đơn vị hành chính - lãnh thổ kết hợp hài hoà lợi ích chung của cả nước,cũng như
lợi ích của địa phương. 3) Phục vụ tốt các hoạt động của tất cả các đơn vị nằm trên lãnh
thổ, như về kếtcấu hạ tầng, bảo vệ môi trường và tài nguyên, bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa, an ninh, trật tự công cộng,phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của dân cư
sống và làm việc trên lãnh thổ, bất kể là thuộc cơ quan, xínghiệp trung ương hay địa
phương.



×