Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.6 KB, 29 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. Tín dụng Ngân hàng Thương mại.
1.1.1. Khái niệm.
Tín dụng Ngân hàng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền
kinh tế hàng hoá. Nó tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, tuỳ theo
các cách tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra các khái niệm khác nhau về tín dụng
ngân hàng:
Theo định nghĩa hiện nay thì Tín dụng Ngân hàng Thương mại (NHTM) là
mối quan hệ giữa một bên là NHTM và một bên là khách hàng của ngân hàng dựa
trên nguyên tắc tin tưởng và hoàn trả. Trong đó Ngân hàng chuyển giao tiền hoặc tài
sản cho khách hàng trong một thời hạn nhất định, đồng thời bên nhận tiền hay tài sản
phải cam kết phải hoàn trả đầy đủ theo thời hạn và kèm theo phần lãi do hai bên thoả
thuận. Theo cách khác thì tín dụng ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời một
lượng giá trị dưới hình thức tiền tệ hay hiên vật từ NHTM sang người sử dụng sau đó
người sử dụng hoàn trả tại một thời điểm trong tương lai với lượng giá trị lớn hơn.
Như vậy, theo định nghĩa trên thì tín dụng NHTM được thể hiện qua các nội
dung sau:
- Ngân hàng sẽ chuyển giao cho khách hàng (người vay) một lượng giá trị
nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay dưới hình thái hiện vật như
hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản.
- Khách hàng (người đi vay) chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời
gian nhất định. Sau khi hết thời hạn theo thoả thuận phải hoàn trả lại cho ngân hàng
(người cho vay).
- Giá trị mà khách hàng hoàn trả lại cho ngân hàng thường lớn hơn giá trị lúc
vay, tức là khách hàng phải trả thêm lãi.
1.1.2. Phân loại tín dụng NHTM.
Theo các tiêu thức khác nhau thì có các cách phân loại tín dụng ngân hàng
khác nhau. Sau đây là các cách phân loại tín dụng ngân hàng phổ biến hiện nay:
* Căn cứ theo thời gian cho vay:
- Tín dụng ngắn hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường


nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc cho nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn. Nó bao
gồm các loại chính: bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp; chiết khấu chứng từ có
giá...
- Tín dụng trung hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
Loại tín dụng này thường được sử dụng để đầu tư mua sắp tài sản cố định, đổi mới
trang thiết bị, cải tiến kỹ thuật...
- Tín dụng dài hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín
dụng này chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn của khách hàng như:
xây dựng nhà xưởng, máy móc, thiết bị, những dự án có thời gian thu hồi vốn dài...
* Căn cứ vào hình thức bảo đảm:
- Tín dụng không có tài sản bảo đảm: Là hình thức tín dụng trong đó Ngân
hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần cầm cố, thế
chấp tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
- Tín dụng có tài sản bảo đảm: Là hình thức tín dụng trong đó khách hàng nếu
muốn được ngân hàng cho vay thì phải có tài sản để cấm cố, thế chấp hoặc sự bảo
lãnh của bên thứ ba được ngân hàng đồng ý.
* Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng:
- Chiết khấu thương phiếu: Là hình thức tín dụng mà khách hàng sẽ mang
thương phiếu còn hạn đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Nghiệp vụ chiết
khấu thương phiếu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và
những người ký tên trên thương phiếu.
- Cho vay:
+ Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với các khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện
để cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng
giấy đề nghị vay vốn và trình phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ tiến hành
phân tích khách hàng, xác định quy mô cho vay, thời hạn cho vay, thời hạn giải ngân,
lãi suất, tài sản đảm bảo nếu cần... và sau đó ký hợp đồng cho vay.
+ Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá.
Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải làm giấy đề nghị vay luân chuyển, sau đó

Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức cho
vay... Hạn mức cho vay có thể được thoả thuận trong một năm hoặc vài năm, đây
không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời gian để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ
với khách hàng. Vì thủ tục vay chỉ phải thực hiện một lần nên rất thuận tiện cho khách
hàng.
+ Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng thoả
thuận cấp cho khách hàng hạn mức cho vay. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối
kỳ, đó là số dư tại thời điểm tính.
+ Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách
hàng được chi trội vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định trong một thời hạn xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
+ Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay đã thoả thuận. Hình thức này
thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, hoặc cho vay đối với tiêu
dùng thông qua hạn mức nhất định.
+ Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Hình thức này thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người
vay phân tán, cách xa ngân hàng...
- Cho thuê tài sản (Cho thuê tài chính): Là hình thức tín dụng trung và dài hạn
thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và cá động sản
khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các
động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho
thuê cam kết mmua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác
theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê
sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê đã được hai bên
thoả thuận
- Bảo lãnh: Bão lãnh của Ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức
thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng
khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
1.1.3. Vai trò của tín dụng NHTM trong nền Kinh tế thị trường.

Tuỳ từng trình độ phát triển của mỗi nước mà vai trò của tín dụng NHTM có
khác nhau. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì vai trò của tín dụng
NHTM được thể hiện rõ nét, thể hiện qua các mặt sau:
* Tín dụng NHTM thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế để đưa vào đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh
doanh,góp phần tái sản xuất mở rộng nền kinh tế.
Vốn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong
bất kỳ nền kinh tế nào cũng có nguồn tiền nhàn rỗi và chưa được sử dụng, tín dụng
ngân hàng đã tập trung các nguồn tiền đó thông qua hoạt động huy động vốn của mình
theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi để có thể mang nguồn vốn đó cho các tổ chức, cá
nhân có nhu cầu vay vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
* Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất,
là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn.
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị
trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng để sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài
nguyên và sức lao động. Muốn phát huy thế mạnh về tài nguyên để chuyển hướng cơ
cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thì không thể thiếu vai trò của tín
dụng ngân hàng. Trong đó, tín dụng ngân hàng tạo nguồn vốn bằng cách huy động
tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt, phù hợp với tỉ lệ tăng
trưởng, tỷ lệ lạm phát để đầu tư vào các lĩnh vực, các công trình cần thiết cho đất
nước nhưng đang gặp khó khăn do thiếu vốn; Bên cạnh đó ngân hàng còn tập trung tín
dụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn mà sự phát triển của các ngành này
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của kinh tế đất nước.
* Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân
chuyển tiền tệ.
Sự phát triển của tín dụng NHTM làm tăng mạnh các hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, từ đó thúc đẩy lưu thông tiền tệ. Đây cũng là
một biện pháp hữu hiệu để kiềm chế lạm phát.
* Tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát
các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.

Sự vận động của tín dụng Ngân hàng cũng như việc quản lý tập trung thống
nhất công tác tín dụng đã tạo điều kiện cho nó phản ánh một cách tổng hợp và nhạy
bén mối quan hệ giữa quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với tình
hình hoạt động của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện pháp kịp thời phát
huy những nhân tố tích cực và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra để thúc đẩy phát
triển kinh tế. Như vậy, tín dụng ngân hàng được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế
không thể thiếu được trong cả công tác quản lý, kiểm soát các quá trình sản xuất, phân
phối sản phẩm xã hội và củng cố chế độ hạch toán kinh tế.
* Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại của đất
nước.
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay thì muốn kinh tế đất nước
phát triển nhanh, vững mạnh thì kinh tế đối ngoai đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Nhờ có tín dụng ngân hàng mà các thành phần kinh tế của đất nước đã có vốn, từ đó
nâng cấp, đổi mới máy móc thiết bị, tiến hành xuất khẩu hàng hoá ra thế giới. Như
vậy, tín dụng Ngân hàng đã trở thành cầu nối quan trọng giữa kinh tế trong nước và
kinh tế thế giới.
1.1.4. Quy trình tín dụng của NHTM.
Quy trình tín dụng là một tập hợp các thao tác, thủ tục mà cán bộ tín dụng
phải làm khi thực hiện xem xét một yêu cầu tín dụng của khách hàng. Quy trình tín
dụng là những quy định của cơ quan cấp trên quản lý Ngân hàng ban hành, buộc
Ngân hàng và cán bộ tín dụng phải tuân thủ. Quy trình tín dụng tại các NHTM bao
gồm các bước sau:
- Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và hồ sơ vay vốn. Cán
bộ tín dụng phải có trách nhiệm hướng dẫn đầy đủ, rõ ràng cho khách hàng về thể lệ
vay, tránh gây phiền hà cho khách hàng.
- Bước 2: Điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng và phương
án vay vốn. Những thông tin này phải được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau để
đảm bảo có được thông tin chính xác nhất, như là từ các bạn hàng, từ sự đánh giá của
cán bộ tín dụng, từ các tổ chức liên quan, thông tin từ thị trường, điều tra quốc tế...
- Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. Thẩm định

tư cách pháp nhân, các giai đoạn phát triển, thẩm định tình hình tài chính của Doanh
nghiệp.
- Bước 4: Thẩm định dự án đầu tư.
+ Thẩm định sự cần thiết của dự án.
+ Thẩm định phương tiện kỹ thuật, tổ chức quản lý tài chính.
Tuỳ theo từng món vay cụ thể mà cán bộ tín dụng cần xác định cụ thể nội
dung và phương pháp thẩm định thích hợp để vừa đảm bảo chất lượng và thời gian
thẩm định, tránh việc thẩm định quá rườm rà, phức tạp làm mất cơ hội kinh doanh của
khách hàng.
- Bước 5: Quyết định cho vay.
- Bước 6: Kiểm soát vốn cho vay và thu nợ gốc, lãi, tiền thuê.
1.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới đất
nước, đó là sự nghiệp đổi mới toàn diện, trên nhiều lĩnh vực... Trong đó đổi mới cơ
cấu kinh tế là một trong những ưu tiên quan trọng của Nhà nước. Phương hướng chủ
yếu nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế ở nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN, đây là bước phát triển mang tính quy luật trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(DNNQD) là doanh nghiệp mà trong đó Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ
(không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Bao gồm: Các doanh nghiệp tư nhân, công
ty cổ phần mà trong đó Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty hợp danh và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã.
1.2.2. Phân loại doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Có nhiều tiêu thức để phân loại các DNNQD, nhưng có các tiêu thức chủ yếu
sau:
* Phân loại theo loại hình doanh nghiệp, bao gồm các loại hình sau:
- Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu

trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả
các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp
được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất kỳ một loại
chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự
do. Nhưng việc chuyển nhượng vốn góp cho người không phải thành viên công ty
phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất ¾ số vốn điều lệ của
công ty. Có công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu
hạn 2 thành viên trở lên.
- Công ty cổ phần: Là công ty mà trong đó số thành viên được gọi là cổ đông
của công ty phải ít nhất là 3 người trong suốt quá trình hoạt động của công ty. Vốn
điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu,
lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để
phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu
quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần
phát triển đời sống của hộ gia đình cũng như phát triển kinh tế của địa phương, đất
nước.
* Phân loại theo ngành kinh doanh thì DNNQD bao gồm:
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực xây dựng.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng.
- DNNQD hoạt động trong lĩnh vực vận tải, bưu chính, viễn thông.
- DNNQD hoạt động trong các ngành dịch vụ khác.
* Phân loại theo quy mô doanh nghiệp thì DNNQD bao gồm:
- DNNQD có quy mô vừa và nhỏ: Là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký kinh doanh không quá
10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
- DNNQD có quy mô lớn: Là những doanh nghiệp có tính chất tư hữu, có số

vốn lớn hơn 10 tỷ đồng và số lao động lớn hơn 300 người.
1.2.3. Đặc điểm của DNNQD ở nước ta hiện nay.
1.2.3.1. DNNQD có số lượng lớn.
Trong những năm gần đây, doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNNQD
Việt Nam nói riêng đã tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp, số lượng lao động và
vốn. Năm 1991, một năm sau khi ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân,
tổng số DNNQD chỉ có 414 doanh nghiệp. Đến năm 1999, số lượng DNNQD đã tăng
lên con số 30.500 doanh nghiệp. Tính bình quân giai đoạn này, mỗi năm tăng khoảng
3.252 doanh nghiệp, tương ứng với tốc độ tăng 32%/ năm. Đến năm 2003, số lượng
DNNQD đã tăng lên 55.236 doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 88 % trong tổng số doanh
nghiệp ở nước ta.
1.2.3.2. DNNQD ở nước ta có quy mô lao động và quy mô vốn nhỏ bé.
Mặc dù có số lượng rất lớn nhưng độ tập trung vốn của khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh chưa cao, còn rời rạc, quy mô nhỏ bé. Số lượng DNNQD có quy mô vốn
lớn rất ít, hầu như không có. Theo số liệu thống kê thì năm 2005, số vốn của các
DNNQD chỉ chiếm 19% tổng số vốn của toàn bộ các doanh nghiệp hoạt động tại Việt
Nam.
* Xét về vốn sản xuất: Năm 2005, số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu
đồng chiếm khoảng 62,4% trong tổng số doanh nghiệp; số doanh nghiệp có số vốn
trên 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng chiếm khoảng 24,3%, còn lại là các doanh
nghiệp có số vốn trên 1 tỷ đồng. Tuy những năm gần đây, số vốn bình quân của một
DNNQD đã tăng lên, đạt được gần 5 tỷ đồng/doanh nghiệp, nhưng so với số vốn bình
quân của một doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là khoảng 170 tỷ đồng, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài là khoảng 145 tỷ đồng thì số vốn bình quân của DNNQD
quá nhỏ bé.
* Xét về số lượng lao động: Số lao động trong các DNNQD vào khoảng 1,9
triệu người, chiếm 37% tổng số lao động của toàn khu vực doanh nghiệp nhưng so với
tỷ lệ số DNNQD trong tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam thì có thể thấy số lao động
bình quân của một DNNQD là thấp.
Như vây, phần lớn các DNNQD ở Việt Nam là thuộc loại hình doanh nghiệp

vừa và nhỏ. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh chỉ mới thực sự tồn tại và phát triển trong khoảng thời gian chưa dài, do đó
chưa có điều kiện tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất và quy mô.
1.2.3.3. Trình độ quản lý và công nghệ sản xuất lac hậu, thấp kém.
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi
người quản lý không những phải có trình độ mà còn phải có kinh nghiệm dày dạn. Bởi
vì nền kinh tế nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường nên những kiến thức về kinh
tế, về quy luật kinh doanh không phải ai cũng nắm bắt được; mặt khác cũng bởi vì các
trường đào tạo quản lý kinh doanh và quản lý pháp luật còn quá thiên về phương pháp
lý thuyết mà ít chú ý tới phương pháp giải quyết các vấn đề thực tế, mặt khác chi phí
đào tạo quản lý nói chung còn rất cao. Từ những lý do trên làm cho trình độ quản lý
của DNNQD còn thấp, gây ra nhiều khó khăn trong việc quản lý kinh doanh của
doanh nghiệp. Những người quản lý ở các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn
trong công tác tổ chức nhân sự, trong việc hoạch định kế hoạch cũng như phân tích dự
án, cơ hội đầu tư. Việc thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý tài chính
trong các doanh nghiệp này còn chưa được nghiêm túc, chính vì thế mà họ gặp nhiều
khó khăn khi muốn tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng.
Công nghệ sản xuất của các DNNQD đã trở nên lạc hậu. Theo điều tra thì ở
các DNNQD hiện nay chỉ có 20% thiết bị hiện đại, 55% thiết bị ở mức trung bình, còn
lại là thiết bị lạc hậu. Riêng ngành công nghiệp sản xuất, chế tạo thì có đến 60% máy
móc, thiết bị lạc hậu từ những năm 60. Nguyên nhân của tình trạng này là do vốn đầu
tư ban đầu của các DNNQD thường thấp, họ lại gặp nhiều khó khăn trong việc vay
vốn tín dụng trung và dài hạn cần thiết cho việc đầu tư nâng cấp công nghệ. Ngoài ra
các DNNQD không được tiếp cận đầy đủ với những dịch vụ tư vấn để có sự hỗ trợ
trong việc xác định công nghệ tương xứng và thích hợp với khả năng tài chính nhằm
hoàn thiện trình độ sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của mình. Chính vì những lý
do trên mà hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNQD thường rất thấp và năng lực
cạnh tranh trong thị trường trong nước cũng như ngoài nước cũng bị suy giảm.
1.2.3.4. Các DNNQD tuy hoạt động linh hoạt song thường kém hiệu quả.
Các DNNQD hoạt động năng động, thích nghi cao với thị trường, dễ dàng

chuyển đổi, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, hầu hết các DNNQD hiện nay
làm ăn theo kiểu manh mún, chộp giật mà không tính đến lợi ích lâu dài của doanh
nghiệp mình. Nhiều doanh nghiệp khi có cơ hội thì họ tận dụng, khai thác tối đa nhất,
triệt để nhất các lợi ích trước mắt mà không có tính toán chiến lược lâu dài. Điều đó

×