Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DNVVN NQD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.54 KB, 85 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong tiến trình phát triển kinh tế của mình, nhiều quốc gia đã nhận thấy
sức sống và tính năng động của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) trong nền
kinh tế thị trường; chính hiệu quả của các doanh nghiệp này đã góp phần tạo nên
sức mạnh kinh tế của các quốc gia phát triển và các nước công nghiệp mới
(NICs).
Đánh giá đúng tiềm năng và vai trò to lớn của DNVVN trong sự nghiệp
phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách khuyến khích
và kích thích tăng trưởng của các DNVVN, không phân biệt thành phần kinh tế
hay loại hình sở hữu. Mặc dù, trong những năm qua, DNVVN đã đạt được
những kết quả rất khả quan; nhưng trên thực tế, các DNVVN, đặc biệt là đối với
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) còn gặp nhiều khó khăn, trong
đó có việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tuy nhu cầu về vốn để
mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
(DN) là rất lớn song các DN chủ yếu huy động vốn thông qua thị trường tài
chính phi chính thức (vốn tự có của chủ DN, vay mượn bạn bè, hoặc vay nặng
lãi...) còn vốn tín dụng Ngân hàng rất ít hoặc DN có vay được thì chủ yếu vẫn là
tín dụng ngắn hạn.
Sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh NHCT Hưng Yên, được sự
hướng dẫn nhiệt tình của các cán bộ Phòng Kinh doanh -Tổng hợp, được tìm
hiểu về hoạt động của phòng, đặc biệt là qua quá trình tìm hiểu về nghiệp vụ cho
vay đối với DNVVN NQD hoạt động trên địa bàn tỉnh của Chi nhánh NHCT
Hưng Yên, em nhận thấy: hoạt động tín dụng đối với DNVVN NQD của Chi
nhánh NHCT Hưng Yên trong những năm qua tuy đã đạt được một số kết quả
đáng ghi nhận song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn rất lớn của các
DNVVN NQD hoạt động trên địa bàn tỉnh. Mặc dù hoạt động cho vay đối với
DNVVN NQD đã được Ban Giám đốc Chi nhánh và lãnh đạo Phòng Kinh
doanh quan tâm, bên cạnh đó là sự đổi mới tư duy của các cán bộ trong phòng;
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368


song đây là nhóm đối tượng khách hàng có tiềm năng rất lớn mà NHCT Hưng
Yên vẫn chưa khai thác thực sự hiệu quả.
Trong thời gian tới, Chi nhánh cần có sự quan tâm hơn nữa và cần xây
dựng một chính sách tín dụng hợp lý để mở rộng cho vay, và qua đó có thể khai
thác tốt hơn tiềm năng của các DNVVN NQD. Chính vì những lý do nêu trên
mà sau một thời gian thực tập tại phòng Kinh doanh của Chi nhánh NHCT Hưng
Yên, em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho báo cáo thực tập chuyên đề
là: “Mở rộng cho vay đối với DNVVN NQD tại Chi nhánh NHCT Hưng Yên”.
Bài viết gồm 3 chương:
- Những vấn đề cơ bản của TDNH đối với DNVVN ngoài quốc doanh.
- Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN ngoài quốc doanh tại
Chi nhánh NHCT Hưng Yên.
- Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN NQD tại NHCT
Hưng Yên.
Trong thời gian thực tập tại NHCT Hưng Yên, em đã nhận được sự quan
tâm, tạo điều kiện hết sức thuận lợi của Ban Giám đốc Chi nhánh, của lãnh đạo
Phòng Kinh doanh - Tổng hợp; đồng thời, trong thời gian qua, em đã được các
cán bộ trong phòng nhiệt tình chỉ bảo và hướng dẫn một số nghiệp vụ tín dụng
với một không khí rất cởi mở, chân tình. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
Ban Giám đốc, lãnh đạo phòng, cùng với tập thể cán bộ của Chi nhánh NHCT
Hưng Yên nói chung và các cán bộ Phòng Kinh doanh - Tổng hợp nói riêng đã
giúp đỡ, tạo điều kiện để em hoàn thành kỳ thực tập và làm tốt bài báo cáo của
mình.
Em xin gửi lời cảm ơn PGS.TS.Lê Đức Lữ, người đã rất tận tâm hướng
dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài báo cáo này.
Do kiến thức còn hạn chế, nên bài viết của em không tránh khỏi những
khiếm khuyết; kính mong Ban Giám đốc, lãnh đạo phòng và tập thể cán bộ Chi
nhánh NHCT Hưng Yên, kính mong Quý thầy, cô góp ý và chỉ bảo thêm để em
hoàn chỉnh bài viết của mình.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG ĐỐI VỚI DNVVN NQD
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM,
phản ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Tín dụng là hoạt động tài trợ của
ngân hàng cho khách hàng; đây là hoạt động sinh lời lớn nhất song cũng chịu rủi
ro cao nhất.
1.1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Vốn là điều kiện không thể thiếu để một DN thành lập và tiến hành hoạt
động sản xuất - kinh doanh. Nguồn vốn của một doanh nghiệp luôn bao gồm hai
phần: vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. Tuy nhiên, việc lựa chọn cơ cấu của
nguồn vốn như thế nào là phụ thuộc vào sự ổn định của nền kinh tế, các chính
sách kinh tế vĩ mô, quan điểm của chủ DN...
- Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm: vốn góp ban đầu (vốn điều
lệ), lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu, các quỹ...
+ Vốn góp ban đầu: Khi thành lập DN bao giờ chủ DN cũng phải có một
số vốn ban đầu nhất định, đối với các DNNQD hoạt động theo Luật doanh
nghiệp thì chủ doanh nghiệp phải có một số vốn nhất định để xin đăng kí thành
lập DN (các chủ DN tham gia góp vốn, phát hành cổ phiếu...)
+ Lợi nhuận không chia: lợi nhuận không chia của DN thực chất là phần
lợi nhuận cộng dồn để lại của DN; tuy nhiên, trong quá trình hoạt động sản xuất
- kinh doanh, nếu DN hoạt động có hiệu quả thì DN mới có điều kiện để tăng
nguồn vốn. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia - nguồn vốn nội bộ - là phương
thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn vì DN giảm được chi phí,
giảm bớt sự phụ thuộc bên ngoài; vì vậy, các biện pháp làm tăng lợi nhuận của
DN như các biện pháp miễn giảm thuế thu nhập cũng góp phần làm tăng vốn tự
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Website: Email : Tel : 0918.775.368
có của DN. Rất nhiều DN coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại; tuy
nhiên, không phải lúc nào DN cũng có thể dùng lợi nhuận không chia để tài trợ
cho dự án, phương án sản xuất - kinh doanh của mình vì phần lợi nhuận không
chia không đáng kể hoặc không đáp ứng được nhu cầu về vốn.
- Nguồn vốn vay và các khoản nợ gồm: tín dụng thương mại, tín dụng
Ngân hàng, phát hành trái phiếu.
+ Tín dụng thương mại được hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ
mua bán chịu, mua bán trả chậm hoặc trả góp, chi phí của tín dụng thương mại
“ẩn” ngay trong mức giá. Tín dụng thương mại tuy là phương thức tài trợ rẻ, tiện
dụng và linh hoạt song nếu quy mô tài trợ quá lớn thì tính chất rủi ro cũng sẽ rất
lớn.
+ Phát hành trái phiếu: Trái phiếu là một công cụ huy động vốn dài hạn,
lãi suất trái phiếu chính là chi phí vốn của việc huy động vốn thông qua phát
hành trái phiếu. Tuy nhiên, ngay cả ở những nước có thị trường tài chính phát
triển như Mỹ, Singapore...thì phát hành chứng khoán cũng không phải là biện
pháp hàng đầu để DN tài trợ cho hoạt động của họ. Chỉ có các công ty có uy tín
và năng lực tài chính vững mạnh, đáp ứng đầy đủ các điều kiện thì mới được
quyền phát hành trái phiếu; các DN nhỏ không được thiết lập vững chắc trên thị
trường hầu như không bao giờ “gom” đủ vốn bằng cách phát hành chứng khoán.
Vì vậy, Ngân hàng vẫn là nguồn vốn bên ngoài quan trọng để tài trợ cho các
DN.
+ Tín dụng Ngân hàng: Với điều kiện VCSH thấp, thị trường tài chính
chưa phát triển thì việc các DN coi nguồn vốn tín dụng Ngân hàng là hình thức
huy động vốn chủ yếu là một tất yếu. Tín dụng Ngân hàng không chỉ giúp các
DN cân đối cơ cấu vốn, đảm bảo một cơ cấu vốn hợp lý mà đối với những DN
có tỷ lệ nợ thấp thì có thể sử dụng nợ như một phương pháp để tiết kiệm thuế
thu nhập doanh nghiệp, từ đó tăng lợi nhuận sau thuế (sở dĩ như vậy là vì doanh
nghiệp được phép khấu trừ lãi vay vào lợi nhuận trước thuế của họ). Các DN
thường cố gắng cân bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu để giữ vững khả năng thanh

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
toán, củng cố uy tín tài chính. Khi tỷ lệ nợ ở mức thấp, nếu cần vốn thì các công
ty thường chọn cách vay Ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu, tức là tăng tỷ lệ
nợ; nếu tỷ lệ nợ ở mức cao thì các DN phải tránh tăng tỷ lệ nợ bằng cách phát
hành cổ phiếu hoặc cố gắng dùng lợi nhuận không chia. Tuy nhiên, các DN
thường không quan tâm nhiều đến việc giữ một mức cân bằng nhất định mà việc
điều chỉnh vốn chủ sở hữu và các khoản nợ thường tuỳ thuộc vào thực tế tình
hình sản xuất - kinh doanh và các điều kiện khác.
Như vậy, có thể thấy vai trò quan trọng của tín dụng Ngân hàng đối với
các DN của Việt Nam trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển và
hoạt động chưa hiệu quả. Đối với các DNVVN NQD thì tín dụng Ngân hàng lại
càng quan trọng bởi trong các loại hình DNNQD thì: Công ty hợp danh và công
ty tư nhân không được quyền phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào; Công
ty cổ phần, công ty TNHH có quyền phát hành trái phiếu, song không phải DN
nào cũng có thể thu hút được công chúng mua trái phiếu, vì nhà đầu tư phải
đánh giá uy tín của DN rồi mới quyết định: mua hay không; các DN vững mạnh
và có uy tín trên thị trường thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra
công chúng để thu hút vốn. Trên thực tế, điều kiện để phát hành trái phiếu cũng
khá phức tạp, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính hiện nay của Việt Nam;
ngoài ra do đa số DNVVN có thời gian hoạt động chưa lâu nên chưa tạo được
uy tín trên thị trường, để có thể phát hành trái phiếu đối với các DN NQD, nhất
là các DNVVN là một việc rất khó khăn, chi phí lớn và mất thời gian; vì vậy,
với yêu cầu về vốn phải nhanh chóng, kịp thời thì tín dụng Ngân hàng là một
giải pháp tốt.
Đồng thời, trong điều kiện mà thị trường tài chính chưa phát triển và hoạt
động chưa hiệu quả thì nguồn vốn tự có của DN là tương đối quan trọng trong
việc mở rộng sản xuất - kinh doanh; tuy nhiên, ở nước ta nguồn vốn này còn rất
hạn chế; vì vậy mà khi cần vốn thì các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN
NQD nói riêng chủ yếu vẫn dựa vào nguồn vốn trên thị trường tài chính “phi

chính thức” (nguồn lực vốn và tài sản tự thân, vốn góp của các thành viên, vay
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của người thân, bạn bè hoặc đi “vay nóng”, vay trả góp với lãi suất cao...), với
lượng vốn “cấu vá” từ nhiều nguồn nhỏ lẻ khác nhau thì tính chất không ổn định
là khá rõ ràng, ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch mở rộng sản xuất - kinh doanh
của DN; nguồn vốn vay từ Ngân hàng còn chưa được tận dụng hiệu quả, các
DNVVN NQD tuy thiếu vốn để đầu tư sản xuất - kinh doanh song rất khó tiếp
cận với các nguồn tài chính chính thức; tuy vay Ngân hàng là phương thức huy
động vốn dài hạn mà các DN Việt Nam áp dụng phổ biến nhất, song không phải
bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận được với nguồn vốn này và khả
năng vay cũng bị hạn chế so với quy mô hiện tại của doanh nghiệp và nhu cầu
của dự án, phương thức sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp theo đuổi.
Có thể nói: không có doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng nếu
doanh nghiệp đó muốn tồn tại và phát triển bền vững trên thị trường.Tín dụng
ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với phát triển của các DNVVN NQD,
điều này được thể hiện ở các đặc điểm sau:
- Nâng cao hiệu quả dụng vốn: khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng, DN
phải tôn trọng các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng (HĐTD), bảo
đảm trả nợ một cách đầy đủ và đúng hạn, đồng thời phải tôn trọng các điều
khoản khác của hợp đồng cho dù DN sản xuất - kinh doanh hiệu quả hay không.
Ngân hàng chỉ cho vay khi đã thẩm định đầy đủ về tư cách pháp lý của DN và
các điều kiện khác, tất cả phải chứng minh được rằng DN kinh doanh có hiệu
quả, khả năng tài chính lành mạnh và có khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Vì vậy,
ngay từ khi thành lập phương án sản xuất - kinh doanh, DN đã phải cân nhắc
"sản xuất - kinh doanh cái gì”, “bằng cách nào”, “đầu vào và đầu ra như thế
nào”, không chỉ quan tâm tới việc thu hồi đủ vốn mà DN còn phải quan tâm đến
việc sử dụng vốn như thế nào cho hiệu quả, để có thể tăng nhanh vòng quay vốn,
đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất đi vay Ngân hàng thì mới đảm bảo có
lãi sau khi trả lãi cho Ngân hàng. Trong quá trình cho vay, Ngân hàng cũng phải

tiến hành kiểm soát trước, trong và sau khi DN thực hiện dự án để đảm bảo DN
sử dụng vốn đúng mục đích, đồng thời có thể phát hiện những yếu kém của dự
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
án và qua đó có thể tư vấn cho DN về những biện pháp khắc phục nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
- Tín dụng Ngân hàng đảm bảo cho DN hoạt động liên tục: tín dụng Ngân
hàng giúp cho DN đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị, trang trải
chi phí cần thiết phục vụ cho quá trình sản xuất - kinh doanh và phát triển DN.
Trong quá trình hội nhập, khi mà sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, DN muốn tồn
tại và phát triển thì phải thường xuyên cải tiến kĩ thuật, đầu tư mới công nghệ,
thay đổi mẫu mã, nghiên cứu tạo ra những sản phẩm mới; song trên thực tế,
không có DN nào có đủ 100% vốn đảm bảo nhu cầu phát triển sản xuất - kinh
doanh; vì vậy, để có thể mở rộng sản xuất - kinh doanh và phát triển thì DN chủ
yếu vẫn phải dựa vào tín dụng Ngân hàng.
1.1.3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng
1.1.3.1. Phân theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân hàng, vì
thòi gian liên quan mật thiết tới tính an toàn và sinh lời cũng như khả năng hoàn
trả của khách hàng.
Phân theo thời gian, tín dụng phân thành:
- Tín dụng ngắn hạn: là các khoản tín dụng có thời gian dưới 12 tháng,
nhằm tài trợ cho tài sản lưu động, hoặc nhu cầu vốn ngắn hạn.
- Tín dụng trung hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến
5 năm, thường dùng để tài trợ cho các tài sản cố định như: phương tiện vận tải,
trang thiết bị chóng hao mòn hay một số loại cây trồng vật nuôi...
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm, dùng để tài trợ cho các công
trình xây dựng như: nhà cửa, cầu đường... hay các loại máy móc, thiết bị có giá
trị lớn, có thời gian sử dụng lâu, khấu hao chậm.
1.1.3.2. Phân theo hình thức cấp tín dụng

Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, điều 49 quy định: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá
nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước”.
Theo hình thức tài trợ, tín dụng phân thành: cho vay, cho thuê, bảo lãnh,
chiết khấu thương phiếu.
- Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng, là hình thức tín
dụng mà Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng và khách hàng cam kết hoàn trả
gốc và lãi trong khoảng thời gian nhất định. Cho vay gồm rất nhiều hình thức đa
dạng, như: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay thấu chi,
cho vay luân chuyển...
+ Cho vay từng lần: là hình thức cho vay áp dụng đối với đối tượng là
khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, hoặc không đủ điều kiện
để được cấp hạn mức tín dụng; mỗi lần vay vốn, khách hàng phải làm đơn, trình
Ngân hàng phường án sử dụng vốn; Ngân hàng và khách hàng thoả thuận về các
điều khoản của hợp đồng tín dụng và làm các thủ tục vay vốn cần thiết. (Số tiền
vay vốn bằng tổng nguồn vốn của dự án trừ đi vốn chủ sở hữu hoặc vốn tự có,
vốn khác tham gia).
+ Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh dịch vụ và phục vụ đời
sống. Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định nhằm thực
hiện dự án nhất định thì khách hàng phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế
hoạch đầu tư và quá trình thực hiện dự án; qua đó, Ngân hàng sẽ thẩm định để
đưa ra quyết định cuối cùng.
STCV = Tổng nhu cầu vốn của dự án - VCSH và các nguồn vốn khác tham gia
+ Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên việc luân chuyển
hàng hoá của DN; DN thiếu vốn, khi muốn mua hàng hoá thì có thể vay Ngân

hàng, khi DN bán hàng thì Ngân hàng sẽ thu nợ. Cho vay luân chuyển thường áp
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dụng đối với DN thương nghiệp hoặc DN sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn, có
quan hệ vay - trả thường xuyên với Ngân hàng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: áp dụng đối với các khách hàng có nhu
cầu vốn thường xuyên hoặc có đặc điểm sản xuất - kinh doanh không phù hợp
với phương thức cho vay từng lần.
Hạn mức tín dụng được xác định căn cứ vào phương án, kế hoạch sản
xuất - kinh doanh, nhu cầu vay vốn, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản đảm
bảo tiền vay theo quy định của NHCT Việt Nam và khả năng nguồn vốn của
Ngân hàng để tính toán và thoả thuận với khách hàng một hạn mức tín dụng duy
trì trong một thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất - kinh doanh; trong
suốt thời gian duy trì hạn mức tín dụng, khách hàng được quyền rút vốn phù hợp
với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế nhưng phải đảm bảo không vượt quá
hạn mức đã ký; mỗi lần rút vốn, khách hàng phải trình bày phương án sử dụng
tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá, dịch vụ và lập một
giấy nhận nợ với Ngân hàng.
Hạn mức tín dụng có thể cấp cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Trong kỳ khách
hàng có thể vay - trả nhiều lần song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín
dụng, nếu quy định hạn mức tín dụng cuối kỳ thì trong kỳ dư nợ DN có thể vượt
hạn mức tín dụng nhưng đến cuối kỳ thì DN phải trả nợ để dư nợ nhỏ hơn hạn
mức đã được cấp.
+ Cho vay thấu chi: Ngân hàng thoả thuận bằng văn bản với khách hàng,
qua đó Ngân hàng chấp thuận cho khách hàng chi vượt mức số tiền có trên tài
khoản thanh toán phù hợp với các quy định của Chính phủ và NHNN về hoạt
động thanh toán qua các tổ chức tín dụng cung ứng dịch vụ thanh toán.
- Cho thuê tài sản: là việc Ngân hàng bỏ tiền để mua tài sản và cho khách
hàng thuê với những thoả thuận nhất định, trong đó bao gồm việc khách hàng
phải hoàn trả gốc và lãi cho Ngân hàng. Cho thuê tài chính áp dụng trong trường

hợp khách hàng không đủ (hoặc chưa đủ) điều kiện để vay; để mở rộng tín dụng,
Ngân hàng mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê; tài
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng, Ngân hàng có thể thu hồi
khi khách hàng không trả được nợ.
- Bảo lãnh: là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
thay khách hàng của mình, khi khách hàng không thực hiện đúng các nghĩa vụ
đã cam kết.
- Chiết khấu thương phiếu: là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng
khi sở hữu thương phiếu chưa đến hạn.
1.1.3.3. Phân theo phương thức tài trợ
- Cho vay kinh doanh: là các khoản cho các doanh nghiệp, các hộ kinh
doanh cá thể vay để phục vụ hoạt động sản xuất - kinh doanh như: mua tài sản
cố định, mua nguyên vật liệu, mua hàng hoá...
- Cho vay tiêu dùng: là các khoản tín dụng mà Ngân hàng cấp cho khách
hàng là các cá nhân, hộ gia đình để mua nhà, mua các tài sản có giá trị...
- Cho vay khác
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DNVVN NQD
1.2.1. Các khái niệm và phân loại
1.2.1.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Khái niệm
Theo Nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 thì
DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đăng ký kinh doanh theo pháp
luật hiện hành, có số vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng và số lao
động trung bình hàng năm không quá 300 người.
b. Các tiêu thức phân loại
Quy mô DN được xác định dựa trên các tiêu chí: nguồn vốn kinh doanh,
quy mô lao động, doanh thu thuần và giá trị nộp Ngân sách Nhà nước.

- Lao động: là số lao động thực tế được sử dụng tính bình quân trong 3
năm gần nhất.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Giá trị nộp Ngân sách: lấy theo số thực nộp vào Ngân sách Nhà nước
theo số phát sinh trong kỳ, bao gồm các loại thuế và các khoản nộp khác theo
quy định của Nhà nước trong năm báo cáo (không tính các khoản thuế xuất nhập
khẩu, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, các khoản tiền phát,
phụ thu).
1.2.1.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
a. Khái niệm
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là doanh nghiệp là doanh nghiệp có
tính chất tư hữu (không kể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Các loại
hình DNNQD chủ yếu là: Công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh và
doanh nghiệp tư nhân.
b. Các loại hình DN NQD
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005, các loại hình doanh nghiệp ngoài
quốc doanh bao gồm:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
- Công ty cổ phần
- Công ty hợp danh
- Doanh nghiệp tư nhân
Trong tất cả các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì chỉ có công
ty cổ phần là có quyền phát hành cổ phiếu, còn lại tất cả các doanh nghiệp khác
đều không có quyền phát hành cổ phiếu. Mặt khác, công ty Cổ phần, công ty
TNHH, doanh nghiệp tư nhân cũng có quyền phát hành trái phiếu song điều kiện

để các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng rất khó khăn bởi trên
thực tế, các doanh nghiệp này hầu hết đều có quy mô vừa và nhỏ, thời gian hoạt
động chưa lâu và chưa có uy tín trên thị trường.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.2. Đặc điểm của DNVVN NQD
DNVVN NQD là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và
nhỏ. Tại Việt Nam, đa số các DNNQD đều có quy mô vừa và nhỏ; vì vậy, đặc
điểm của DNVVN NQD cũng chính là đặc điểm của các DNVVN nói chung.
Thứ nhất, đặc điểm nổi bật của các DNVVN chính là quy mô vốn ban đầu
thấp, vốn ban đầu để thành lập doanh nghiệp là do các thành viên góp vốn, do
vậy có quy mô không lớn, hiện tiềm lực tài chính của khu vực này rất bé, số vốn
chủ sở hữu bình quân chỉ khoảng 1.800 triệu đồng. Các DNVVN luôn gặp khó
khăn do chính quy mô vừa và nhỏ của mình, chính đặc điểm này đã dẫn tới hệ
quả là hầu hết các DNVVN sử dụng trang thiết bị, công nghệ lạc hậu nên sản
phẩm hàng hoá - dịch vụ sản suất ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm
lượng chất xám ít, không có tính ổn định và khả năng cạnh tranh không cao,
không thích ứng được với nhu cầu của thị trường, nhất là thị trường thế giới; hầu
hết sản phẩm tạo ra không có tính định hướng lâu dài trong kinh doanh và DN
thường xuyên thay đổi ngành nghề và cơ cấu mặt hàng, các mặt hàng phong phú
về chủng loại song số lượng không lớn. Mặt khác, cũng chính vì phần lớn công
nghệ mà các DNVVN sử dụng đã lạc hậu hàng chục năm, thậm chí vài chục
năm nên không thể nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm và thường gây
ra ô nhiễm môi trường, và đây cũng là nguyên nhân chính của tình trạng lãng
phí trong sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu.
Các DN muốn mua sắm thiết bị, đổi mới công nghệ song do vốn chủ sở
hữu thấp, tín dụng Ngân hàng thì khó tiếp cận, không phải DN nào cũng có thể
tiếp cận được với tín dụng Ngân hàng; ngay cả khi có thể vay Ngân hàng thì
nhiều khi số vốn vay được và thời gian vay cũng chưa thực sự phù hợp với thời
hạn của dự án. Trong một cuộc hội thảo về vai trò và thực trạng của các

DNVVN, 2/3 số Giám đốc của các DNVVN cho rằng: đôi khi các DNVVN
cũng tiếp cận được với tín dụng Ngân hàng song chỉ là ngắn hạn, tín dụng dài
hạn để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng là rất khó, có tới 80% số
các khoản tín dụng là ngắn hạn; điều này chủ yếu là do để đầu tư cho máy móc,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trang thiết bị thì cần nguồn vốn dài hạn trong khi nguồn vốn của Ngân hàng chủ
yếu là không kỳ hạn và ngắn hạn nên thường không đáp ứng được nhu cầu của
các DN.
Thứ hai, các DNVVN tuy hoạt động linh hoạt nhưng kém hiệu quả. Cơ sở
sản xuất của đại đa số DNVVN thường phân tán, quy mô nhỏ lẻ, manh mún,
thường sử dụng đất đai, nhà ở của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng sản
xuất - kinh doanh. Hiện nay, đa số các DNVVN làm ăn có hiệu quả muốn mở
rộng sản xuất - kinh doanh đều nằm trong tình trạng thiếu đất làm mặt bằng;
việc xin cấp đất của các DNVVN bị cản trở bởi hồ sơ, thủ tục vẫn còn khá phức
tạp. Trước sức ép của thời buổi “tấc đất, tấc vàng”, có chủ DN đã phải thốt lên:
“Nghĩ đến việc xin cấp đất, thuê đất tôi như nhìn thấy trên con đường có những
tấm rào không thể vượt qua”. Mặt khác, với đặc điểm sản xuất nhỏ lẻ, phân tán,
đó vừa là lợi thế song cũng tạo nên những khó khăn cho các DNVVN. Lợi thế
của việc sản xuất phân tán, quy mô nhỏ là có thể hoạt động được ở những vùng
dân cư sống phân tán, len lỏi vào những khu vực thị trường “ngách” mà các DN
lớn bỏ qua, lĩnh vực hoạt động đa dạng, phong phú, cũng chính vì vậy mà có thể
dễ dàng thay đổi ngành nghề, lĩnh vực hoạt động để chuyển sang các ngành
nghề, lĩnh vực khác có lợi hơn khi thị trường có những biến động, chi phí rút lui
khỏi thị trường thấp, dễ chuyển địa điểm kinh doanh hơn các DN lớn; tuy nhiên
cũng chính vì điều này làm cho DN khó đương đầu với những biến động bất ngờ
của thị trường, nếu không thực sự mạnh thì sẽ bị thị trường đào thải. Các
DNVVN thường không có chiến lược kinh doanh dài hạn mà chỉ làm ăn chạy
theo phong trào, khi thấy có cơ hội thì tận dụng tối đa, triệt để nhất mọi nguồn
lực để thu được lợi nhuận trước mắt mà không tính đến lâu dài.

Thứ ba, các DNVVN cũng thường phải chịu thiệt thòi, phải gánh chịu
những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng không chỉ ở thị trường
trong nước mà còn trên thị trường thế giới. Phần lớn các DNNQD hiện nay hoạt
động trong tình trạng thiếu cập nhật thông tin về các cơ chế chính sách mới ban
hành cũng như thông tin về các thị trường đầu vào như: thị trường vốn, thị
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường nguyên vật liệu, thị trường công nghệ, thiết bị kỹ thuật..; thiếu thông tin
về thị trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là thị trường xuất khẩu và chưa tiếp cận
được với công nghệ thông tin trong quản lý DN. Trong điều kiện hiện nay, khi
chúng ta đang trên đường hội nhập với thế giới, Việt Nam đang rất tích cực đàm
phán để gia nhập WTO trong năm na, thì các DNVVN càng cần phải nâng cao
trình độ tiếp cận thông tin, nhất là thông tin về các quy định của pháp luật ở
trong và ngoài nước, bởi gia nhập WTO cũng có nghĩa là cạnh tranh sẽ không
ngừng tăng lên, các tranh chấp thương mại trên thị trường sẽ xảy ra ngày càng
nhiều hơn và khốc liệt hơn. Khi Việt Nam gia nhập WTO, các DNVVN chính là
lực lượng tiên phong, được hưởng lợi và cũng là lực lượng chịu sự cạnh tranh
khốc liệt nhất; tuy nhiên, cho đến thời điểm này, khi mà Việt Nam đã đứng
trước ngưỡng cửa của WTO thì các DN thuộc khu vực này vẫn chưa có sự
chuẩn bị tích cực.
Theo ông Lý Đình Sơn - Phó Chủ tịch Hiệp hội DNVVN của Việt Nam -
“khi các DN có quan hệ làm ăn chặt chẽ với các đối tác nước ngoài thì cũng là
lúc các vụ kiện thương mại tăng lên; trong đó các vụ kiện bán phá giá giày dép,
cá tra, cá basa, hay mới đây là vụ Liên minh Châu Âu kiện các DN Việt Nam
bán phá giá xe đạp và các vụ kiện do giao hàng chậm...mà các DN Việt Nam
gặp phải trong thời gian qua là những ví dụ điển hình. Trong bối cảnh như vậy,
ngoài việc tự tăng cường kiến thức hội nhập, kiến thức về luật pháp quốc tế, các
DNVVN Việt Nam cũng nên hợp tác với nhau. Có một sự thật là các DN Việt
Nam có chung lợi ích rất ngại hợp tác với nhau, mà lại thường cạnh tranh làm
cho vấn đề càng trở nên phức tạp, trong khi phía đối tác nước ngoài thì hoàn

toàn ngược lại”.
Do quy mô nhỏ nên mô hình tổ chức của các DNVVN rất gọn nhẹ, số
lượng lao động không nhiều, không có quá nhiều các khâu trung gian nên hoạt
động năng động, dễ thích nghi với những thay đổi của thị trường, dễ dàng
chuyển đổi; các quyết định, chỉ đạo nhanh chóng đến với người lao động, giảm
độ “trễ” do các khâu trung gian tạo ra, công tác kiểm tra, giám sát cũng nhanh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chóng và hiệu quả hơn; điều này làm giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động của
DN đồng thời. Tuy nhiên, cũng chính vì quy mô nhỏ nên nhiều DN chưa quan
tâm đến việc xây dựng nội quy lao động để đưa người lao động vào một “khuôn
khổ, quy củ” nhất định; có DN xây dựng nhưng chỉ để lấy lệ, chưa kiểm tra chặt
chẽ. Việc thực hiện các nội quy này việc xây dựng nội quy trong mỗi DN là rất
quan trọng vì điều này không chỉ giúp tăng kỷ luật lao động mà còn giúp người
lao động hiểu được nhiệm vụ của mình và cũng qua đó để DN xác định mức độ
hoàn thành công việc của người lao động; vì vậy, các DN cần quan tâm hơn nữa
đến việc này.
Thứ tư, các doanh nhân, các nhà quản lý DN chưa được đào tạo bài bản về
chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu hiểu biết đầy đủ về quản trị doanh nghiệp hiện đại
trong điều kiện hội nhập kinh tế nên trình độ quản lý chưa cao; các DN chủ yếu
do chủ DN đứng ra làm giám đốc, có rất ít thuê giám đốc để quản lý, các chủ
DN quản lý DN chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Văn hoá lãnh đạo quản lý là nhân
tố then chốt, trực tiếp quyết định khả năng phát triển kinh tế - xã hội. Trong lịch
sử cũng như hiện nay, sự thịnh - suy của một quốc gia hay một DN... suy cho
cùng bao giờ cũng có nguồn gốc trực tiếp từ sự quản lý của nhà lãnh đạo. Yếu tố
con người, nhất là những người giữ vai trò lãnh đạo có ý nghĩa rất quan trọng;
các nước như: Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc... đã học tập người Nhật và đã
thành công khi đặc biệt chú ý đến vấn đề đào tạo đội ngũ quản lý DN; đây cũng
là bài học quý báu mà chúng ta cần học tập ở họ. Trong thời gian tới, cần tập
trung vào việc tăng cường công tác đào tạo về pháp luật kinh doanh, thương mại

quốc tế cho đội ngũ lãnh đạo các DNVVN; trang bị cho họ những kiến thức bài
bản để họ có thể “đương đầu” với những thách thức ngày càng gay gắt hiện nay.
Thứ năm, tay nghề của lực lượng lao động trong các DNVVN của chúng
ta hiện nay được đánh giá là thấp so với nhu cầu. Theo ông Nguyễn Hữu Dũng -
Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xã hội - tuy Việt Nam là
một nước có nguồn lao động dồi dào, trẻ và rẻ; lao động Việt Nam có truyền
thống cần cù, sáng tạo và tư chất thông minh, song đa số lao động Việt Nam
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không có trình độ chuyên môn kỹ thuật (đến năm 2010 mới phấn đấu có 25%
lao động qua đào tạo, trong đó có 15,5% được đào tạo nghề, trong khi đó ở các
nước tỷ lệ này là 50%), lao động trình độ cao thiếu trầm trọng do giáo dục đào
tạo chưa phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế, năng suất lao động trung bình
thấp, thể lực và sức bền của người Việt Nam còn yếu, ý thức kỷ luật lao động và
tác phong lao động công nghiệp chưa cao. Lực lượng lao động của Việt Nam
hiện nay đang trong tình trạng “thừa thày, thiếu thợ”, hiện tượng thiếu lao động
lành nghề, lao động có trình độ cao ở một số khu công nghiệp đã dẫn tới tình
trạng cạnh tranh không lành mạnh để tranh giành lao động có chất lượng giữa
các DN. Mặt khác, do người lao động chưa hiểu biết nhiều về kỷ luật lao động
nên trong thời gian vừa qua đã liên tục xảy ra một số vụ đình công bất hợp pháp,
tự phát của công nhân một số nhà máy ở Hải Phòng, thành phố Hồ Chí
Minh...không chỉ gây thiệt hại cho DN mà còn gây bất ổn cho xã hội.
Ngoài những đặc điểm của DNVVN, DNVVN NQD còn có những đặc
điểm của các DNNQD. Để tìm hiểu về đặc điểm của các DN Việt Nam nói
chung và DNNQD nói riêng, chúng ta sẽ tìm hiểu thông qua bảng sau:
Bảng mô tả sơ lược về các loại hình DN tại VN năm 2003 (bảng 1)
Loạ i hình
DN
Tổng
số

Tỷ
trọng
Lao động
Số lao
động
(nghìn
người
)
số lao
động
TB
1. DNQD 4.845 6,70 2.260 466 1.003 207 1.495
2. DNNQD 64.808 89,65 2.050 31,8 337 5,2 1.046
3. DN có
VĐTNN
2.641 3,65 86 325,6 369 139,7 1.774
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tổng cộng 72.294 100 5.700 71,8 1.709 1.367
Qua bảng trên có thể thấy:
- Tổng số DNNQD rất lớn, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số DN và có xu
hướng ngày càng tăng mạnh. Nếu như năm 2003 chúng ta mới chỉ có hơn 64
nghìn DNNQD thì đến năm 2005, tổng số DNNQD đã tăng lên 200 nghìn.
Trong khi tổng số DN tăng nhanh trong những năm qua thì cơ cầu có sự chuyển
dịch mạh mẽ: số lượng DN tăng mạnh ở khu vực ngoài quốc doanh và khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài còn khu vực DNNN lại giảm mạnh do tổ chức sắp xếp
lại, cho thuê, cổ phần hoá...
- Tổng số lao động mà khu vực ngoài quốc doanh thu hút được đang ngày
càng nhiều và chiếm tỷ trọng lớn. Mặc dù số DNNQD rất lớn song số lao động
trung bình/một DN vẫn khá cao, đạt 31,8 lao động/một DN; tỷ lệ này đã luôn

tăng qua các năm.
- Nguồn vốn kinh doanh bình quân của kinh tế ngoài quốc doanh rất nhỏ,
chỉ đạt 5,2 tỷ đồng/một DN, thấp hơn rất nhiều so với khu vực kinh tế Nhà nước
(207 tỷ đồng) và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (139,7 tỷ đồng).
- Thu nhập bình quân của người lao động trong khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh tuy thấp hơn so với khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài song cũng tương đối cao.
1.2.3. Vai trò của DNVVN NQD trong nền kinh tế thị trường
Trong những năm qua, DNNQD (mà trong đó chủ yếu là DNVVN) luôn
đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Theo con
số thống kê, hiện nước ta có khoảng 200.000 DNNQD, với tổng số vốn lên đến
hàng trăm tỷ đồng.
Sau 20 năm đổi mới, với cơ chế mới, Nhà nước đã tạo điều kiện cho mọi
thành phần kinh tế cùng phát triển; đến nay, các DNNQD đã trở thành bộ phận
quan trọng tạo nên bước phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước ta trong
thời gian qua. So với kinh tế Trung Ương thì đóng góp của khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh (chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ) trong Ngân sách địa
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phương lớn hơn rất nhiều; điển hình như: Thành phố Hồ Chí Minh, kinh tế tư
nhân đóng góp trong tổng thu Ngân sách địa phương (năm 2004) khoảng 15%,
Tiền Giang là 24%, Gia Lai là 22%, Ninh Bình là 19%...
Trong bài viết nhận xét về sự đánh giá vai trò của khu vực kinh tế tư nhân
trong Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng X, bà Phạm Chi Lan - chuyên gia cao cấp,
ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ - đã khẳng định: “Trong 5 năm qua,
tuy sức ép từ những chấn động bên ngoài rất lớn nhưng nền kinh tế Việt Nam
vẫn phát triển chính là nhờ khu vực kinh tế tư nhân; ngay cả khai thác khả năng
xuất khẩu trong thời gian qua cũng nhờ khu vực kinh tế tư nhân nhiều hơn là
khu vực kinh tế Nhà nước. Chẳng hạn, việc khai thác thị trường Mỹ, các thị
trường xuất khẩu mới là nhờ đóng góp ngày càng to lớn của khu vực kinh tế tư

nhân. Nếu không có sự đóng góp của khu vực này, nhất là sau khi thực hiện
Luật Doanh nghiệp năm 1999 thì kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, giai
đoạn 2001 - 2005 không thể có được những bước phát triển như đã thấy. Có thể
nói, tất cả những kết quả trọng yếu mà chúng ta đạt được trong thời gian qua đều
có sự đóng góp to lớn của khu vực kinh tế tư nhân.”
Như đã phân tích, đã có nhiều quốc gia trên thế giới nhận thức được vai
trò, tầm quan trọng và những đóng góp to lớn của DNVVN trong quá trình phát
triển kinh tế của mình, trong đó không thể không kể tới các quốc gia phát triển
như: Mỹ, Anh, Pháp, hay các quốc gia công nghiệp mới như Hàn Quốc,
Singapore... Tại các nước này, tuy hệ thống siêu thị rất phát triển song cũng
không thể thay thế hoàn toàn các doanh nghiệp bán lẻ, nhất là việc cung cấp
hàng hoá tại các địa bàn phân tán, nơi không tập trung đông dân cư và đối với
các sản phẩm mang tính chất tiêu dùng, nhỏ lẻ (năm 1994, các DNVVN ở Nhật
đã tạo ra trên 55% GDP; ngay cả ở Mỹ - một đất nước mà ở đó có những cái tên
như: Microsoft, IBM hay Ford nổi tiếng toàn cầu, thì các DNVVN vẫn đóng một
vai trò cực kỳ quan trọng, thể hiện ở một con số không nhỏ - 40% GDP của Mỹ
là nhờ sự đóng góp của các DN thuộc khu vực này, những DN lớn như Boeing
hay Microsoft cũng không thể hoạt động riêng lẻ mà không có sự hợp tác với
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các DNVVN). Các nước trên thế giới (nhất là các nước đang phát triển) đều tích
cực hỗ trợ DNVVN bởi:
- Muốn phát triển bền vững phải dựa vào nội lực hơn là trông chờ vào các
nhà đầu tư từ bên ngoài.
- Phát triển DNVVN là cách tốt nhất để giảm tỷ lệ thất nghiệp và các tệ
nạn xã hội.
- Phát triển kinh tế DNVVN là biện pháp hiệu quả góp phần giảm bớt
cách biệt về kinh tế giữa thành thị và nông thôn.
Xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển, sự tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam hiện nay gắn liền với sự đi lên của các DNVVN, một lực lượng kinh

tế khá quan trọng và chiếm tỷ trọng rất lớn trong các loại hình doanh nghiệp.
Các DNVVN là một nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất và luân
chuyển hàng hoá - tiền tệ với đặc thù nhỏ gọn, linh hoạt, dễ dàng đáp ứng nhu
cầu đa dạng của người tiêu dùng; nhanh chóng nắm bắt xu hướng và thị hiếu
tiêu dùng, họ đã tạo ra nhiều sản phẩm mới giúp nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân.
Theo thời báo Ngân hàng, DNVVN hiện nay chiếm 96% tổng số doanh
nghiệp đang hoạt động, đóng góp 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công
nghiệp, thu hút 26% lực lượng lao động trong cả nước.
Các DNNQD, mà chủ yếu là các DNVVN trong những năm qua đã có
những đóng góp to lớn cho đất nước, vai trò của các DNVVN không chỉ thể hiện
ở giá trị kinh tế mà các DN này đóng góp mà còn thể hiện ở việc tạo công ăn,
việc làm, xoá đói, giảm nghèo và giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng trong cả
nước.
- Tạo ra khối lượng hàng hoá - dịch vụ lớn, phong phú về chủng loại và có
chất lượng tốt hơn, góp phần thay thế hàng nhập khẩu và tạo ra lượng hàng hoá -
dịch vụ lớn để xuất khẩu, đồng thời cải thiện và nâng cao mức tiêu dùng trong
nước; đó cũng là những yếu tố giúp giữ vững ổn định và phát triển của nền kinh
tế.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Vai trò tạo công ăn, việc làm: việc làm là một vấn đề cấp bách của Việt
Nam hiện nay; tốc độ tăng dân số hàng năm của Việt Nam mặc dù đã giảm song
so với khu vực và thế giới vẫn cao, hàng năm có khoảng 1 triệu người đến tuổi
lao động và tỷ lệ thất nghiệp là 6%/năm. theo dự báo, từ nay cho đến năm 2010,
mặc dù dân số đã tăng chậm nhưng do nguồn lao động vẫn tăng nhanh nên đã
tạo ra sức ép rất lớn cho vấn đề giải quyết việc làm. Thực tế cho thấy, toàn bộ
DNNN thời gian qua hàng năm chỉ thu hút được khoảng 1, 6 triệu lao động
trong khi số liệu hàng năm cho thấy, DNVVN cũng tạo ra khoảng 50-80% việc
làm trong khu vực công nghiệp - dịch vụ; đặc biệt trong giai đoạn sắp xếp lại các

DNNN, lượng công nhân bị sa thải rất lớn thì chính các DNVVN lại là nơi tái
tạo lại công việc cho họ bởi việc đầu tư cho một chỗ làm việc ở một DNVVN
thấp bằng 3-10% so với các DN lớn. Mặt khác, đây cũng chính là khu vực thu
hút số lượng lớn lao động là các sinh viên mới ra trường và giải quyết một trong
những vấn đề bức xúc của nước ta, đồng thời góp phần tăng thu nhập cho người
lao động, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Sự phát triển của
các DNVVN còn giúp tác động tới cơ cấu lao động, tạo sự chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng tích cực.
- Khai thác và tận dụng các nguồn lực xã hội: các DNVVN thu hút lượng
lớn nguồn vốn trong dân do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán, do yêu cầu vốn yêu
cầu ban đầu không nhiều nên có thể tận dụng vốn của bản thân, bạn bè, gia
đình...Mặt khác, các DNVVN ở nông thôn sẽ thu hút nhiều lao động chưa có
việc làm, lao động tạm thời nhàn rỗi theo thời vụ vào sản xuất - kinh doanh, rút
dần lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp - dịch vụ nhưng vẫn sống ở
quê hương mà không di chuyển theo phương châm: “ li nông bất li hương”. Một
điều hết sức quan trọng nữa là: các DNVVN cũng là yếu tố chủ đạo giúp phát
huy nghề truyền thống, làm thay đổi bộ mặt làng quê; trong các làng nghề truyền
thống đã hình thành nhiều DNVVN NQD nhằm tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản
phẩm, tổ chức sản xuất quy mô, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của làng
nghề.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Các DNVVN thường chọn kĩ thuật phù hợp với kĩ thuật thủ công để
nhanh chóng tiếp thu và làm chủ, ít sử dụng công nghệ tiên tiến đòi hỏi vốn lớn
vì vậy tận dụng kĩ thuật trong nước và thúc đẩy công nghệ, cải tiến kĩ thuật.
Như vậy có thể nói đây là một bộ phận sử dụng rất có hiệu quả và tiết
kiệm nguồn lực sẵn có của đất nước để sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu,
giảm chi ngoại tệ, đồng thời tạo ra hàng hoá xuất khẩu và thu ngoại tệ về cho đất
nước, góp phần bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống.
- Một trong những kết quả nữa khá quan trọng đã đạt được trong việc thúc

đẩy phát triển DNVVN là chúng ta đã tạo được mối liên kết giữa các DNVVN
với các DN lớn, các Tổng công ty của Nhà nước, các Tập đoàn kinh tế xuyên
quốc gia của nước ngoài đang hoạt động tại nước ta. Tuy mối quan hệ này mới
chỉ được xác lập bước đầu trong các khâu như: cung ứng nguyên vật liệu, hợp
đồng phụ,...( theo nghiên cứu của Phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam
thì rất ít khu công nghiệp, cụm công nghiệp đạt được tính liên kết cao giữa các
DN trên địa bàn), nhưng đã tạo ra mạng lưới vệ tinh phân phối. Mối quan hệ này
đã có những tác động tích cực qua lại, các DN lớn đảm bảo cho các DNVVN về
tài chính, công nghệ, thị trường, về tiêu chuẩn kĩ thuật và về kinh nghiệm quản
lý; ngược lại, các DNVVN lại đảm bảo cho các DN lớn về công nghiệp bổ trợ,
mạng lưới tiêu thụ sản phẩm rộng khắp trên cả nước; chi phí sản xuất - kinh
doanh của các DN lớn có thể giảm đáng kể nếu như họ sử dụng hiệu quả và linh
hoạt các DNVVN làm các DN vệ tinh. Sự liên kết này rõ ràng có lợi cho cả hai
bên và đặc biệt là làm lợi cho nền kinh tế của đất nước. Tổng giám đốc của một
công ty sản xuất ô tô, xe máy lớn của Việt Nam đã khẳng định công ty của ông
“sống” được là nhờ 83 DNVVN. Ông Phan Văn Tuất - Viện trưởng Viện chính
sách Công nghiệp nhận xét: “DNVVN không đơn thuần chỉ là đóng góp hay góp
phần vào sự phát triển của Việt Nam nói chung mà chính là trụ cột phát triển của
các ngành phụ trợ”.
Với những đóng góp đáng kể vào sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế
trong những năm qua, các DNVVN NQD đã được quan tâm hơn và nhìn nhận
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bình đẳng hơn; Đảng, Nhà nước đã đánh giá đúng đắn tiềm năng, vai trò và tầm
quan trọng của các DNVVN nói chung và DNVVN NQD nói riêng; vì vậy, gần
đây đã có nhiều chính sách nhằm khuyến khích và kích thích sự phát triển của
các DNVVN NQD như: Nghị định 90/2001/NĐ-CP (ngày 23/11/2001) về việc
trợ giúp phát triển DNVVN, Quyết định 12/2003/QĐ-TTg (ngày 17/01/3002) về
hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN; ngành Ngân hàng cũng đã đề ra
nhiều chính sách thích hợp cho việc tài trợ cho DNVVN. Thống đốc NHNN

Việt Nam - ông Lê Đức Thuý đã phát biểu: “Chúng ta đã sống một thời kỳ dài
trong cơ chế DNNN được ưu đãi hơn DNNQD; để xoá bỏ bất bình đẳng, về phía
NH cần phải tạo ra một cơ chế cạnh tranh thực sự; NH muốn tồn tại thì phải tìm
cách đưa vốn đến những DN cần vốn và sử dụng vốn có hiệu quả chứ không
phải bằng cơ chế đặc quyền, bao cấp đằng sau, NH tìm đến DN vì DN làm ăn
hiệu quả chứ không phải vì nó thuộc thành phần nào cả.”
Với điều kiện thuận lợi và những cơ chế ngày càng thông thoáng như hiện
nay, các DNVVN đã, đang và sẽ liên tục phát triển, ngày càng khẳng định vị thế
của mình trong nền kinh tế quốc dân.
1.2.4. Xu hướng phát triển của các DN NQD
Ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước, Đảng và Nhà nước ta đã nhận
thấy tiềm năng to lớn của các DNVVN, đặc biệt là DNNQD nên đã có những sự
quan tâm đến khu vực này; điều này được thể hiện ở việc năm 1999, Thủ tướng
Chính phủ đã ra quyết định số 133/1999/QĐ-TTg (51/5/1999) "Về việc thành
lập tổ nghiên cứu cơ chế chính sách phát triển DNVVN"; tổ này có nhiệm vụ
nghiên cứu và đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách, biện
pháp tổ chức thực hiện để phát triển DNVVN. Đến nay, sau 5 năm, giai đoạn
2000-2005, các DNVVN đã thể hiện vai trò tích cực của mình và đã những đóng
góp to lớn vào sự phát triển của đất nước.
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội X của Đảng đã xác định: “ Thực hiện
nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cầu thành quan trọng của nền
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế cổ phần

ngày càng phát triển, ngày càng trở thành tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã
hội hoá sản xuất và sở hữu, đặc biệt là xã hội hoá vốn của các nhà đầu tư”. Đồng
thời, “tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình kinh tế tư nhân đầu tư phát triển
theo quy định của pháp luật, không hạn chế về quy mô, ngành nghề, lĩnh vực,
địa bàn. Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu, thực sự bình
đẳng, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN, đặc biệt là các DNVVN, các hộ kinh
doanh được tiếp cận với nguồn vốn tại các tổ chức tín dụng của Nhà nước, kể cả
Quỹ hỗ trợ phát triển; được đáp ứng thuận lợi nhu cầu sử sụng đất làm mặt bằng
sản xuất - kinh doanh”.
Như vậy, có thể nói Đảng và Nhà nước đã có sự nhìn nhận khách quan,
đúng đắn hơn về vai trò của DNVVN và DNNQD. Trong Dự thảo các văn kiện
trình Đại hội X của Đảng đã đề ra mục tiêu là đến năm 2010 nước ta sẽ có
500.000 DNVVN làm ăn có hiệu quả.
Thời gian qua, Chính phủ và các Bộ, ngành đã có nhiều chương trình hỗ
trợ, trợ giúp cho DNVVN như: Trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới cơ chế
tiền vay theo hướng mở rộng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, cho vay
có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay; các chương trình xúc tiến
thương mại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam;
chương trình hỗ trợ thông tin; thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng...Tuy nhiên,
trong quá trình triển khai các chương trình hỗ trợ còn nhiều bất cập; cụ thể là:
Quyết định số 193/2001/QĐ - TTg về việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho
DNVVN ban hành từ năm 2001 song cho đến nay mới chỉ có 3 tỉnh thành lập
quỹ này là Trà Vinh, Yên Bái, Tây Ninh. Các chương trình hỗ trợ kỹ thuật,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông tin, xúc tiến thương mại đã được triển khai nhưng số DNVVN tiếp nhận
được sự hỗ trợ này không đáng kể. Nguyên nhân của tình trạng này là do một số
quy định đưa ra không phù hợp với tình hình DN; các chính sách và biện pháp
hỗ trợ DN tại các địa phương không được thực hiện thống nhất, mang nặng tính
tự phát, có sự không ăn khớp giữa mục tiêu đề ra và quá trình triển khai ở các

địa phương; các thông tin về chính sách hỗ trợ của Nhà nước cũng như của địa
phương chưa đảm bảo tình công khai, minh bạch để các DN đều biết, trong khi
công tác kiểm tra tình hình thực hiện rất yếu nên việc hỗ trợ DNVVN đạt hiệu
quả thấp.
Mặt khác, tuy đã nhìn nhận tích cực hơn về vai trò, tầm quan trọng và
những đóng góp to lớn của DNVVN trong sự nghiệp phát triển đất nước trong
20 năm đổi mới và đực biệt trong 5 năm gần đây; đồng thời đã có sự quan tâm
hơn tới các DNVVN song trong nhận thức vẫn đề cao vai trò chủ đạo của kinh
tế Nhà nước và kinh tế tập thể. “Phải nhìn nhận công bằng trong 5 năm qua,
chưa nói đến quãng thời gian 20 năm đổi mới, vai trò chủ đạo của khu vực kinh
tế Nhà nước đã thể hiện như thế nào, đã thực sự là lực lượng chủ yếu đem lại sự
phát triển mạnh mẽ cho giai đoạn vừa qua chưa? Nếu nói về tỷ trọng vốn đầu tư,
tỷ trọng đóng góp vào GDP... thì vẫn là khu vực này có tỷ trọng cao; tuy nhiên
tỷ trọng cao đó không tương xứng với vai trò chủ đạo mà chúng ta mong muốn
và nhất là tỷ trọng cao đó đồng thời kéo theo cái giá phải trả cao của cả nền kinh
tế. Nếu như đầu tư của Nhà nước vẫn là lớn nhất và do các DNNN thực hiện thì
không dễ tránh khỏi tình trạng lãng phí, thất thoát, tham nhũng rất lớn như thời
gian vừa qua”. (Theo lời bà Phạm Chi Lan).
Vậy, chúng ta cần đặt khu vực kinh tế tư nhân vào bản đồ doanh nghiệp
Việt Nam, cần đặt đúng tầm lịch sử và đặt đúng tầm vai trò của doanh nhân
trong xã hội; thực sự tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ doanh
nhân phát triển.
Với sự nhìn nhận ngày càng tích cực của xã hội về tần lớp doanh nhân và
vai trò của các DNVVN thì trong tương lai, các DNVVN nói chung và DNVVN
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NQD nói riêng sẽ ngày càng có những đóng goóp nhiều hơn nữa cho sự phát
triển của nước nhà.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI
VỚI DNVVN NQD

Không riêng ở Việt Nam, ở nhiều nước, các DNVVN đều kêu khó tiếp
cận với nguồn vốn Ngân hàng. Trước đây, khi thị trường ít có sự cạnh tranh, các
Ngân hàng ít phải chịu sức ép tìm kiếm khách hàng; nay, trong điều kiện nền
kinh tế hội nhập toàn cầu, các Ngân hàng không chỉ chịu sự cạnh tranh gay gắt
của các tổ chức tài chính và phi tài chính trong nước mà còn phải chịu sự cạnh
tranh ngày càng lớn của các tổ chức tài chính quốc tế; vì vậy, các Ngân hàng
đang phải giành giật các khách hàng lớn làm ăn có hiệu quả, nhiều Ngân hàng
đã nhận ra cần phải tiến công vào khu vực DNVVN hiện đang “đói vốn” và
chưa được phục vụ đúng mức.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng hoạt động cho vay đối với
khách hàng là DNVVN trong thời gian qua vẫn chưa thực sự mở rộng được như
mong muốn song có thể thấy có 3 nhóm nguyên nhân chủ yếu: nhóm nguyên
nhân từ phía Ngân hàng, nhóm nguyên nhân chủ quan từ phía các DNVVN và
nhóm các nguyên nhân khách quan. Mặc dù đã có nhiều cuộc hội thảo để tìm
cách tháo gỡ khó khăn về vốn cho các DNVVN trong thời gian qua song cả DN
và Ngân hàng vẫn vướng trong tấm lưới vốn vay mà “chưa có đường thoát”.
Trong cuộc hội thảo “dịch vụ Ngân hàng với DNVVN” được tổ chức tại Hà Nội,
các đại biểu đã thống nhất rằng: “thiếu vốn đã, đang và sẽ có thể là căn bệnh
muôn thuở của các DNVVN”. Vậy làm thế nào để Ngân hàng và DNVVN gặp
nhau và để Ngân hàng cho vay có hiệu quả? Đây là một bài toán khó mà lâu nay
chúng ta vẫn đang đi tìm lời giải.
1.3.1. Các nhân tố thuộc về Ngân hàng
1.3.1.1. Chiến lược khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường, cùng với quá trình hội nhập, sự cạnh tranh
diễn ra ngày càng gay gắt, mỗi DN cần xây dựng cho mình một kế hoạch phát
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×