Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHNoPTNT việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 112 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các
số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Quảng Ninh, ngày

tháng 4 năm 2013

Tác giả

Nguyễn Thị Phương


2

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
NHTM
NHNN
DNNVV
NHTW
HĐTV
TCTD

Chữ viết đầy đủ
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng nhà nước
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngân hàng trung ương


Hội đồng thành viên
Tổ chức tín dụng

LỜI MỞ ĐẦU


3

1. Lý do chọn đề tài
“Lãi suất ngân hàng từ đầu năm đến nay cũng giống như mâm cỗ đã dọn ra, đồ
ăn đầy đủ nhưng chẳng mấy ai ăn được. Lý do ở đây là các ngân hàng dù rất sẵn sàng
cho vay lãi suất thấp như mức năm 2007 nhưng sức khỏe doanh nghiệp đã kiệt, trong
khi thị trường đầu ra thì tồn kho cao, vay tiền để làm gì!” Theo phát biểu của một đại
diện doanh nghiệp tại hội nghị triển khai các giải pháp tiền tệ ngân hàng nhằm thúc đẩy
hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội diễn ra tại Đà Nẵng ngày 20/3/2013 đã cho thấy tình
hình kinh doanh của các Ngân hàng thương mại (NHTM) hiện nay. Trái ngược với việc
phải khắc phục rủi ro lãi suất do lãi suất không ngừng tăng cao những năm 2008-2010
thì hiện nay, các NHTM Việt Nam lại phải đối mặt với nguy cơ rủi ro lãi suất do lãi
suất không ngừng được điều chỉnh giảm từ năm 2011 sang năm 2013.
Cũng giống như các NHTM khác, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam (NHNo&PTNT Việt Nam) một mặt phải đồng cam cộng khổ với doanh
nghiệp mà cụ thể là hạ lãi suất tiền vay VND và USD, nhất là đối với nông lâm, ngư
nghiệp vốn được coi là lĩnh vực sản xuất bền vững cho nền kinh tế, mặt khác phải
nhanh chóng giải quyết bài toán giảm lợi nhuận do rủi ro giảm lãi suất đem lại mới có
thể giữ vững thị phần và tồn tại được.
Đối với các NHTM Việt Nam, quản lý rủi ro lãi suất còn là vấn đề khá mới mẻ.
Trong một thời gian dài các ngân hàng hầu như không quan tâm đến vấn đề này vì với
cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), lãi suất trên thị trường
tương đối ổn định, ít có sự biến động và ít gây tác động đến ngân hàng. Những năm
gần đây, khi lãi suất thị trường có nhiều biến động, các ngân hàng mới nhận thấy mình

đang đứng trước nguy cơ rủi ro và bước đầu thực hiện một số biện pháp nhằm hạn chế
rủi ro lãi suất. Việc không đủ năng lực quản trị về rủi ro lãi suất sẽ gây ra những tổn
thất không thể ước tính được đối với hệ thống ngân hàng. Từ những lý do trên, là một
cán bộ đang công tác tại NHNo&PTNT Việt Nam, từ năm 2010 đến nay được chứng
kiến những khó khăn đối với kết quả kinh doanh của ngân hàng cũng như sự ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống cán bộ công nhân viên mà những biến động về lãi suất


4

mang lại, tôi quyết định chọn đề tài “Quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh
doanh tại NHNo&PTNT Việt Nam. Thực trạng và giải pháp." để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, vấn đề lãi suất và quản trị rủi ro lãi suất ngày càng trở thành vấn đề

nhạy cảm với các NHTM, khởi nguồn từ năm 2007 cho đến nay, khi mà hệ thống các
ngân hàng ngày càng phát triển về bề ngang và lãi suất thị trường không ngừng biến
động, cùng với nó là cuộc chạy đua về lãi suất giữa các ngân hàng đã khiến chính các
NHTM phải đối mặt với mối nguy hiểm mà rủi ro lãi suất mang lại. Vì vậy, nghiên cứu
về quản trị rủi ro lãi suất từ đó đưa ra những giải pháp nhằm che chắn và hạn chế rủi ro
về lãi suất là mối quan tâm của toàn ngành ngân hàng. Trong những năm gần đây, đã có
rất nhiều những công trình nghiên cứu khoa học và đề tài thạc sĩ đi sâu khai thác vấn
đề trên, như Luận văn thạc sĩ “Hoạt động quản trị rủi ro lãi suất – Thực trạng và giải
pháp tại Ngân hàng TMCP An Bình” của tác giả Vũ Thị Thơ nghiên cứu năm 2010 hay
đề tài tham gia cuộc thi Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2008 “Nghiên cứu quản
trị rủi ro lãi suất đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay” của nhóm sinh
viên trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên chưa có cuốn sách và
công trình nào nghiên cứu về vấn đề Quản trị rủi ro lãi suất tại NHNo&PTNT Việt
Nam từ năm 2010 đến đầu năm 2013. Với việc nghiên cứu về đề tài này, tôi hy vọng sẽ
đưa ra những đánh giá và phân tích thực trạng quản trị rủi ro hiện nay tại

NHNo&PTNT Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp mang tính khả thi nhằm nâng
cao hiệu quả công tác quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của chính
ngân hàng mình. Những số liệu và nghiên cứu trong bài đều rất mới, mang tính thời sự
và thực tiễn cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận về quản trị rủi ro lãi suất


5

- Khảo sát, đánh giá thực trạng Quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của
NHNo&PTNT Việt Nam
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Quản trị rủi ro lãi suất tại
NHNo&PTNT Việt Nam
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu và đưa ra cơ sở lý luận về quản trị rủi ro lãi suất
- Nghiên cứu và đưa ra những số liệu thống kê, phân tích về thực trạng quản trị rủi ro
lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam
- Đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác quản trị rủi ro lãi
suất tại NHNo&PTNT Việt Nam
- Đề xuất các giải pháp mang tính hiệu quả và gắn với thực tiễn nhằm nâng cao công
tác quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản trị rủi ro lãi suất và thực trạng quản trị rủi ro
lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam. Trên cở sở đó đề
xuất các giải pháp mang tính thực tiễn nhằm hoàn thiện công tác Quản trị rủi ro lãi suất
tại NHNo&PTNT Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Bài viết nghiên cứu về công tác quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh
doanh tại NHNo&PTNT Việt Nam. Thời gian nghiên cứu từ năm 2010 đến năm 2012,
sang đầu năm 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp thu thập và phân tích số liệu:


6

Các số liệu để phân tích trong đề tài là số liệu thứ cấp, được thu thập từ báo cáo kết quả
kinh doanh, bảng cân đối kế toán, biểu lãi suất huy động và cho vay của NHNo&PTNT
Việt Nam được đăng tải trên trang web của ngân hàng và các tài liệu liên quan.



Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:

-

Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết

-

Phương pháp nhận định và đưa ra giả thuyết
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn


-


Phương pháp điều tra chọn mẫu

-

Tổng hợp và phân tích thống kê trên đồ thị, bảng biểu
6. Bố cục:
Ngoài Mở đầu, Kết luận và các Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về quản trị rủi ro lãi suất.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại
NHNo&PTNT Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp hạn chế rủi ro lãi suất và xây dựng hệ thống quản trị
rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHNo&PTNT Việt Nam trong thời gian
tới.


7

CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận chung về quản trị rủi ro lãi suất
I.1.

Khái niệm chung về rủi ro

I.1.1.

Khái niệm
Rủi ro có thể xuất hiện trong mọi ngành, mọi lĩnh vực. Nó là một yếu tố khách
quan nên con người không thể loại trừ được hết mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của
chúng cũng như những thiệt hại do chúng gây ra. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về

rủi ro nhưng nhìn chung có thể chia làm 2 quan điểm:
Theo quan điểm truyền thống: Rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm
hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không chắc chắn có thể
xảy ra cho con người.
Theo quan điểm trung hòa: Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro
vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực: Rủi ro có thể gây ra những tổn thất,
mất mát, nguy hiểm nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội, thời cơ. Nếu tích cực
nghiên cứu, nhận dạng đo lường rủi ro, chúng ta có thể tìm ra được những biện pháp
phòng ngừa, hạn chế những tiêu cực và phát huy được những cơ hội tích cực mang lại
từ rủi ro.(1)
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là những biến cố không mong đợi mà khi
xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với
dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp
vụ tài chính nhất định. Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng
đồng biến với nhau trong một phạm vi nhất định.(2)
I.1.2. Phân loại rủi ro chủ yếu trong kinh doanh ngân hàng

1

2

Theo website />PGS.TS. Nguyễn Minh Kiều (2010), Giáo trình Quản trị rủi ro Tài chính, Nhà xuất bản tài chính


8

Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc thù, do đó những rủi ro đối với
hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng mang tính đặc thù. Những rủi ro mà một ngân
hàng hiện đại phải đối mặt, bao gồm:
1.


Rủi ro tín dụng.

2.

Rủi ro lãi suất

3.

Rủi ro ngoại hối

4.

Rủi ro thanh khoản

5.

Rủi ro hoạt động ngoại bảng

6.

Rủi ro công nghệ và hoạt động

7.

Rủi ro quốc gia và rủi ro khác(3)

I.2.

Khái niệm về rủi ro lãi suất


I.2.1.

Yếu tố lãi suất trong kinh doanh ngân hàng

I.2.1.1.

Khái niệm lãi suất
Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp. Nó là một công cụ rất nhạy

cảm trong điều hành chính sách tiền tệ của mọi NHTW đặc biệt ở những nước đang
phát triển. Vì vậy, có rất nhiều cách hiểu về lãi suất, trong đó chúng ta có thể đưa ra
một số khái niệm cơ bản về lãi suất như sau:


Lãi suất là một phạm trù kinh tế khách quan, mang tính chất tổng hợp và

đa dạng. Nó là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức phải trả trên tổng số vốn đi vay
trong một thời gian nhất định (năm, quí, tháng, ngày v.v..). Lãi suất được biểu hiện
dưới dạng số tuyệt đối, đó chính là lợi tức tín dụng. Như vậy lợi tức tín dụng là khoản
tiền phải trả cho việc vay mượn quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn trong một thời
gian nhất định.(4)

3

PGS, TS Nguyễn Văn Tiến, (2010) Giáo trình Quản trị rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng, Nhà xuất bản
Thống kê, trang 30
4
Theo website />


9

Lãi suất là giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân



hàng, đồng thời gắn liền với hoạt động kinh tế liên quan đến hoạt động gửi tiền và vay
tiền. Đồng thời, lãi suất còn là công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHTW mỗi
nước. Nó đóng vai trò như một đòn bẩy kinh tế trong nền kinh tế thị trường, tín dụng
Ngân hàng phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể sử dụng vốn (người vay vốn) với
chủ thể sở hữu vốn (người thừa vốn) theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn kèm theo lãi ở
thị trường vốn người mua người bán rất quan tâm đến giá cả tiền tệ đó chính là lãi suất
hay giá cả của quyền sử dụng vốn trong một thời kỳ nhất định.(5)
I.2.1.2.

Phân loại lãi suất

 Căn cứ vào nghiệp vụ ngân hàng:
Lãi suất tiền gửi: là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi. Nó được áp dụng để tính
tiền lãi phải trả cho người gửi tiền.
Lãi suất tiền vay: là lãi suất người đi vay phải trả cho Ngân hàng do việc sử
dụng vốn vay của Ngân hàng. Nó được áp dụng để tính lãi mà khách hàng phải trả cho
Ngân hàng.
Lãi suất chiết khấu : áp dụng khi Ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức
chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá trị khác chưa đến hạn thanh toán của
khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu
trừ ngay khi Ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. Lãi suất chiết khấu được trả
trước cho ngân hàng chứ không trả sau như lãi suất tín dụng thong thường.
Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi Ngân hàng trung ương tái cấp vốn cho các
Ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn

chưa đến hạn thanh toán cho các Ngân hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá
của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi Ngân hàng Trung ương cấp vốn tiền
vay cho Ngân hàng. Thông thường lãi suất tái chiết khấu nhỏ hơn lãi suất chiết khấu.

5

PGS, TS Nguyễn Văn Tiến, (2010) Giáo trình Quản trị rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng, Nhà xuất bản
Thống kê, trang 126


10

Lãi suất liên Ngân hàng: là lãi suất mà Ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay
trên thị trường liên Ngân hàng.
Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các Ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ổn định
mức lãi suất kinh doanh của mình. Theo Luật Dân sự Việt Nam, các tổ chức tín dụng
không được cho vay với lãi suất cao gấp 150% lãi suất cơ bản.
Lãi suất tín dụng Nhà nước: áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể khác
nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu.
Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay
phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân.


Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất

Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời
điểm nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực: là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về
lạm phát. Hay nói cách khác là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực có hai loại:

Lãi suất thực tính trước (dự tính): là lãi suất thực được điều chỉnh lại



cho đúng theo đúng những thay đổi dự tính về lạm phát.
Lãi suất thực tính sau: là lãi suất thực được điều chỉnh lại cho đúng



theo những thay đổi trên thực tế về lạm phát.
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
Hoặc Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát (6)


Căn cứ vào mức ổn định của lãi suất

Lãi suất ổn định: là lãi suất áp dụng cố định trong suất thời hạn vay. Nó có ưu
điểm: Người gửi tiền và vay tiền biết trước số tiền lãi được trả và phải trả. Nhưng
6

PGS, TS Nguyễn Văn Tiến, (2010) Giáo trình Quản trị rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng, Nhà xuất bản
Thống kê, trang 130


11

nhược điểm là bị ràng buộc vào một lãi suất nhất định trong một thời hạn nào đó dù
cho các loại lãi suất khác thay đổi như thế nào.
Lãi suất thả nổi: Là lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có thể báo trước hoặc
không báo trước. Lãi suất thả nổi có lợi cho cả hai bên khi nhận và trả tiền đều tính

theo một lãi suất chung là lãi suất hiện tại.
I.2.1.3.

Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế

Lãi suất với tăng trưởng kinh tế: Trong điều hành kinh tế vĩ mô, lãi suất là một
công cụ của chính sách tiền tệ được các NHTW sử dụng nhằm đạt được các mục tiêu
trung gian về đầu tư, tiết kiệm, tiêu dùng, lạm phát, tỷ giá hối đoái… là các mục tiêu
giúp đạt được mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng kinh tế.
Lãi suất với đầu tư: Lãi suất là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư vì lãi suất chính là chi phí cơ hội của đầu tư. Nếu chi phí cơ hội của một quyết
định đầu tư cao thì đầu tư sẽ giảm và ngược lại, nếu chi phí cơ hội của một quyết định
đầu tư thấp thì sẽ tạo động lực để gia tăng đầu tư. Như vậy, lãi suất và đầu tư có mối
quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Điều này có thể giải thích như sau: Nếu mức giá không
đổi, khi lãi suất ở mức thấp thì tiền lãi phải trả (nếu đi vay để đầu tư) hoặc lợi tức nhận
được nếu gửi tiền vào ngân hàng (đầu tư bằng vốn tự có) thấp, do đó, đầu tư để xây
dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, trang thiết bị… sẽ tăng lên vì chi phí cơ hội của
quyết định đầu tư này là thấp. Ngược lại, khi lãi suất ở mức cao thì tiền lãi phải trả cho
ngân hàng (nếu đi vay) hoặc lợi tức nhận được (nếu gửi tiền vào ngân hàng) cao; kết
quả là đầu tư giảm vì tiền được gửi vào ngân hàng để lấy lợi tức hoặc khách hàng sẽ
vay ít hơn để đầu tư vì chi phí cơ hội của quyết định đầu tư này là cao.
Lãi suất với tiết kiệm và tiêu dùng: Lãi suất có mối quan hệ cùng chiều với tiết
kiệm trong khi lãi suất lại vận động ngược chiều với tiêu dùng. Nếu lãi suất ở mức cao
thì người dân sẽ dành nhiều tiền hơn để gửi vào ngân hàng vì lúc này lợi tức tiền gửi
nhận được là cao, kết quả là tiết kiệm có xu hướng tăng lên trong khi tiêu dùng lại có
xu hướng giảm xuống vì lãi suất cao thì tín dụng tiêu dùng cũng cao. Ngược lại, nếu lãi


12


suất ở mức thấp thì sẽ không đủ hấp dẫn để thu hút những khoản tiết kiệm từ người dân
làm cho tiết kiệm có xu hướng giảm trong khi người dân sẽ tiêu dùng nhiều hơn vì tín
dụng tiêu dùng thấp. Vì vậy, lãi suất được xem như một chi phí cơ hội của tiêu dùng.
Lãi suất với hoạt động của NHTM: Với chìa khóa trong tay là lãi suất, các
NHTM đóng vai trò rất quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các hộ
gia đình, các doanh nghiệp, các tổ chức khác trong nền kinh tế để phân bổ đến nơi
thiếu vốn, đang cần vốn để mở rộng sản xuất hoặc để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng.
Để hoạt động hiệu quả, các NHTM cần phải đặt ra các mức lãi suất huy động và lãi
suất cho vay hợp lý. Lãi suất huy động không được quá thấp vì như thế sẽ không
khuyến khích dân chúng gửi tiền vào ngân hàng. Kết quả là NHTM gặp khó khăn trong
việc huy động vốn để cho vay. Một mức lãi suất huy động hợp lý sẽ giúp các NHTM
huy động được nguồn vốn nhàn rỗi từ dân chúng. Lãi suất cho vay của NHTM phải cao
hơn lãi suất huy động và phải bù đắp được các chi phí cũng như rủi ro khác. Tuy nhiên,
lãi suất cho vay không được quá cao vì như thế các doanh nghiệp, các hộ gia đình sẽ
tìm các phương án thay thế khác thay vì phải vay tiền từ ngân hàng. Như vậy, các
NHTM sẽ gặp khó khăn trong vấn đề cho vay. Một mức lãi suất cho vay hợp lý đủ để
bù đắp các chi phí, rủi ro nhưng vẫn đảm bảo khả năng vay vốn cho các doanh nghiệp,
các hộ gia đình sẽ giúp các NHTM thu hút được nhiều khách hàng, đóng góp vào quá
trình phân bổ vốn hiệu quả cho nền kinh tế.
I.2.2.

Khái niệm rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất thị trường
hoặc những yếu tố có liên quan đến lãi suất dẫn đến tổn thất về tài sản hoặc làm giảm
thu nhập của ngân hàng. (7)
Rủi ro lãi suất phát sinh đối với ngân hàng khi kỳ hạn đến hạn của tài sản có
không cân xứng với kỳ hạn đến hạn của tài sản nợ.
Quá trình chuyển hóa tài sản là một chức năng đặc biệt cơ bản của ngân hàng.
Quá trình chuyển hóa tài sản bao gồm: (i) Việc mua các chứng khoán sơ cấp, tức sử
7


PGS, TS Nguyễn Văn Tiến, (2010) Giáo trình Quản trị rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng, Nhà xuất bản
Thống kê, trang 197


13

dụng vốn; (ii) Phát hành các chứng khoán sơ cấp, tức huy động vốn. Kỳ hạn và độ
thanh khoản của các chứng khoán sơ cấp trong danh mục đầu tư thuộc tài sản có
thường không cân xứng với các chứng khoán thứ cấp thuộc tài sản nợ. Sự không cân
xứng về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ làm cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro
khi lãi suất thay đổi.
1.2.3. Phân loại rủi ro lãi suất
1.2.3.1. Rủi ro tái tài trợ
Bằng sơ đồ, chúng ta biểu diễn trường hợp một ngân hàng huy động vốn có
kỳ hạn một năm và đầu tư có kỳ hạn hai năm như sau:
0 Tài sản nợ (100 tỷ) 1
có (100
Giả sử lãi suất Tài
huysản
động
vốn tỷ)
là 9%/năm và lãi suất đầu tư là 10%/năm. Sau
0

1

2

năm thứ nhất, bằng cách vay ngắn hạn 1 năm và cho vay dài hạn 2 năm, ngân hàng

thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất là 10%-9%=1%. Tuy nhiên, lợi nhuận của
năm thứ hai chưa biết trước là bao nhiêu cho nên sẽ là một số không chắc chắn. Nếu
lãi suất thị trường không thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ hai thì ngân hàng có
thể tái tài trợ tài sản nợ với mức lãi suất không thay đổi là 9%/năm; do đó mức lợi
nhuận năm thứ hai sẽ bằng năm thứ nhất là 1%. Vì lãi suất thị trường có thể thay đổi
từ năm thứ nhất sang năm thứ hai, cho nên ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về sự
thay đổi lãi suất. Giả sử, sang năm thứ hai, ngân hàng chỉ có thể huy động vốn theo
mức lãi suất thị trường hiện hành là 11%/năm, do đó lợi nhuận của ngân hàng trong
năm thứ 2 sẽ là một số âm, tức ngân hàng sẽ chịu lỗ 10%-11%=-1%. Như vậy lợi
nhuận của năm thứ hai chỉ đủ bù đắp cho khoản lỗ của năm thứ hai. Kết quả là,
trong mọi trường hợp nếu ngân hàng duy trì tài sản có có kỳ hạn dài hơn so với tài
sản nợ thì ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ đối với
tài sản nợ. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động vốn bổ sung trong
những năm tiếp theo tăng lên trên mức lãi suất đầu tư tín dụng dài hạn.


14

1.2.3.2. Rủi ro tái đầu tư
Trường hợp ngược lại, ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài và đầu tự có kỳ
hạn ngắn. Ví dụ, ngân hàng huy động với kỳ hạn 2 năm lãi suất 9%/năm và đầu tư
vào tài sản có mức lãi suất là 10%/năm, kỳ hạn 1 năm. Chúng ta biểu diễn bằng sơ
đồ như sau:

0

1

2


Tài sản nợ 100 tỷ VND

Tương tự như trường hợp trên, sau năm thứ nhất ngân hàng thu được lợi
0 Tài sản có 100 tỷ

1

nhuận là 1%/năm. Vì tài sản có chỉ có kỳ hạn là 1%/năm, cho nên sau năm thứ nhất
tài sản có đến hạn và ngân hàng lại tiếp tục tái đầu tư. Giả sử lãi suất đầu tư của thị
trường trong năm thứ hai giảm xuống chỉ còn 8%/năm, điều này khiến cho ngân
hàng gặp rủi ro lãi suất, đó là lỗ 8%-9%=-1%. Như vậy, lợi nhuận thu được của năm
thứ nhất vừa đủ để bù đắp khoản lỗ của năm thứ hai. Kết quả là, ngân hàng gặp
phải rủi ro về lãi suất tái đầu tư trong trường hợp tài sản có có kỳ hạn ngắn hơn so
với tài sản nợ. Ví dụ điển hình về rủi ro lãi suất tái đầu tư trong những năm gần đây
là hiện tượng các ngân hàng hoạt động trên thị trường tiền tệ châu Âu thường huy
động vốn với lãi suất cố định nhưng lại đầu tư với lãi suất thả nổi, tức là lãi suất của
những khoản tín dụng luôn được điều chỉnh định kỳ (thường 6 tháng/lần) để phù hợp
với lãi suất thị trường.
1.2.3.3. Rủi ro giảm giá trị tài sản
Loại rủi ro lãi suất này sẽ khiến cho giá trị của tài sản có và tài sản nợ của ngân
hàng thay đổi những lượng khác nhau làm cho giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu
thay đổi theo. Thật vậy, giá trị thị trường của tài sản có hay nợ dựa trên khái niệm giá
trị hiện tại của tiền tệ. Do đó nếu lãi suất thị trường tăng lên mức chiết khấu giá trị tài
sản cũng tăng lên và do đó, giá trị tài sản có và tài sản nợ giảm xuống. Ngược lại, nếu
lãi suất thị trường giảm thì giá trị tài sản có và tài sản nợ tăng lên. Như vậy có thể thấy
giá trị ròng cùa ngân hàng luôn thay đổi không ngừng và phụ thuộc vào tình hình lãi
suất trên thị trường.


15


Như vậy, nếu ngân hàng duy trì cơ cấu tài sản có và tài sản nợ với những kỳ hạn
không cân xứng, thì phải chịu những rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ tài sản nợ và
tái đầu tư tài sản có, hoặc rủi ro về lãi suất do giá trị của tài sản thay đổi khi lãi suất thị
trường biến động. Ngân hàng có thể phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng cách làm cho các
kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ không cân xứng với nhau. Xét từ góc độ triết lý
chung thì việc làm cho các kỳ hạn cân xứng với nhau là một giải pháp tốt để phòng
ngừa rủi ro lãi suất. Cần lưu ý rằng việc làm cho các kỳ hạn của tài sản nợ và tài sản có
cân xứng với nhau là đối nghịch với chức năng tích cực chuyển hóa tài sản của ngân
hàng. Nghĩa là, tại cùng một thời điểm, ngân hàng không thể vừa là người chuyển hóa
tài sản lại vừa là người không chiu rủi ro lãi suất. Việc làm cho các kỳ hạn cân xứng
với nhau, một mặt, giảm được rủi ro lãi suất, mặt khác, lại làm giảm khả năng sinh lời
của ngân hàng, bởi lẽ nó làm giảm các cơ hội đầu tư vào những tài sản dài hạn có rủi ro
song khả năng sinh lời lớn.
1.3.

Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất
1.3.1. Sự không phù hợp về kì hạn của nguồn và tài sản được đo bằng khe hở

lãi suất .
Các tài sản của ngân hàng có kỳ hạn khác nhau nên khi gắn chúng với lãi suất
thì ngân hàng quan tâm tới kỳ hạn đặt lại lãi suất – là kỳ hạn mà khi kết thúc hợp đồng
lãi suất sẽ bị thay đổi theo lãi suất thị trường. Căn cứ vào kỳ hạn đặt lại lãi suất mà
ngân hàng chia tài sản và nguồn thành hai loại: nhạy cảm với lãi suất và không nhạy
cảm với lãi suất.
Các tài sản và nguồn nhạy cảm thường là các loại mà số dư nhanh chóng
chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thay đổi, ví dụ như khoản tiền gửi ngắn hạn, các
khoản cho vay và đi vay trên thị trường liên ngân hàng, chứng khoán ngắn hạn của
chính phủ, các khoản cho vay ngắn hạn. Các loại ít nhạy cảm thuộc về tài sản và nguồn
trung và dài hạn với lãi suất cố định.



16

Ví dụ, một khoản tiền gửi tiết kiệm 3 tháng (100 tỷ) với lãi suất 10%/năm. Khi
lãi suất thị trường thay đổi (tăng hoặc giảm), thì khoản tiền này sẽ nhanh chóng chuyển
sang lãi suất mới. Khoản tiết kiệm này thuộc về tài sản nhạy cảm với lãi suất. Ngược
lại, với khoản tiết kiệm 3 năm, khi lãi suất thị trường thay đổi, chỉ một phần nhỏ sắp
đến hạn, hoặc mới gửi có khả năng chuyển sang lãi suất mới. Do ngân hàng sử dụng lãi
suất cố định đã tạo ra các tài sản và nguồn kém nhạy cảm với lãi suất.
Sự khác biệt về kì hạn và kì hạn đặt lại là tất yếu và ngân hàng khó có thể duy
trì một sự phù hợp tuyệt đối về kì hạn giữa nguồn và các loại tài sản khác nhau trong
mọi thời kì do kì hạn thường do người đi vay và người gửi tiền quyết định. Kì hạn đặt
lại thì bị tác động bởi dự đoán về sự biến động lãi suất trong tương lai của ngân hàng
và của khách hàng. Khách hàng muốn chọn lãi suất cố định trong suốt hợp đồng để tính
toán trước chi phí của dự án, trong khi đó ngân hàng có xu hướng chia nhỏ kì hạn để
hạn chế rủi ro lãi suất.
Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản được đo bằng khe hở lãi suất:
Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm lãi suất – Nguồn nhạy cảm lãi suất(8)
Ngân hàng có khe hở dương nếu tài sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm (kì
hạn huy động dài hơn sử dụng) và ngược lại, có khe hở âm nếu tài sản nhạy cảm nhỏ
hơn nguồn nhạy cảm (kỳ hạn huy động nhỏ hơn sử dụng).
1.3.2. Sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến:
Quan hệ cung-cầu về tín dụng trên thị trường thường xuyên thay đổi, vì vậy lãi
suất thị trường thường xuyên thay đổi. Ngân hàng luôn nghiên cứu và dự báo lãi suất.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp ngân hàng không thể dự báo chính xác mức độ và
xu hướng biến đổi của lãi suất.
Nếu ngân hàng duy trì Khe hở lãi suất dương:
-Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất tăng;
8


PGS.TS. Nguyễn Minh Kiều (2010), Giáo trình Quản trị rủi ro Tài chính, Nhà xuất bản tài chính


17

-Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất giảm;
Nếu ngân hàng duy trì Khe hở lãi suất âm:
-Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất giảm;
-Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất tăng;
Ngân hàng chỉ có thể phản ứng điều chỉnh hoạt động của mình theo sự biến
động lãi suất để đạt được mục tiêu kinh doanh hiệu quả nhất.
1.3.3. Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng
Trong suốt một thời gian dài trước đây các NHTM Việt Nam sử dụng chế độ lãi
suất cố định theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Khi lãi suất cố định thì thời hạn
nguồn và tài sản là yếu tố tạo ra rủi ro lãi suất tiềm năng.
Các dự án cho vay trung và dài hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu cho
vay của NHTM, mà hầu hết những dự án cho vay này thường áp dụng mức lãi suất cố
định do các chủ đầu tư muốn tính toán được hiệu quả của dự án. Cũng như vậy, phần
lớn những người tiết kiệm cũng yêu cầu lãi suất cố định để phòng ngừa rủi ro. Khi lãi
suất thị trường thay đổi thì những hợp đồng này có thể đem lại rủi ro cho ngân hàng và
khách hàng.

1.4.

Khái niệm quản trị rủi ro lãi suất
Sơ đồ 1.1: Quản trị rủi ro lãi suất


18


(Nguồn: Theo website kienthuckinhte.vn)

Quản trị rủi ro là quá trình xác định các rủi ro và tìm cách quản lý, hạn chế các
rủi ro đó xảy ra với tổ chức. Một cách tổng quát, đấy là quá trình xem xét toàn bộ hoạt
động của tổ chức, xác định các nguy cơ tiềm ẩn, và khả năng xảy ra các nguy cơ đó. Từ
đó có sự chuẩn bị các hành động thích hợp để hạn chế các rủi ro đó ở mức thấp nhất.
Trong quá khứ, nói đến quản trị rủi ro phần lớn người ta nghĩ đến các hoạt động
bảo hiểm. Đây là các dịch vụ trọn gói, trong đó người mua bảo hiểm sẽ không phải
chịu các rủi ro trong trường hợp nó xảy ra. Tuy nhiên, khái niệm quản trị rủi ro ngày
nay đã thay đổi rất nhiều. Với những yêu cầu của pháp luật, yêu cầu của người lao
động, quản trị rủi ro đã trở thành một yếu tố quản trị ngày càng quan trọng như quản trị
tài chính hay quản trị các nguồn lực khác trong tổ chức.
Quản trị rủi ro lãi suất là việc ngân hàng tổ chức một bộ phận nhằm nhận biết,
định lượng những tổn thất đang và sẽ gây ra từ rủi ro lãi suất để từ đó có thể giám sát
và kiểm soát rủi ro lãi suất thông qua việc lập nên những chính sách, chiến lược sử
dụng các công cụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro lãi suất từ các hoạt động kinh doanh
của ngân hàng một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục.(9)

9

Theo website kienthuckinhte.vn


19

Trong những năm gần đây, các NHTM và các cơ quan quản lý tại nhiều quốc
gia trên thế giới đã giành nhiều thời gian và công sức để phát triển hệ thống giám sát và
quản lý rủi ro lãi suất lãi suất nhằm tách biệt danh mục tài sản có, tài sản nợ và lợi
nhuận của ngân hàng khỏi ảnh hưởng tiêu cực của những biến động lãi suất. Dù lãi suất

thay đổi, các ngân hàng luôn mong muốn đạt được thu nhập dự kiến ở mức tương đối
ổn định và đây chính là mục tiêu của ngân hàng trong công tác quản lý rủi ro lãi suất.
Ở Việt Nam hiện nay, công tác quản trị rủi ro nhất là quản trị rủi ro lãi suất đang
trở thành vấn đề được quan tâm của nhiều ngân hàng trong chiến lược kinh doanh của
mình. Đây là một vấn đề mang tính chiến lược của nhiều ngân hàng khi Việt Nam đã
trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO: Ngân hàng có nghiên cứu và công tác
quản trị rủi ro tốt thì mới khẳng định được đẳng cấp, vị thế và giá trị của ngân hàng
mình.
1.5.

Các phương pháp quản trị rủi ro lãi suất
1.5.1. Quản trị khe hở lãi suất:
Các nhà quản trị đã sử dụng khe hở lãi suất như là một chỉ tiêu đo khả năng thu

nhập giảm khi lãi suất thay đổi ngoài dự kiến. Khe hở lãi suất càng lớn thì khi lãi suất
thay đổi thay đổi ngoài dự kiến, tổn thất của ngân hàng càng lớn.
Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm lãi suất – Nguồn nhạy cảm lãi suất(10)
Quy trình quản lý khe hở lãi suất gồm 4 bước:
- Lựa chọn thời kì nhằm quản trị (có thể là 3 tháng, 6 tháng hay 1 năm…)
- Lựa chọn giá trị tỷ lệ thu nhập lãi cận biên mục tiêu
- Dự báo lãi suất tăng hay giảm
- Xác định giá trị tài sản nhạy cảm với lãi suất và giá trị nguồn vốn nhạy cảm với lãi
suất mà ngân hàng sẽ nắm giữ.
* Yêu cầu với những nhà quản trị: Khi sử dụng kĩ thuật này yêu cầu nhà quản trị
phải tiến hành phân tích kì hạn, định giá lại những cơ hội gắn với những tài sản sinh lời
của ngân hàng, những khoản tiền gửi cũng như vốn vay trên thị trường. Nếu nhà quản
10

PGS.TS. Nguyễn Minh Kiều (2010), Giáo trình Quản trị rủi ro Tài chính, Nhà xuất bản tài chính



20

trị thấy rằng mức độ rủi ro là quá lớn, họ sẽ phải thực hiện một số điều chỉnh sao cho
giá trị của các tài sản nhạy cảm với lãi suất trở nên phù hợp tới mức tối đa với giá trị
nguồn nhạy cảm với lãi suất. Việc quản trị khe hở lãi suất là vô cùng khó khăn và phức
tạp đòi hỏi nhà quản trị phải có trình độ và việc xác định thời điểm định giá lại các tài
sản và nguồn của ngân hàng và lựa chọn thời gian thích hợp để cân bằng tài sản và
nguồn nhạy cảm với lãi suất là không đơn giản.
Khi lãi suất thay đổi thì ảnh hưởng đến ngân hàng đó là làm giảm lợi nhuận của
ngân hàng, để xác định ngân hàng có rủi ro lãi suất không người ta sử dụng hệ số sau:
Tài sản có nhạy cảm với lãi suất
Hệ số rủi ro lãi suất(11)
=
Tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất
Hệ số trên chỉ ra khả năng rủi ro khi có biến động về lãi suất:
 R>1 nếu lãi suất tăng thì thu lãi>trả lãi thì ngân hàng không bị rủi ro lãi
suất, nếu lãi suất giảm thì thu nhập ngân hàngxảy ra
 R<1 thì khi lãi suất tăng thì thu nhập < chi phí, rủi ro lãi suất xảy ra
 R=1 không có thay đổi khi có biến động về lãi suất
1.5.2. Quản trị khe hở kì hạn:

“Khe hở kỳ hạn” là sự chênh lệch giữa kỳ đến hạn trung bình của tài sản nợ và
kỳ đến hạn trung bình của tài sản có.
Khe hở kì hạn = Kỳ hoàn vốn trung bình theo giá trị của danh mục tài sản
– Kì hoàn trả trung bình theo giá trị nguồn vốn(12)
Kỳ hạn hoàn vốn là giá trị kỳ hạn trung
bình xác định trên cơ sở thời gian xuất hiện các dòng tiền vào được tạo ra từ tài sản.
Kỳ hạn hoàn trả là thước đo thời gian trung bình của dòng tiền dự tính đi ra khỏi

ngân hàng.
Để phòng chống rủi ro lãi suất ngân hàng thường lựa chọn khe hở kỳ hạn
dần đến 0.
Để phòng ngừa rủi ro lãi suất phải đảm bảo:
11
12

PGS.TS. Nguyễn Minh Kiều (2010), Giáo trình Quản trị rủi ro Tài chính, Nhà xuất bản tài chính
PGS.TS. Nguyễn Minh Kiều (2010), Giáo trình Quản trị rủi ro Tài chính, Nhà xuất bản tài chính

tiến


21

Kỳ hạn hoàn vốn
Kỳ hạn hoàn trả trung
Trung bình theo giá trị
= bình theo giá trị của X
------------------------------- (13)
tài sản
nguồn vốn
Quy trình quản trị khe hở kì hạn gồm 2 bước:

Tổng giá trị nguồn vốn
Tổng giá trị tài sản

- Tính kỳ hạn hoàn vốn của từng khoản mục trong danh mục.
- Nhân giá trị kỳ hạn hoàn vốn vừa tính với tỷ trọng của giá trị thị trường
từng khoản mục trong danh mục.

1.5.3. Sử dụng các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất
Công cụ tài chính phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những
công cụ tài chính đã có (trị giá cổ phiếu, lãi suất, hàng hóa….) nhằm nhiều mục tiêu
như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Sự biến động khó lường
của trị giá cổ phiếu, lãi suất, hàng hóa… trên thị trường là những nguyên nhân gây ra
rủi ro cho các nhà đầu tư trong các phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro
thua lỗ có thể xẩy ra, các nghiệp vụ tài chính phái sinh đã được hình thành. Cho đến
nay, các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng có bốn công cụ chính là
hợp đồng kỳ hạn (forwards), hợp đồng tương lai (futures), quyền chọn mua hoặc bán
(options) và hợp đồng hoán đổi (swaps).
1.5.3.1. Phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng hợp đồng kì hạn
Hợp đồng kì hạn là sự thỏa thuận giữa người mua và người bán tại thời điểm hi
ện tại rằng: người bán sẽ giao hàng cho người mua tại thời điểm hợp đồng đáo hạn và
người mua sẽ thanh toán cho người bán theo giá kì hạn đã được thỏa thuận mà không
quan tâm đến sự biến động của lãi suất thị trường hay giá cả của hàng hóa tại thời điểm
đó.
Các loại hợp đồng kì hạn lãi suất:

13

PGS.TS. Nguyễn Minh Kiều (2010), Giáo trình Quản trị rủi ro Tài chính, Nhà xuất bản tài chính


22



Hợp đồng kì hạn trái phiếu: Giữa lãi suất thị trường và trị giá trá

i phiếu có mối quan hệ nghịch biến với nhau nên các nhà quản trị có thể dùng quy tắc

này để phòng ngừa rủi ro lãi suất đối với các loại trái phiếu mà họ đang nắm giữ.
Ví dụ: Nếu dự báo lãi suất thị trường tăng, các nhà quản trị ngân hàng sẽ bán
trái phiếu hiện có bằng hợp đồng kì hạn. Khi đến hạn, nếu lãi suất tăng lên đúng như
dự báo, do trái phiếu đã được mua với giá cố định đã thỏa thuận trong hợp đồng nên
ngân hàng sẽ tránh được thiệt hại do trái phiếu giảm. Ngược lại, nếu ngân hàng dự báo
lãi suất thị trường sẽ giảm, nhà quản trị ngân hàng có thể ký hợp đồng mua kì hạn các
trái phiếu để thu lợi nhuận cao hơn do không phải trả them phần tăng của trái phiếu.


Hợp đồng kì hạn tiền gửi: Đặc trưng kinh doanh của ngân hàng là huy động tiền

gửi có thời hạn ngắn để tài trợ cho các khoản cho vay có thời hạn dài hơn. Nếu các
khoản cho vay có lãi suất cố định, trong khi đó, theo dự báo của ngân hàng thì lãi suất
thị trường lại có xu hướng tăng trong tương lai. Tình huống này đặt ngân hàng đứng
trước rủi ro lãi suất. Để tránh rủi ro lãi suất, ngân hàng có thể tiến hành ký một hợp
đồng kỳ hạn tiền gửi (Forward-Forward Deposit-FFD) với một đối tác khác. Ví dụ:
- Hôm nay, ngân hàng ký một hợp đồng tín dụng với khách hàng có mức lãi suất
cố định, thời hạn từ t0 đến t2.
- Hiện tại, ngân hàng chỉ huy động được nguồn vốn có thời hạn từ t0 đến t1
(trong đó:t0tín dụng trong khoản thời gian còn lại từ t1 đến t2.
Để phòng ngừa rủi ro do lãi suất có thể tăng tại thời điểm t1, ngay ngày hôm
nay, ngân hàng ký một hợp đồng kì hạn với một đối tác như sau: Tại thời điểm t1, ngân
hàng cam kết sẽ nhận và phía đối tác cam kết sẽ gửi một lượng tiền nhất định với mức
lãi suất cố định, thời hạn từ t1 đến t2.
Với hợp đồng kì hạn tiền gửi này, ngân hàng đã hoàn toàn tránh được rủi ro lãi
suất, nghĩa là thu nhập của ngân hàng từ chênh lệch lãi suất cho vay và huy động là
một số biết trước và chắc chắn, nghĩa là không phụ thuộc vào sự biến động của lãi suất



23

thị trường trong suốt khoảng thời gian từ t0 đến t2. Ngoài ra, với hợp đồng kì hạn tiền
gửi này, ngân hàng cũng đồng thời tránh được rủi ro thanh khoản.
Hợp đồng lãi suất kì hạn: Thay vì ký hợp đồng kì hạn tiền gửi như trên



(giữa ngân hàng và bên đối tác có sự giao nhận cả gốc và lãi của tiền gửi), ngân hàng
có thể sử dụng một hợp đồng khác chỉ lien quan đến trao đổi phần chênh lệch lãi suất
mà không có giao nhận khoản tiền gốc. Đó là hợp đồng lãi suất kì hạn.
1.5.3.2. Phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai là sự thỏa thuận giữa người mua và người bán tại thời điểm
ban đầu (t=0) rằng việc thanh toán và giao nhận hàng hóa được tiến hành tại một thời
điểm xác định trong tương lai. Nói một cách ngắn gọn, giá cả được thỏa thuận ngày
hôm nay, nhưng việc giao nhận tài sản và thanh toán xảy ra sau này.
Điểm khác biệt giữa hợp đồng tương lai và hợp đồng kì hạn:
- Hợp đồng tương lai được giao dịch một cách có tổ chức trên sở giao dịch,
trong khi hợp đồng kì hạn là sự thỏa thuận song phương, được giao dịch trên thị trường
OTC.
- Giá của hợp đồng tương lai được điều chỉnh hàng ngày theo điều kiện thị
trường, trong khi đó giá của hợp đồng kì hạn được ấn định cố định trong suốt hợp đồng
của kì hạn.
- Hợp đồng tương lai là hợp đồng được tiêu chuẩn hóa trong khi hợp đồng kì
hạn là hợp đồng tùy ý phụ thuộc vào sự thỏa thuận của người mua và người bán.
- Khi thực hiện hợp đồng tương lai rủi ro được giảm bớt do có sự bảo đảm của
sở giao dịch.
Các ngân hàng sử dụng hợp đồng tương lai để phòng ngừa rủi ro lãi suất ở cả
cấp độ vi mô lẫn cấp độ vĩ mô.
1.5.3.3. Phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng hợp đồng quyền chọn

Để hạn chế rủi ro liên quan đến việc thực hiện các hợp đồng kinh tế, nhất là các
hợp đồng dài hạn thì việc sử dụng các công cụ tài chính là hết sức quan trọng, mang lại


24

cho người bán, người mua những sự lựa chọn tối ưu, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Hợp đồng quyền chọn là hợp đồng cho phép người mua hoặc người bán mua hoặc bán
tài sản với giá định sẵn tại ngày đáo hạn hợp đồng.
Bên cạnh việc sử dụng hợp đồng kì hạn và tương lai các ngân hàng còn sử dụng
nghiệp vụ quyền chọn bao gồm quyền chọn mua và quyền chọn bán. Các hợp đồng
quyền chọn còn có thể được chia ra thành các hợp đồng: Hợp đồng tại sở giao dịch, các
hợp đồng qua quầy…


Giao dịch mua quyền chọn mua lãi suất (Caps): Mua Caps là mua quyền

chọn mua hoặc mua một chuỗi quyền chọn mua lãi suất. Nếu lãi suất thị trường tăng
lên trên mức lãi suất giao dịch quyền chọn thì người bán quyền chọn mua sẽ thanh toán
khoản chênh lệch lãi suất cho người mua Caps. Mua Caps được áp dụng trong trường
hợp ngân hàng dự tính một khoản lỗ nếu lãi suất thị trường tăng.


Giao dịch mua quyền bán lãi suất (Floors): Mua Floors là mua quyền

chọn bán đối với lãi suất. Nếu lãi suất thị trường giảm xuống dưới mức lãi suất giao
dịch quyền chọn thì người bán sẽ thanh toán khoản lãi suất chênh lệch cho người mua.
Mua Floors được áp dụng trong trường hợp ngân hàng dự tính bị thiệt hại một khoản
tiền nếu lãi suất thị trường giảm.



Các giao dịch đồng thời mua quyền chọn mua và quyền chọn bán lãi

suất (Collars)
Hợp đồng Collars xuất hiện khi ngân hàng đồng thời thực hiện cả hai giao dịch Caps và
Floors khi tài sản của ngân hàng gặp nhiều rủi ro khi lãi suất biến động mạnh.
1.5.3.4. Phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng hợp đồng hoán đổi lãi suất
Hợp đồng hoán đổi lãi suất được sử dụng như một công cụ để bảo hiểm rủi ro
lãi suất. Hợp đồng hoán đổi lãi suất là thỏa thuận theo đó mỗi bên thanh toán cho bên
kia khoản tiền lãi tính theo lãi suất thả nổi hay lãi suất cố định trên cùng một khoản nợ
gốc trong cùng một khoảng thời gian.


25

Nợ gốc của một giao dịch hoán đổi lãi suất: là số tiền mà các bên thực hiện giao
dịch hoán đổi lãi suất thỏa thuận làm cơ sở để tính lãi suất thả nổi, số lãi cố định và số
lãi ròng hoán đổi lãi suất.
-Lãi suất thả nổi: là mức lãi suất thay đổi trong thời hạn hợp đồng hoán
đổi lãi suất trên cơ sở lãi suất thị trường và do các bên thuận.
- Lãi suất cố định: là mức lãi suất do các bên thoả thuận không thay đổi trong
thời hạn hợp đồng hoán đổi lãi suất.
- Số lãi ròng của từng thời kỳ của một hợp đồng hoán đổi lãi suất là chênh lệch
giữa số lãi được nhận và số lãi phải trả của từng kỳ thanh toán của hợp đồng đó.
- Kỳ hạn thanh toán số lãi ròng: là khoảng thời gian trong hợp đồng hoán
đổi lãi suất có hiệu lực đã được thỏa thuận giữa các bên, mà tại cuối mỗi khoảng thời
gian đó, các bên thực hiện thanh toán cho nhau số lãi ròng.
Kết luận: Tùy vào tình hình của từng ngân hàng và ở từng giai đoạn kinh doanh
khác nhau mà các ngân hàng sử dụng kỹ thuật quản lý rủi ro lãi suất cho phù hợp, đem
lại hiệu quả kinh doanh cao nhất.

1.5.4. Sử dụng mô hình định giá lại
Nội dung của mô hình định giá lại là việc phân tích các luồng tiền dựa trên
nguyên tắc giá trị ghi sổ nhằm xác định chênh lệch giữa lãi suất thu được từ tài sản có
và lãi suất thanh toán cho vốn huy động sau một thời gian nhất định. Để sử dụng mô
hình này, trước hết toàn bộ tài sản Có và tài sản Nợ của ngân hàng sẽ được phân thành
các nhóm tài sản nhạy cảm với lãi suất theo các mức kỳ hạn, tính trên cơ sở thời hạn
còn lại của tài sản. Cơ sở phân loại dựa vào mức độ biến động của thu nhập từ lãi suất
(đối với tài sản Có) và chi phí trả lãi (đối với tài sản Nợ) khi lãi suất thị trường có sự
thay đổi. Hiện nay mô hình định giá lại đang được áp dụng ở Mỹ, Quỹ dự trữ liên bang
Mỹ yêu cầu các ngân hàng Mỹ phải báo cáo định kỳ hàng quý chênh lệch giữa tài sản
có và tài sản nợ theo các kỳ hạn sau:
1. Kỳ hạn đến một ngày .
2. Trên một ngày đến 3 tháng.
3. Trên 3 tháng đến 6 tháng


×