Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Hệ sinh thái ao nuôi trồng thủy sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.36 KB, 25 trang )

Báo cáo môn quản lý các HST ở nước 2011
Báo cáo:
QUẢN LÝ CÁC HỆ SINH THÁI NƯỚC.
Chủ đề : “ Hệ sinh thái ao nuôi trồng thủy sản.”
GVHD: T.S Hoàng Thị Bích Mai.
Nhóm 4 – Lớp 50 NTMT
DANH SÁCH NHÓM 4
* Đào Thị Hồng Vân.
* Lê Văn Cường.
* Lê Thị Thu Hà.
* Tăng Thị Thảo.
* Nguyễn Thị Miền.
* Nguyễn Thị Thu Hương.
* Huỳnh Thị Ngọ.
* Phay Pa Đít Hôm In Ta.
Trang 1
Báo cáo môn quản lý các HST ở nước 2011
I. MỞ ĐẦU
Từ ngàn đời xưa cha ông ta đã biết sử dụng ao, hồ để nuôi trồng các loài thủy hải sản. Bởi thế
mà có câu :“Muốn giàu nuôi cá, muốn khá nuôi heo”.Ngoài nguồn lợi thủy hải sản từ hoạt động
khai khác tự nhiên, nguồn lợi thủy sản từ các hệ sinh thái ao nuôi là nguồn cung cấp thực phẩm
không thể thiếu cho con người. Ở Việt Nam, nhiều loại cá nước ngọt được nuôi một cách rộng rãi
như : cá nước ngọt nhập nội (cá rô phi, cá mè trắng, mè hoa, trắm cỏ, các loài cá trôi Ấn Độ, trê
phi...), cá nước ngọt bản địa (mè vinh, thát lát, bống tượng, cá rô, c á lóc, cá sặc...), cá da trơn (tra,
basa)….
Hiện nay NTTS phát triển rất rộng với nhiều đối tượng nuôi và nhiều mô hình nuôi được áp
dụng. Hệ sinh thái ao nuôi trồng thủy sản ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển nền
kinh tế nước ta.
Để tìm hiểu rõ hơn về những đặc điểm của một ao NTTS nói chung và ao nuôi cá nước ngọt nói
riêng, từ đó có những biện pháp quản lý thích hợp đồng thời nghiên cứu những biện pháp nâng
cao, cải thiện chất lượng và năng suất nuôi, chúng ta cùng nghiên cứu về đặc điểm HST ao NTTS


nước ngọt.
II.NỘI DUNG.
1.Các thành phần của HST ao nuôi trồng thủy sản.
Ao NTTS là một hệ sinh thái nước đứng.
Trang 2
Báo cáo môn quản lý các HST ở nước 2011
1.1.Môi trường tự nhiên.
Bao gồm tất cả các yếu tố vật lý và hóa học của môi trường nước bao quanh sinh vật trong ao
nuôi.Những yếu tố này cũng tùy thuộc vào vị trí địa lý, điều kiện khí hậu, đặc điểm nền đáy của
thủy vực mà ở những nơi khác nhau các yếu tố này lại có những đặc điểm khác nhau, tùy thuộc
vào đối tượng nuôi mà người ta lựa chọn những nơi phù hợp để đối tượng nuôi sinh trưởng và phát
triển tốt nhất, nhằm đem lại năng suất và hiệu quả nuôi cao nhất.
- Các yếu tố vật lý gồm nhiệt độ, ánh sáng, không khí, các chất dinh dưỡng….
+ Ánh sáng có ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái ao nuôi cá: nó là nguồn cung cấp năng
lượng ánh sáng cho các sinh vật sống tự dưỡng như:các loại tảo,vi sinh vật tự dưỡng sử dụng năng
lượng mặt trời khác… Ánh sáng được coi là nguồn khởi nguyên của sự sống:
Ánh sáng mặt trời, qua quá trình quang hợp của cây xanh và các vi sinh vật tự dưỡng
khác tạo thành chất hữu cơ cung cấp thức ăn cho sinh vật dị dưỡng.
Cường độ chiếu sáng trong ngày càng lớn thì hiệu quả quang hợp càng cao. Trong những
ngày nắng to thì chúng ta quan sát thấy mặt nước càng xanh, do các loại tảo và vi sinh vật được
cung cấp đầy đủ năng lượng ánh sáng mặt trời. Ngoài ra ánh sáng còn ảnh hưởng rất lớn đến các
nhân tố khác như: nhiệt độ, độ ẩm….
+ Nhiệt độ: có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của hệ sinh vật trong ao mà đặc biệt là đời
sống của các loài cá nuôi trong ao. Nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp đều trở ngại đến quá trình
quang hợp của các loại sinh vật tự dưỡng. Đối với các loài cá mỗi loài có một giới hạn chịu nhiệt
riêng. Ví dụ như:
♦ Cá cá rô phi Việt Nam giới hạn chịu đựng về nhiệt là từ 5,6
0
C – 42
0

C, trong đó nhiệt độ
cực thuận là 30
0
C. Ở nhiệt độ này thì cá rô phi sinh trưởng và phát triển mạnh nhất. Do đặc điểm
này mà các tỉnh Miền Bắc nước ta về mùa đông không nuôi được các loài cá có giới hạn chịu nhiệt
độ thấp.
Do các loài cá là động vật biến nhiệt, nhiệt độ của cơ thể phụ thuộc vao nhiệt độ của môi
trường. Khi nhiệt độ tăng cao hoặc hạ thấp đều ảnh hưởng đến hoạt động của các loại cá,chúng
chậm lớn và giảm hay ngừng quá trình trao đổi chất, nếu nhiệt độ còn bất lợi nữa thì mội số loại cá
Trang 3
Báo cáo môn quản lý các HST ở nước 2011
có thể bị chết. Trong ví dụ trên thì cá rô phi nếu dưới 5,6
0
C hoặc trên 42
0
C thì cá rô phi bị chết.
Một ví dụ khác là cá chép chỉ đẻ được ở nhiệt độ môi trường nước là >= 15
0
C. Nếu dưới nhiệt độ
này thì cá chép không sinh sản được. Dưới 4
0
C thì cá chép có thể chết.
Nhiệt độ còn ảnh hưởng đến tập tính của một số loại cá: khi nhiệt độ thuận lợi thì chúng
kiếm ăn nhiều hơn, khi nhiệt độ hạ thấp thì chúng ngừng ăn, một số loài còn có hiện tượng ngủ
đông như cá Trê, lươn….
Nhiệt độ ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển của các loài cá.
+ Nước: là môi trường sống của cá và các sinh vật thủy sản khác. Ngoài ra trong hệ sinh
thái ao nuôi nước còn cung cấp cho nhu cầu tưới ,giữ ẩm cho các loại cây ở bờ ao.
Nước là dung môi hòa tan các chất dinh dưỡng cho các vi sinh vật, sinh vật phù du sống
trong ao.

Nước có một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của các loại cá. Nó cung cấp đầy
đủ các chất dinh dưỡng cũng như điều hoà các hoạt động sống của cá.
+ Không khí: là các chất khí hoà tan trong nước, nó gồm CO
2
, O
2
, CH
4
, N
2
….nó có một
vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của các sinh vật trong nước đặc biệt là các loại cá nuôi.
+ Ngoài ra còn có rất nhiều các nhân tố khác ảnh hưởng đến đời sống của các loài cá nuôi
như nguồn nước, hàm lượng các chất hoà tan trong nước…
- Các yếu tố hoá học gồm độ pH, nồng độ các kim loại trong nước….Nó có ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống của các loại cá cũng như các sinh vật phù du trong nước. Các chất này rất cần
thiết trong cuộc sống của các sinh vật, thiếu nó thì các sinh vật chậm hoặc không phát triển được
nhưng nếu thừa nó thì rất nguy hiểm, gây ngộ độc và gây chết.
1.2.Quần xã sinh vật
Trang 4
Báo cáo môn quản lý các HST ở nước 2011
Các sinh vật trong ao.
a. Sinh vật sản xuất trong hệ sinh thái ao hồ:
Sinh vật sản xuất là các loại tảo,rong ,toc tiên ,sen rau muống dưới ao và các loài thực vật bậc
cao sống trên bờ cây cỏ.
Đây là bộ phận vô cùng quan trọng trong hệ sinh thái, đảm bảo cho sự tồn tại của toàn bộ các quần
xã nằm trong hệ sinh thái. Thảm thực vật phong phú nhất có lẽ là vùng vên bờ, trong phạm vi này
quần thể thực vật tạo thành các vùng đồng tâm chúng cũng phân bố thành những quần thể dễ nhận
biết bên trong hay ở độ sâu quanh bờ có các loài cây như bao gồm các loài như: tảo, rong rêu, bèo
tấm, bèo tây, rau muống nước, hay những loài thực vật lớn...

- Tảo phát triển trong điều kiện: ánh sáng và khí cacbonic (CO
2
), nitơ, photpho (đạm, lân)
và các nguyên tố vi lượng.
- Trong quá trình quang hợp, tảo nhả oxy. Nguồi oxy do tảo nhả là dưỡng khí quan trọng
cho các động vật thuỷ sinh. Ngoài ra tảo là nguồn cung cấp nitơ quan trọng trong nước mà chủ yếu
là amoniac. Nguồn nitơ thâm nhập vào ao hồ từ quá trình cố định đạm, phân bón, thức ăn, từ
khoáng hoá các chất hữu cơ bài tiết từ động vật thuỷ sinh. Trong ao hồ, mật độ tảo tối ưu đối với
ao có độ sâu 1 - 1,5 m nước nằm trong khoảng 15 – 60 mg/l.
- Có rất nhiều loại tảo như: Tảo lam (cyanobacteria) chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ao hồ
nuôi. Tảo lục, tảo vàng ánh…
b. Sinh vật tiêu thụ: bao gồm các sinh vật phù du, các loại cá ăn sinh vật phù du và các loại cá ăn
thịt khác. Ta có thể diễn tả bằng sơ đồ sau:
Trang 5
Báo cáo môn quản lý các HST ở nước 2011
Sinh vật sản xuất → sinh vật tiêu thụ (C
1
) → sinh vật tiêu thụ (C
2
).
Bao gồm các động vật trong hồ như tôm, cua, ếch, nhái và cá ...chúng sử dụng các chất hữu cơ
trực tiếp hoặc gián tiếp từ các sinh vật sản xuất. Sinh vật tiêu thụ bậc I là các sinh vật ăn trực tiếp
các loài sinh vật sản xuất trong hồ như:cá trắm cỏ,cá mè vinh, mè hoa và các động vật ăn mùn bã
chất hữu cơ như tôm, cua, trai, hến ,ốc...sinh vật tiêu thụ bậc II là các sinh vật là các động vật ăn
tạp hay ăn thịt như: cá trôi, cá chép, rô phi, gọng vó ....theo chuỗi thức ăn còn có các sinh vật tiêu
thụ bậc III như: cá quả, cá chim,chim bói cá, rắn về mùa xuân còn có các loài chim như giang
giang, cò, vạc...
Còn các loại cá thì con người sử dụng khi đạt yêu cầu về kích thước và khối lượng nên ta
không xét nó trong vòng chu chuyển tuần hoàn vật chất. Do đó trong hệ sinh thái ao hồ thì vòng
chu chuyển tuần hoàn vật chất là không khép kín.

ao nuôi nhiều loại cá như cá mè, cá rô phi, cá chép, cá chim, cá chắm cỏ, cá trê lai….cấu
trúc phân tầng hợp lí đẻ ao nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao.
Điều kiện ánh sáng , nhiệt độ và yếu tố địa hình đã tạo cho hồ có cấu trúc phân tầng khá
phức tạp
+Tầng mặt nước
Là tầng nhận được nhiều ánh sáng mặt trời và có hàm lượng oxy cao nhất, phù hợp với đời sống
của các sinh vật ưa sáng. Các động vật chủ yếu ở tầng mặt này như:các sinh vật phù du, gọng vó,
nhện nước và cả chuồn chuồn, những loài cá ăn động vật phù du như cá mè.
Cá mè hoa
Trang 6
Báo cáo môn quản lý các HST ở nước 2011
Cá mè :là một trong những loài cá phổ biến ở nước ta. Cá sống thành đàn, nhanh nhẹn, có
chuỗi thức ăn ngắn chủ yếu ăn sinh vật phù du sống trôi nổi trên mặt nước và cả mùn bã hữu cơ.
Cá mè thường sinh sản vào đầu tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng 7. Nhiệt độ thích hợp cho cá
sinh trưởng tốt là 25-32°C, cá thường nhạy cảm với sự thay đổi pH của nước, chết khi pH của
nước nhỏ hơn 4.
Cá mè Vinh là loài cá sống ở tầng mặt là loài cá có tốc độ sinh trưởng rất nhanh, thức ăn
chủ yếu của cá là các loài thực vật thủy sinh và các sinh vật phù du trên mặt nước. Cá nhạy cảm
với sự thay đổi pH và thay đổi nhiệt độ của môi trường. Nhiêt độ thích hợp là 25-30°C, pH thích
hợp từ 6-8 cá sinh sản nhanh
+. Tầng nước giữa
Là nơi sinh sống hỗn giao của nhiều loài cá và có khi là cả của những loài sống ở tầng đáy và
tầng mặt.các loài thủy vật chủ yếu sống ở tầng nước này như cá trôi cá trắm, cá chim trắng cá rô…
Cá chim trắng
Cá chim trắng có nguồn gốc Nam Mĩ, có khả năng sinh trưởng phát triển tốt nhưng chịu lanh kém,
không sống được dưới 10
0
C,có thể chịu được môi trường nước cò nồng độ O
2
thấp.giới hạn ph từ

5 đến 10, và khả năng chịu được khí NH
3
tới 2,2mg/l. Nhiệt độ thích hợp để sinh trưởng, phát triển
là 25-30
oC
.
Trang 7
Báo cáo môn quản lý các HST ở nước 2011
Cá trắm cỏ
• Cá trắm cỏ: thuộc họ cá chép, Thân cá trắm cỏ thon dài và có dạng hình trụ, bụng tròn, thót
lại ở gần đuôi; chiều dài lớn gấp 3,6-4,3 lần chiều cao của thân và gấp 3,8-4,4 lần của
chiều dài đầu; chiều dài của đuôi lớn hơn chiều rộng của nó; đầu trung bình; miệng rộng và
có dạng hình cung; hàm trên dài rộng hơn hàm dưới, phần cuối của nó có thể sát xuống
phía dưới mắt; không có xúc tu; các nếp mang ngắn và thưa thớt (15-19); vảy lớn và có
dạng hình tròn. Hậu môn gần với vây hậu môn; màu cơ thể: phần hông màu vàng lục nhạt,
phần lưng màu nâu sẫm; bụng màu trắng xám nhạt. Môi trường: Nước ngọt; độ sâu sinh
sống từ 0 đến 30 m trong các sông, ao hồ và trong các ao nuôi nhân tạo. Chúng sinh sống ở
tầng nước giữa và thấp, ưa nước sạch. Nhiệt độ: 0 - 35°C Vĩ độ: 65°bắc - 25°nam Cá rô
phi: là loài cá có tốc độ sinh sản và phát triển rất nhanh.khả năng chịu đựng tốt, thân cá
màu hồng tím vảy sánh bóng vây đuôi có những sọc đen còn vây lưng có những sọc trắng.
Nhiệt độ thích hợp cho cá phát triển là 20-30°C, cá chết rét ở nhiệt độ 5,5°C và chết nóng ở
nhiệt độ 42°C, pH môi trường thích hợp là 6,5-8. Cá thành thục sinh sản rất sớm lần đầu
sau 3 tháng tuổi, cá đẻ quanh năm trừ những ngày quá lạnh hay quá nóng cá ngừng sinh
sản, số lượng trứng mỗi lần vào khoảng 2000 trứng.
+ Tầng đáy
Tầng nước nhận được ít ánh sáng nên là điều kiện thích nghi cho các loài không ưa sáng. Ở
đây có hàm lượng oxy thấp hơn so với tầng mặt. Một số loài thủy sinh điển hình như cá chép, cá
trê, lươn, trạch ở ven bờ còn là nơi thích nghi cho các loài thực vật thủy sinh như rong, rêu, tảo và
cả những loài nhuyễn thể tôm, cua, cá…
Trang 8

Báo cáo môn quản lý các HST ở nước 2011
Cá chép: thức ăn chủ yếu là các loài sinh vật đáy như nhuyễn thể, côn trùng, giun và cả
mần sinh trưởng cá thích nghi ở nhiệt độ 20-28°C. Là loài có giới hạn chịu nhiệt cao cá chép có
thể sống ở nhiệt độ dưới 5°C, pH thích hợp là 6-8, sinh sản theo mùa.
Cá chép
Cá trê: Các loài cá này có khả năng lấy ôxy từ không khí do chúng có khả năng hít thở
không khí nhờ một cơ quan phức tạp mọc ra từ vòm mang. Một vài loài có khả năng vượt một
khoảng cách không lớn trên mặt đất như Clarias batrachus.
Tôm là loài giáp xác có cỏ ngoài kitin bao bọc, là loài sống ở tầng đáy ăn mùn bã chất hưu
cơ. Tôm phát triển qua nhiều lần lột xác và rất nhiều giai đoạn ấu trùng. Là loài rất nhạy cảm với
sự thay đổi bởi nhiệt độ và pH môi trường
c. Sinh vật phân hủy: các loại vi khuẩn và nấm sống dưới đáy bùn .Trong hệ sinh thái ao
thì sinh vật phân huỷ chỉ là các vi khuẩn phân giải các mùn bã thực vật và các thức ăn thừa. vai trò
của bộ phận sinh vật này rất quan trọng phân giải trả lại môi trường năng lượng.
d. Quan hệ giữa các thành phần: các thành phần trong chu trình tuần hoàn vật chất trên
có vai trò và vị trí rất quan trọng. Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, mỗi thành phần giữ
một vai trò riêng trong chu trình.
Trong sự trao đổi năng lượng của hệ sinh thái ao hồ thì toàn bộ năng lượng mặt trời được
cố định trong các loại Tảo phải trải qua một trong ba quá trình:
Trang 9
Báo cáo môn quản lý các HST ở nước 2011
• Nó có thể đi qua hệ sinh thái bởi mạng lưới và chuỗi thức ăn.
• Nó có thể tích luỹ trong hệ sinh thái như năng lượng hoá học trong nguyên liệu động vật
hay thực vật.
• Nó có thể đi ra khỏi hệ sinh thái dưới dạng nhiệt hoặc sản phẩm nguyên liệu.
- Năng lượng được sử dụng trong hệ sinh thái ao hồ tồn tại ở các trạng thái khác nhau. Có
bốn dạng quan trọng là:
• Năng lượng bức xạ, đó là năng lượng ánh sáng, được sắp xếp thành phổ rộng lớn bởi
các bước sóng điện từ phát ra từ mặt trời;
• Năng lượng hoá học, là năng lượng tích luỹ trong các hợp chất hoá học như các chất

dinh dưỡng trong đất, nước hoặc trong sinh khối sinh vật;
• Năng lượng nhiệt;
• Động năng, là năng lượng của cơ thể.
Phần lớn các hệ sinh thái nhận năng lượng chủ yếu từ mặt trời. Năng lượng ấy có hai
dạng: năng lượng bức xạ mặt trời và sự phát xạ nhiệt dài của các vật thể nhận ánh sáng. Hai loại
bức xạ này đã tạo nên chế độ khí hậu quyết định điều kiện tồn tại của hệ sinh thái. Một phần nhỏ
của năng lượng bức xạ,qua quá trình quang hợp được biến đổi thành năng lượng hoá học chứa
trong cây xanh, là thức ăn của các thành phần sống khác của hệ sinh thái.
Lưọng bức xạ mặt trời chiếu xuống mặt đất là 2cal/cm
2
/phút và được gọi là hằng số mặt
trời. Tuy nhiên, ở thời điểm cũng chỉ có một thời gian nhất định là ban ngày nên lượng ấy bị giảm
đi một nửa. Tính ra ngày, khoảng 14.400 kcal/m
3
và năm là5,25 triệu kcal/m
2
. Ngoài ra do bị mây,
hơi nước và các khí của khí quyển hút lên lúc đến hệ sinh thái chỉ còn khoảng 1 đến 2 triệu kcal/
m
2
/năm tuỳ vỹ độ và mây. Số lượng này được cây hút một nửa và từ một đến 5% của phần bức xạ
được hấp thụ thành chất hữu cơ làm nêm hệ sinh thái và hoạt động của nó.
Năng lượng hóa học tồn tai trong thức ăn và được chuyển đổi trong chu trình dinh
dưỡng . Chất hữu cơ do cây tổng hợp, một phần được cây sử dụng để sống và sinh trưởng (và
cũng bị mất đi dưới dạng nhiệt các dạng tương ứng), một phần được chuyển cho các vật sống dị
Trang
10

×