1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm gần đây, sự phát triển của thị trường bán lẻ là một trong những điểm
sáng nổi bật của nền kinh tế Việt Nam nói chung. Sự phát triển này không chỉ thể hiện ở chiều
rộng (như số lượng ngày càng nhiều các cửa hàng bán lẻ hoạt động theo quy mô chuỗi) mà còn
thể hiện ở chiều sâu (như sự đa dạng của các mô hình kinh doanh bán lẻ, sự cải thiện của chất
lượng dịch vụ bán lẻ, …). Chính vì điều này, chủ đề nghiên cứu về hoạt động bán lẻ và các bên
liên quan (doanh nghiệp, người tiêu dùng) là nội dung nghiên cứu nhận được nhiều sự chú ý từ
các nhà nghiên cứu học thuật.
Trong các báo cáo về thị trường bán lẻ, các sản phẩm điện máy là một trong những sản
phẩm đáng chú ý. Từ những năm 2008 trở lại đây, sự xuất hiện của ngày càng nhiều các cửa
hàng bán lẻ các sản phẩm điện tử điện máy và sự mở rộng của các siêu thị điện máy mang các
thương hiệu khác nhau đã khiến cho thị trường bán lẻ các sản phẩm điện máy trở nên ngày càng
hấp dẫn. Một số thương hiệu doanh nghiệp bán lẻ lựa chọn phát triển theo mô hình chuỗi có
thể kể tới như Thế giới di động, FPT Shop, Viễn thông A, CellphoneS trong khi một số cửa
hàng bán lẻ khác cũng đã có dấu ấn riêng như Phúc Anh Smart Computer, Gia Long, Ishop. Về
phần các siêu thị điện máy, sự mở rộng của các siêu thị điện máy trong những năm qua phải kể
tới thương hiệu của chuỗi siêu thị điện máy Trần Anh, Mediamart, Pico, Nguyễn Kim và gần
đây nhất là Điện máy Xanh. Những dấu hiệu này, một mặt cho thấy tiềm năng kinh doanh đối
với mảng bán lẻ sản phẩm điện tử điện máy tại thị trường thành phố Hà Nội nói riêng và thị
trường Việt Nam nói chung; Mặt khác, điều đó cho thấy sự cạnh tranh khốc liệt mà nếu doanh
nghiệp bán lẻ không thận trọng trong việc điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình trước các
đối thủ mới thì sẽ gặp nhiều thách thức kinh doanh trong thời gian tiếp sau.
Tuy nhiên, sự cạnh tranh khốc liệt đã dẫn đến một kết quả tất yếu: Sự rời bỏ. Năm 2015
là một năm dấu mốc đối với ngành bán lẻ nói chung và lĩnh vực bán lẻ điện tử điện máy nói
riêng. Ngay từ đầu năm 2015, Nguyễn Kim một trong những thương hiệu đầu tiên của Việt
Nam trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ các sản phẩm điện tử, điện máy đã thông báo thương vụ
bán cổ phần cho Tập đoàn Central Group (Thái Lan) với mức chuyển nhượng 49% cổ phần.
Tiếp theo đó là việc Trần Anh hợp tác với Nojima một nhà bán lẻ điện máy lớn của Nhật Bản,
và đến năm tháng 4/2015, tỷ lệ sở hữu của Nojima đã là 31% tổng số cổ phần của Trần Anh.
Cũng trong giai đoạn này, có nhiều thông tin cho rằng Pico, Mediamart đã tìm kiếm đối tác nước
ngoài để thực hiện định hướng "quốc tế hóa", song chưa thành công. Đáng chú ý, năm 2017, thị
trường bán lẻ các sản phẩm điện máy tiếp tục chứng kiến nhiều thương vụ thâu tóm lớn. Đầu
tiên là thương vụ của Thế giới di động và Trần Anh khi toàn bộ chuỗi siêu thị điện máy mang
thương hiệu “Trần Anh” chính thức thuộc về Tập đoàn Thế giới di động và đây là bước mở
đường cho tham vọng chiếm lĩnh thị trường của chuỗi siêu thị điện máy mang thương hiệu
“Điện máy Xanh” ở khu vực miền Bắc. Thương vụ tiếp theo là thỏa thuận chuyển quyền sở
hữu FPT Retail và FPT Trading (thuộc Tập đoàn FPT) cho Tập đoàn Synex là một tập đoàn bán
lẻ hàng đầu về các sản phẩm điện thoại, máy tính bảng, thiết bị di động khác của Đài Loan.
Tiếp tục, đầu năm 2018, Tập đoàn Creador một quỹ đầu tư tư nhân, có trụ sở tại Malaysia đã
thông báo sẽ đầu tư 100 triệu đô la Mỹ vào Thế giới di động trong ba năm tới.
Có thể nhận thấy rằng, từ sau năm 2015 với dấu mốc thành lập Cộng đồng kinh tế các
quốc gia ASEAN (AEC) và việc dỡ bỏ thuế quan cho nhiều mặt hàng thuộc danh mục hàng điện
tử điện máy giữa các quốc gia thành viên, đã tạo nên sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp
bán lẻ điện máy trong nước. Kết quả là nhiều siêu thị điện máy của doanh nghiệp Việt Nam sẽ
buộc phải cho khách hàng người tiêu dùng những lý do đủ mạnh mẽ, đủ độc đáo để lựa chọn
mua hàng tại siêu thị của mình thay vì lựa chọn mua hàng tại các cửa hàng của các đối thủ cạnh
tranh. Thương hiệu chính là một trong các lý do đó. Thương hiệu của siêu thị điện máy có thể
trở thành một cam kết, một chứng nhận đảm bảo về chất lượng hàng hóa và chất lượng dịch vụ
được siêu thị điện máy cung cấp tới cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, thương hiệu của siêu thị
2
điện máy không thể tạo dựng trong thời gian ngắn, đó là quá trình tích luỹ trong nhiều năm và
tồn tại trong tâm trí khách hàng. Thương hiệu có thể tăng dần sức ảnh hưởng nếu như doanh
nghiệp chịu quan tâm, đầu tư thích hợp hoặc có thể bị mờ nhạt nếu như doanh nghiệp chưa thực
sự đặt niềm tin vào “thương hiệu của chính mình”. Thuật ngữ “tài sản thương hiệu” được giới
thiệu chính là để giải thích cho quá trình tích luỹ đó. Tài sản thương hiệu dưới góc độ khách
hàng được thể hiện bằng những phản ứng (về thái độ và về hành vi) có tính khác biệt của
người tiêu dùng đối với các thương hiệu là đối thủ cạnh tranh của nhau trong cùng một đoạn thị
trường mục tiêu.
Tài sản thương hiệu được nghiên cứu từ những năm 1980 và các nghiên cứu về chủ đề
này đã được mở rộng tới nhiều lĩnh vực kinh doanh cũng như nhiều loại hình kinh doanh khác
nhau. Trong số đó, các nghiên cứu về tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng người tiêu dùng là
nổi bật hơn với xuất phát điểm từ tiếp cận của Aaker (1991) và Keller (1993). Trải qua hơn hai
mươi năm, các nghiên cứu về tài sản thương hiệu được nghiên cứu đối với doanh nghiệp bán lẻ
đã có những đóng góp nhất định dưới góc độ thực tiễn để giúp cho doanh nghiệp có thể áp dụng
vào trong hoạt động quản trị thương hiệu. Các nghiên cứu về tài sản thương hiệu dựa trên khách
hàng người tiêu dùng trong lĩnh vực bán lẻ ngành hàng lương thực, thực phẩm thể hiện số lượng
vượt trội. Loại hình bán lẻ hiện đại cũng là đối tượng được ưu tiên trong các nghiên cứu về tài
sản thương hiệu. Tuy nhiên, trong số các loại hình đó, siêu thị chuyên doanh với ngành hàng đặc
thù thường ít được lựa chọn để làm chủ thể nghiên cứu. Chính vì vậy, luận án lựa chọn hướng
nghiên cứu về siêu thị điện máy với tư cách là một loại siêu thị chuyên doanh để khám phá các
yếu tố tác động tới tài sản thương hiệu đối với loại hình kinh doanh này. Xuất phát từ những lý
do trên, luận án với tên đề tài "Nghiên cứu tài sản thương hiệu của các siêu thị điện máy
trên địa bàn thành phố Hà Nội" được đề xuất.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là nghiên cứu về tài sản thương hiệu của siêu thị điện
máy. Trong đó, luận án tập trung làm rõ cơ sở khoa học của về các yếu tố ảnh hưởng tới tài sản
thương hiệu của siêu thị điện máy. Từ đó, luận án kế thừa và xây dựng mô hình nghiên cứu, tiếp
theo đó là phân tích dữ liệu để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố marketing bán lẻ tới
tài sản thương hiệu của các siêu thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, một
số khuyến nghị được luận án đề xuất nhằm nâng cao tài sản thương hiệu của các siêu thị điện
máy trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Từ đó, những nhiệm vụ cụ thể của luận án bao gồm:
Thứ nhất, Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản về tài sản thương hiệu dựa trên khách
hàng và tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ. Trong đó, luận án sẽ làm rõ nội dung về
tiếp cận tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng, những yếu tố cấu thành và yếu tố ảnh hưởng
tới tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng của doanh nghiệp bán lẻ.
Thứ hai, Xây dựng mô hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu; Lựa chọn phương
pháp thu thập dữ liệu và phương pháp phân tích dữ liệu.
Thứ ba, Phân tích kết quả thu thập dữ liệu để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu
tố marketing bán lẻ tới tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Từ đó, luận án đề xuất một số giải pháp và đưa ra một số khuyến nghị nhằm tác động đến các
yếu tố marketing bán lẻ có ảnh hưởng đến tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy, và từ đó
nâng cao tài sản thương hiệu của các siêu thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội. Những
khuyến nghị này được đặt trong bối cảnh phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam định hướng đến
năm 2035.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy. Đặc
biệt, luận án tập trung nghiên cứu đối tượng là các yếu tố marketing bán lẻ có tác động tới tài
3
sản thương hiệu của siêu thị điện máy. Đây là những yếu tố được kế thừa từ các nghiên cứu
trước về tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ và có điều chỉnh dựa trên ý kiến chuyên
gia.
b. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu theo nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu vào Tài sản thương
hiệu dựa trên khách hàng, Tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ, và đặc biệt là tài sản
thương hiệu của siêu thị điện máy. Luận án tập trung vào việc tìm hiểu và đánh giá mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố marketing bán lẻ tới tài sản thương hiệu của các siêu thị điện máy. Các
siêu thị điện máy được tiếp cận trong luận án là những chuỗi siêu thị điện máy gồm nhiều siêu
thị điện máy hoạt động theo mô hình tập trung. Chuỗi siêu thị gồm nhiều siêu thị thành viên có
cùng chủ sở hữu và có tính tập trung trong các quyết định về hoạch định và thực thi chiến lược
(Michael và Barton, 2001, tr. 64), có cùng một thương hiệu được quản lý tập trung với phương
thức kinh doanh thống nhất. Chuỗi siêu thị có thể dao động từ 2 – hơn 1000 điểm bán; Có cùng
một chủng loại hàng hóa với mức giá bán thống nhất (Michael và Barton, 2001, tr. 65).
Phạm vi nghiên cứu theo không gian: Luận án nghiên cứu các siêu thị điện máy hoạt động
theo chuỗi trên địa bàn thành phố Hà Nội. Xuất phát từ thực tế trong giai đoạn 2017 – 2019 có sự
thay đổi của chuỗi siêu thị điện máy Trần Anh (sáp nhập với chuỗi siêu thị Điện máy Xanh),
chuỗi siêu thị điện máy Vinpro chính thức giải thể, dựa trên dữ liệu thu thập về các siêu thị điện
máy, tính đến thời điểm nghiên cứu, có 5 chuỗi siêu thị điện máy mang các thương hiệu là HC,
Pico, Mediamart, Điện máy Xanh và DigiCity. Tuy nhiên, chuỗi siêu thị điện máy DigiCity có số
lượng siêu thị ít nhất (4 siêu thị chính thức và 1 tổng kho) và chọn đặt vị trí siêu thị tại 4 huyện
ngoại thành Hà Nội trong khi các chuỗi siêu thị điện máy còn lại có xu hướng chọn vị trí tại các
khu vực quận nội thành. Chính vì vậy, trong quá trình thu thập dữ liệu sơ cấp, luận án tập trung
vào bốn chuỗi siêu thị điện máy là Pico, HC, Mediamart và Điện máy Xanh tại các quận nội
thành của thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu theo thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu về hoạt động kinh
doanh của các siêu thị điện máy từ năm 2010 trở lại đây. Thời gian điều tra khảo sát người tiêu
dùng được tiến hành từ tháng 5 đến tháng 8/2019. Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra
một số khuyến nghị về hoạt động quản trị thương hiệu của siêu thị điện máy trên địa bàn thành
phố Hà Nội và đề xuất định hướng đến năm 2035.
4. Những đóng góp mới của luận án
Những đóng góp học thuật của luận án
Luận án đã hệ thống hoá và tổng hợp tài liệu về tài sản thương hiệu của doanh nghiệp
bán lẻ, tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng nói chung. Những tài liệu này là các công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước về tài sản thương hiệu đã được công bố trong khoảng thời gian
từ năm 2009 đến năm 2017, thể hiện phần nào tính mới của luận án.
Luận án đã xây dựng mô hình nghiên cứu về tài sản thương hiệu của các siêu thị điện
máy dựa trên khách hàng theo quan điểm của Keller (2013, 1993) và những nghiên cứu kế thừa
sau này của một số tác giả khác như Swoboda và cộng sự (2016, 2009), Allaway và cộng sự
(2011), Jingfeng và Zhilong (2009). Trong các nghiên cứu về tài sản thương hiệu trước đây tại
Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu đều tiếp cận theo quan điểm của Aaker (1991), vì vậy, việc
vận dụng mô hình nghiên cứu theo tiếp cận của Keller (2013, 1993) có thể coi là một đóng góp
mới cho nghiên cứu học thuật về tài sản thương hiệu tại Việt Nam.
Luận án cũng đã có đóng góp về việc xây dựng mới biến quan sát đối với một số biến
nghiên cứu. Trong các nghiên cứu trước đây về tài sản thương hiệu của siêu thị, bộ thang đo
được thiết kế và phát triển với một số loại sản phẩm hữu hình. Do vậy, sử dụng những đánh
giá của người tiêu dùng về sản phẩm để đánh giá về dịch vụ của siêu thị điện máy là chưa thật
sự phù hợp. Luận án đã kế thừa các bộ thang đo từ các nghiên cứu trên thế giới về tài sản
thương hiệu dựa trên khách hàng kết hợp với các phương pháp thu thập dữ liệu định tính (thảo
4
luận nhóm, phỏng vấn chuyên gia) để điều chỉnh cách diễn đạt của biến quan sát trong mô hình
nghiên cứu về tài sản thương hiệu của các siêu thị điện máy nhằm diễn tả tốt nhất nội dung của
biến. Bên cạnh đó, bổ sung thêm các biến quan sát của biến nghiên cứu về “Dịch vụ giao hàng,
lắp đặt” và “Dịch vụ thanh toán, hoàn trả” dựa trên tình hình thực tế kinh doanh của các siêu thị
điện máy; biến quan sát về “Nguồn gốc xuất xứ hàng hoá” trong biến nghiên cứu “Danh mục
sản phẩm – thương hiệu” dựa trên nhu cầu và mối quan tâm của người tiêu dùng đối với các sản
phẩm điện máy.
Những đóng góp thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng đối với người tiêu dùng trên địa bàn thành phố Hà Nội,
yếu tố có tác động đến tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy rõ ràng nhất là liên quan đến
Không gian mua sắm. Điều này có nghĩa rằng người tiêu dùng quan tâm đến việc sản phẩm điện
máy được bán ở đâu và được bán như thế nào hơn là việc phụ thuộc vào danh mục sản phẩm
mà siêu thị điện máy kinh doanh. Người tiêu dùng cũng quan tâm nhiều hơn đến yếu tố “có tính
cảm xúc” như Sự hữu ích và Thái độ của nhân viên bán hàng, Trình độ của nhân viên lắp đặt và
chất lượng của dịch vụ giao hàng sau quá trình mua. Yếu tố về Những lợi ích vật chất có thể
nhận được và sự sẵn sàng chia sẻ thông tin; Khu vực trông giữ phương tiện; Dịch vụ sửa chữa,
bảo hành; Danh mục sản phẩm thương hiệu và sự sẵn sàng của hàng hoá là những yếu tố ảnh
hưởng tiếp theo. Điều đó cho thấy trong bối cảnh khi các chuỗi siêu thị điện máy có mức độ
tương đồng cao trong danh mục hàng hóa kinh doanh thì sự khác biệt của thương hiệu đến từ
những yếu tố vô hình (không gian mua sắm, dịch vụ cung cấp và cảm nhận về nhân viên bán
hàng).
Luận án đã có những đóng góp đầu tiên về việc sử dụng dữ liệu nghiên cứu định lượng
để xác định những yếu tố và đánh giá những ảnh hưởng của các yếu tố này đến tài sản thương
hiệu của siêu thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội. Các nghiên cứu về tài sản thương
hiệu của siêu thị đều chưa hoặc rất ít lựa chọn loại hình siêu thị chuyên doanh và đặc biệt đối
với ngành hàng điện máy thì số lượng những nghiên cứu này chưa có nhiều. Chính vì vậy, kết
quả nghiên cứu của luận án có thể trở thành một bằng chứng rõ ràng về sự tác động của các yếu
tố marketing bán lẻ đến tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy trong tâm trí khách hàng. Kết
quả phân tích dữ liệu cho thấy các thang đo của các biến quan sát có tin cậy ở mức tốt, do đó, bộ
thang đo này có thể được ứng dụng trong các cuộc khảo sát khách hàng về tài sản thương hiệu
của siêu thị điện máy. Dựa trên các kết quả điều tra này, ban lãnh đạo doanh nghiệp và ban giám
đốc siêu thị điện máy sẽ có đưcc thông tin về thực trạng tài sản thương hiệu của siêu thị điện
máy và những yếu tố ảnh hưởng đến tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng. Từ đó, những
điều chỉnh cần thiết để nâng cao tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy có thể được đề xuất
và thực thi phù hợp.
Từ kết quả nghiên cứu trên mô hình và lý thuyết về tài sản thương hiệu, luận án đã đưa
ra một số đề xuất để nâng cao tài sản thương hiệu của các siêu thị điện máy trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Những nội dung đề xuất này xoay quanh vấn đề đang có nhiều hạn chế của các
siêu thị điện máy đó là Chiến lược thương hiệu. Bên cạnh đó, đề xuất về tối ưu hoạt động của
siêu thị điện máy khi hoạt động kinh doanh theo chuỗi cũng là đóng góp thực tiễn của luận án
trên cơ sở cân bằng mục tiêu tài chính ngắn hạn và mục tiêu thương hiệu trong dài hạn.
5. Kết cấu luận án
Ngoài Phần mở đầu, luận án được kết cấu thành 5 chương:
Chương 1 “Tổng quan tình hình nghiên cứu về tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán
lẻ” tóm tắt về các công trình nghiên cứu về tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ dựa
trên tiếp cận của hai quan điểm của tác giả Aaker (1991) và Keller (1993). Bên cạnh đó, một số
nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp đến nội dung nghiên cứu của luận án cũng
được trình bày chi tiết.
Chương 2 “Cơ sở lý luận về tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng” trình bày tóm tắt
một số tiếp cận về tài sản thương hiệu trên thế giới và tại Việt Nam; trình bày nội dung chi tiết
5
về quan điểm tiếp cận của Keller (2013, 1993). Đặc biệt, chương 2 hướng trọng tâm về tiếp
cận về tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy với nội dung về các yếu tố cấu thành và tập
trung vào các yếu tố ảnh hưởng tới tài sản thương hiệu.
Chương 3 “Mô hình và phương pháp nghiên cứu” tập trung đề cập về mô hình nghiên
cứu, các phương pháp thu thập dữ liệu và phương pháp phân tích dữ liệu được sử dụng trong
luận án.
Chương 4 “Kết quả phân tích dữ liệu” đề cập đến các kết quả thống kê sau khi phân tích
dữ liệu và bàn luận về kết quả nghiên cứu.
Chương 5 “Đánh giá chung và khuyến nghị” đề cập đến những đánh giá chung về tình
hình tài sản thương hiệu của các siêu thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội dựa trên các
kết quả nghiên cứu và những khuyến nghị đối với các bên liên quan nhằm mục đích nâng cao tài
sản thương hiệu dựa trên khách hàng của các siêu thị điện máy.
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TÀI SẢN THƯƠNG HIỆU
CỦA DOANH NGHIỆP BÁN LẺ
1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TÀI SẢN THƯƠNG HIỆU
CỦA DOANH NGHIỆP BÁN LẺ
1.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu nước ngoài về tài sản thương hiệu của doanh
nghiệp bán lẻ
Trên thế giới, tính đến nay đã có nhiều nghiên cứu về thương hiệu của doanh nghiệp bán
lẻ và tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ. Phần lớn nội dung của các nghiên cứu này
tập trung vào tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ dưới tiếp cận của khách hàng là
người tiêu dùng. Cũng từ đây, rất nhiều nội dung được phân mảnh nhỏ mà chủ yếu đi theo hai
chiều hướng nghiên cứu: Theo tiếp cận của Aaker (1991) với tài sản thương hiệu gồm bốn
thành tố (Nhận biết thương hiệu, Chất lượng cảm nhận, Lòng trung thành, Liên tưởng thương
hiệu); Và theo tiếp cận của Keller (1993) với tài sản thương hiệu là hiệu ứng mang tính khác
biệt do sự tồn tại của tri thức thương hiệu thứ là kết quả của các chương trình marketing trong
quá khứ mà doanh nghiệp thực hiện để tác động đến tâm trí khách hàng. Nhiều nghiên cứu sử
dụng mô hình của Aaker (1991) với luận điểm rằng mô hình này đã có cơ sở nghiên cứu về
thang đo và dễ dàng ứng dụng đối với các nhà quản trị. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực bán lẻ, đối
với siêu thị, đối với doanh nghiệp bán lẻ thì tài sản thương hiệu không chỉ đơn thuần là những
"thứ được gắn vào và làm tăng thêm giá trị của sản phẩm mà doanh nghiệp đó chào bán". Cần
nhìn nhận tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ phức tạp hơn tài sản thương hiệu của
sản phẩm, và để sau cùng thứ làm nên sự khác biệt trong thái độ và hành vi của người tiêu dùng
chính là gắn với "doanh nghiệp bán lẻ" khi thương hiệu đó luôn là sự lựa chọn ưu tiên. Chính vì
vậy, nhiều nghiên cứu về doanh nghiệp bán lẻ (hình thức cửa hàng tiện ích, siêu thị, đại siêu thị,
cửa hàng chuyên doanh, trung tâm thương mại, ... ) thực hiện nghiên cứu chuyên sâu về hình ảnh
thương hiệu một nội dung cốt lõi trong tiếp cận của Keller (1993) về tài sản thương hiệu.
Chính tác giả cũng đã tiếp tục phát triển quan điểm của mình trong suốt hai mươi năm qua, và
đến gần đây nhất đã giới thiệu mô hình về tài sản thương hiệu dưới tiếp cận khách hàng dựa
theo từng nội dung trong xây dựng thương hiệu. Các nghiên cứu này có một số nội dung như
sau:
Thứ nhất, số lượng các nghiên cứu xây dựng mô hình và kiểm định giả thuyết chiếm gần
như đa số. Chỉ có hai công trình nghiên cứu của Ailawadi và Keller (2004) và Hartman và Spiro
(2005) sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp để tóm lược và đưa ra khung lý thuyết mới. Bên
cạnh đó, chỉ có công trình của Sonnenberg và Erasmus (2008) là sử dụng loại dữ liệu định tính
để đưa ra kết luận nghiên cứu.
Thứ hai, các mô hình lý thuyết xây dựng đều dựa theo khung lý thuyết về tài sản thương
hiệu của Aaker (1991) và của Keller (1993). Ngoài một số công trình áp dụng nguyên gốc mô
hình ban đầu để kiểm định trong những điều kiện khác nhau thì có một số công trình phát triển
mô hình như của Jara và Cliquet (2012) từ mô hình của Keller (1993) hoặc như Pappu và Quester
(2008) từ mô hình của Aaker (1991 hoặc như GilSaura và cộng sự (2013), Jinfeng và Zhilong
(2009), Chen (2011) là sự kết hợp của hai mô hình.
Thứ ba, các nghiên cứu này đều hướng sự tập trung vào loại hình bán lẻ là siêu thị, đại
siêu thị, trung tâm mua sắm và cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp. Chỉ có một số nghiên cứu của
Pappu và Quester (2008) và Dabija (2012) là có thực hiện nghiên cứu với đối tượng là cửa hàng
chuyên doanh.
Thứ tư, ngành hàng lương thực, thực phẩm và thời trang là hai ngành hàng có nhiều
nghiên cứu hơn so với các ngành hàng còn lại (Đồ điện tử, Đồ nội thất, Đồ tự làm). Nghiên cứu
về các doanh nghiệp bán lẻ sản phẩm đồ điện tử có nghiên cứu của Thang và Tan (2003),
7
Swoboda và cộng sự (2016, 2009), Dabija (2012), Das và cộng sự (2012), GilSaura và cộng sự
(2016), Rubio và cộng sự (2017).
Thứ năm, các đặc tính bán lẻ (Danh mục hàng hóa/ Danh mục sản phẩm/ Danh mục
thương hiệu, Vị trí/ Địa điểm/ Khả năng tiếp cận, Bầu không khí/ Không gian mua sắm/ Không
gian bên trong, Thiết kế và sắp xếp/ Bày trí, Dịch vụ trong bán, Chăm sóc khách hàng/ Dịch vụ
khách hàng, ...) được đề cập đến dưới một trong hai dạng. Đó là (1) Yếu tố ảnh hưởng tới
những đánh giá, cảm nhận của khách hàng về doanh nghiệp bán lẻ. Theo đó, đặc tính bán lẻ của
cửa hàng bán lẻ được nghiên cứu là một tập hợp các giá trị cung cấp cho khách hàng trong dịch
vụ bán lẻ. Những đặc tính bán lẻ này tồn tại trong tâm trí khách hàng dưới dạng các liên tưởng
và tùy vào độ mạnh/ yếu, sự phù hợp và tính độc đáo của liên tưởng mà khách hàng có thể có
những phản ứng khác nhau đối với thương hiệu doanh nghiệp bán lẻ. Hầu hết những nghiên
cứu này đều có nền tảng quan điểm của Keller (1993) khi cho rằng những quyết định marketing
bán lẻ của doanh nghiệp bán lẻ ảnh hưởng quan trọng đến việc tạo thành hình ảnh thương hiệu
– một cấu trúc tiềm ẩn khó có thể đo lường trực tiếp bằng các biến quan sát mà chỉ có thể được
đo lường một phần thông qua các hành vi, thái độ của khách hàng. Đó là (2) Là các phần tử tạo
nên thành phần của tài sản thương hiệu. Những đặc tính bán lẻ này được nghiên cứu là những
phần tử tạo nên Chất lượng cảm nhận, Nhận biết thương hiệu, Liên tưởng thương hiệu, Lòng
trung thành đối với thương hiệu. Hầu hết những nghiên cứu này có sử dụng quan điểm của
Aaker (1991) khi cho rằng những quyết định marketing bán lẻ của doanh nghiệp ảnh hưởng quan
trọng đến việc tạo thành bốn thành phần quan trọng của tài sản thương hiệu, và doanh nghiệp
bán lẻ nên xem xét những thành phần này để có những điều chỉnh phù hợp đối với các chương
trình marketing của doanh nghiệp.
1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước về tài sản thương hiệu của doanh
nghiệp bán lẻ
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ vẫn còn
hạn chế về số lượng. Hầu hết các nghiên cứu đang tập trung vào tìm kiếm các yếu tố cấu thành
của tài sản thương hiệu tại một số lĩnh vực như giáo dục đào tạo (các nghiên cứu về đánh giá
của người học về trường đại học) như nghiên cứu của Lê Thị Kim Sơn và cộng sự (2015), Hà
Xuân Quang và cộng sự (2014), Nguyễn Tiến Dũng (2017); lĩnh vực sản xuất đối với hàng nông
sản có gắn với nguồn gốc xuất xứ (như chè Thái Nguyên, rau Đà Lạt, thanh long Bình Thuận)
như nghiên cứu của Đỗ Thị Bắc (2005), Đỗ Đức Khả (2008), Ngô Thị Ngọc Huyền và cộng sự
(2014). Bên cạnh đó, có một vài nghiên cứu khác gắn với tài sản thương hiệu của sản phẩm
(như ô tô, sản phẩm vàng, đồ uống đóng chai) như nghiên cứu của Trần Trung Vinh (2013), Lê
Tấn Bửu và Lê Đăng Lăng (2014), Lê Đăng Lăng (2015). Điểm chung của các nghiên cứu này là
đều theo tiếp cận của Aaker (1991), sử dụng mô hình và kiểm định giả thuyết nghiên cứu dựa
trên dữ liệu sơ cấp thu thập được. Đối với doanh nghiệp bán lẻ và siêu thị điện máy, có hai
nghiên cứu đã được thực hiện để tìm kiếm mức độ ảnh hưởng của các yếu tố marketing bán lẻ
đến tài sản (giá trị) thương hiệu, đó là: đánh giá ảnh hưởng của truyền thông tiếp thị, chất
lượng nhân viên bán hàng, bảo hành đối với tài sản (giá trị) thương hiệu của ngành bán lẻ kim
khí điện máy trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (Lê Tấn Bửu và Lê Đăng Lăng, 2015); tìm
kiếm mức độ ảnh hưởng của quảng cáo, khuyến mãi đến tài sản thương hiệu đối với siêu thị
ngành hàng tiêu dùng tại Huế (Hoàng Thị Anh Thư, 2017). Bên cạnh đó, có hai công trình nữa có
liên quan đến doanh nghiệp bán lẻ và chuỗi siêu thị điện máy và có liên quan gần với chủ thể
nghiên cứu của luận án. Đó là nghiên cứu của An Thị Thanh Nhàn (2010) với nội dung liên quan
về hình ảnh thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ và Phan Thị Thu Hoài (2014) với nội dung liên
quan về điểm khác biệt của chuỗi siêu thị chuyên doanh mà cụ thể là chuỗi siêu thị điện máy
trên địa bàn Hà Nội.
1.2. MỘT SỐ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TÀI SẢN
THƯƠNG HIỆU CỦA DOANH NGHIỆP BÁN LẺ
8
1.2.1. Một số mô hình nghiên cứu về yếu tố cấu thành tài sản thương hiệu của doanh
nghiệp bán lẻ theo tiếp cận của Aaker
Thừa kế mô hình tài sản thương hiệu của Aaker (1991), một số nghiên cứu về tài sản
thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ đã phát triển những nội dung sau:
Thứ nhất, khi nghiên cứu về tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ (với cấp độ tổ
chức) thì nên đưa thêm biến quan sát gắn với liên tưởng thương hiệu gắn với tổ chức và cá tính
thương hiệu (Pappu và cộng sự., 2005). Bộ thang đo dành cho tài sản thương hiệu gắn với sản
phẩm nên được điều chỉnh khi sử dụng bộ thang đo đó đánh giá cho các doanh nghiệp bán lẻ
(Pappu và Quester, 2006a, 2006b). Tài sản thương hiệu của cửa hàng bách hóa và cửa hàng
chuyên doanh của các doanh nghiệp bán lẻ, để rồi đưa ra kết luận rằng tài sản thương hiệu là
một thước đo quan trọng trong hoạt động marketing và mỗi loại hình cửa hàng bán lẻ (như cửa
hàng chuyên doanh hoặc như cửa hàng bách hóa) là có tồn tại sự khác nhau về tài sản thương
hiệu dựa trên khách hàng người tiêu dùng (Pappu và Quester, 2008).
Thứ hai, sự xuất hiện của thuật ngữ "consumerbased brandretailerchannel equity" (tạm
dịch là tài sản thương hiệu doanh nghiệp bán lẻ kênh bán lẻ dưới góc độ khách hàng) trong
nghiên cứu của Londoño và cộng sự (2016). Kế thừa từ quan điểm của Aaker (1991), nhóm tác
giả đã tiếp cận tài sản thương hiệu là "một tập hợp các nợ và có được tạo bởi liên kết giữa
thương hiệu, doanh nghiệp bán lẻ và kênh bán lẻ, tên, biểu tượng mà làm tăng hoặc giảm giá trị
được cung ứng bởi hàng hóa hoặc dịch vụ (hoặc kết hợp cả hai) cho khách hàng (thực tế và
tiềm năng)". Giả định cơ bản của tiếp cận này chính là dựa trên góc nhìn của nhóm tác giả về
sự toàn diện của giá trị từ sự kết hợp của thương hiệu, doanh nghiệp bán lẻ và các kênh bán lẻ.
Từ đó, mô hình về tài sản thương hiệu mà nhóm tác giả phát triển dựa vào mô hình ban đầu của
Aaker (1991) với ba thành phần: Nhận biết thương hiệu và Liên tưởng thương hiệu, Chất lượng
cảm nhận và Lòng trung thành đối với thương hiệu. Kết quả của mô hình này là ý định của
khách hàng. Để kiểm định cho mô hình lý thuyết, nhóm tác giả đã phỏng vấn 180 khách hàng, thu
thập dữ liệu qua Internet, trực tiếp lại hiệu thuốc và địa điểm khác. Sản phẩm mà nhóm tác giả
lựa chọn là một sản phẩm chăm sóc tóc cho nam giới của Hoa Kỳ, được một doanh nghiệp bán
lẻ của Anh có website nổi tiếng bán tại thị trường Scotland. Mặc dù phát triển một thuật ngữ
"có tính mới", song trong công trình nghiên cứu của nhóm tác giả chưa lý giải đầy đủ và chưa có
đủ minh chứng cần thiết về lý do gộp hai yếu tố của tài sản thương hiệu là Liên tưởng thương
hiệu và Nhận biết thương hiệu thành một yếu tố chung (ngoài dẫn chứng về công trình của Yoo
và Donthu (2001). Tiếp theo, phương pháp chọn mẫu và địa điểm khảo sát của nhóm tác giả
chưa được cung cấp đầy đủ thông tin trong nghiên cứu, 180 người là nam giới (được cho là
khách hàng tiềm năng của sản phẩm đang khảo sát) tại hai đô thị với tổng dân số là 60 nghìn
người. Chính điều này đã góp phần khiến cho nghiên cứu chưa đủ sức thuyết phục đối với
người đọc.
1.2.2. Một số mô hình nghiên cứu về yếu tố cấu thành tài sản thương hiệu của doanh
nghiệp bán lẻ theo tiếp cận của Keller
Thừa kế mô hình tài sản thương hiệu của Keller (1993), một số nghiên cứu về tài sản
thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ đã phát triển những nội dung sau:
Thứ nhất, tài sản thương hiệu được hiểu là những hiệu ứng có tính khác biệt của nhận
thức thương hiệu và ý nghĩa thương hiệu từ phản ứng của người tiêu dùng đối với chương trình
marketing thương hiệu (Berry, 2000). Hình ảnh sản phẩm là yếu tố chính của thương hiệu hàng
hóa vật chất thì hình ảnh doanh nghiệp mới là yếu tố chính để xây dựng nhận biết về thương
hiệu dịch vụ (Lục Thị Thu Hường, 2014), chính vì vậy, ý nghĩa thương hiệu có thể được coi là
phần khác biệt của tài sản thương hiệu khi mà các đối thủ cạnh tranh của nhau đều là những
thương hiệu có phần nhận thức thương hiệu được coi là tương đương (Berry, 2000, tr. 201). Ý
nghĩa thương hiệu chịu tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất từ chính những trải nghiệm của
khách hàng với thương hiệu, qua kết quả dịch vụ mà họ được nhận, qua tương tác của khách
hàng với nhân viên, ... để từ đó tiếp tục chi phối trực tiếp tới tài sản thương hiệu của doanh
9
nghiệp cung cấp dịch vụ. Từ đó, có thể nhận định rằng đối với khách hàng thì trải nghiệm dịch
vụ thông qua quá trình liên hệ và tương tác với nhân viên cung ứng dịch vụ sẽ đạt được giá trị
cao nhất cả ở khía cạnh lợi ích chức năng và gắn bó cảm xúc. Quyền lực của người tiêu dùng
đối với doanh nghiệp bán lẻ và tài sản thương hiệu của doanh nghiệp sẽ bị tổn hại nhiều hơn
trước sự phản ứng tiêu cực của người tiêu dùng cho dù những lợi ích mà doanh nghiệp mang
đến là gì đi chăng nữa. Sự minh bạch trong thông tin cũng sẽ là yếu tố khiến cho doanh nghiệp
bán lẻ không thể "mập mờ" các chính sách điều hành của mình. Không chỉ cần chào giá một
cách khôn ngoan mà doanh nghiệp bán lẻ còn cần phải quan tâm đến các yếu tố ngoài giá như sự
tiện lợi, chất lượng vượt trội và sự đảm bảo về các dịch vụ. Sự tham gia vào mạng xã hội theo
hướng tạo dựng các cộng đồng người dùng (khách hàng) có lợi cho thương hiệu được coi là một
trong những gợi ý cấp thiết đối với doanh nghiệp bán lẻ (Berry và cộng sự., 2010).
Thứ hai, mỗi dạng thương hiệu bán lẻ sẽ có riêng một dạng tài sản thương hiệu. Tài sản
thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ mà cụ thể là hình ảnh thương hiệu bán lẻ được tạo thành
bởi một số yếu tố có liên quan trực tiếp đến hoạt động xây dựng thương hiệu sản phẩm và một
số yếu tố khác có liên quan các đặc điểm của cửa hàng, tính cách thương hiệu bán lẻ, tính cách
doanh nghiệp bán lẻ và các biểu tượng, giá trị có tính quản trị (Jara và Cliquet, 2012, 2008). Kết
quả nghiên cứu này được phát triển từ tiếp cận của Keller (1993) và từ các luận điểm của Berry
(2000) khi cho rằng thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ khác với thương hiệu của doanh
nghiệp sản xuất bởi hoạt động bán lẻ là một hoạt động dịch vụ, và thương hiệu dịch vụ được
cấu thành bởi các đặc tính hữu hình (có liên quan đến sản phẩm) và các liên tưởng vô hình (có
liên quan đến trải nghiệm của người tiêu dùng với doanh nghiệp bán lẻ).
1.3. MỘT SỐ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÀI SẢN
THƯƠNG HIỆU CỦA DOANH NGHIỆP BÁN LẺ
1.3.1. Nghiên cứu của Swoboda và cộng sự
Swoboda là một trong những tác giả có nhiều nghiên cứu chuyên sâu trong nghiên cứu về
thương hiệu bán lẻ với các công trình bao gồm Swoboda et al., (2016, 2013a, 2013b, 2009). Tiếp
cận về tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ là những thông tin về doanh nghiệp bán lẻ
tồn tại trong tâm trí khách hàng, đó là tri thức của khách hàng và những liên tưởng thương hiệu
về doanh nghiệp bán lẻ như là một thương hiệu mạnh, độc đáo và hấp dẫn. Tài sản thương
hiệu của doanh nghiệp bán lẻ là một cấu trúc tiềm ẩn, có nghĩa rằng không thể đo lường trực
tiếp mà thay vào đó cần đo lường gián tiếp thông qua các biến quan sát khác nhau. Tài sản
thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ chịu ảnh hưởng bởi các đặc tính bán lẻ hay chính là
những quyết định marketing của nhà quản trị và tác động đến hành vi có tính trung thành của
người tiêu dùng.
1.3.2. Nghiên cứu của Takahashi
Takahashi (2014) đã thực hiện kiểm định mô hình nghiên cứu về tài sản thương hiệu của
doanh nghiệp bán lẻ trên đồng thời ba loại hình bán lẻ sản phẩm thực phẩm là chuỗi siêu thị
toàn quốc, chuỗi siêu thị vùng và chuỗi siêu thị chuyên doanh. Theo đó, tài sản thương hiệu của
doanh nghiệp bán lẻ chịu tác động từ các biến số của tài sản thương hiệu cửa hàng bán lẻ và
chính sách của doanh nghiệp sở hữu, từ đây tạo nên những liên tưởng thương hiệu có tính khác
biệt, tạo nên lòng trung thành cảm xúc và kết quả là dẫn đến lòng trung thành hành vi.
1.3.3. Nghiên cứu của Allaway và cộng sự
Nghiên cứu của nhóm tác giả (Allaway và cộng sự, 2011) cho rằng tài sản thương hiệu
của chuỗi siêu thị là kết quả của nỗ lực xây dựng thương hiệu tổng thể trên toàn chuỗi siêu thị
theo thời gian, bao gồm việc thực hiện hàng ngày thông điệp marketing thông qua dịch vụ, sản
phẩm, giá và các quyết định xúc tiến bán được trải nghiệm bởi người tiêu dùng tại các cửa hàng.
Cuối cùng, lòng trung thành cảm xúc và tình cảm với thương hiệu được tạo nên. Đáng chú ý, kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng tài sản thương hiệu của siêu thị là khác biệt theo từng đoạn thị
trường tương ứng với từng nhóm khách hàng mục tiêu, và sự kết hợp của các biến số đầu vào
10
có thể là chìa khóa giúp cho siêu thị tồn tại và duy trì được sự cạnh tranh. Sự lựa chọn của khách
hàng không chỉ vì vị trí của siêu thị và giá của sản phẩm bán tại siêu thị đó.
1.3.4 Nghiên cứu của Jingfeng và Zhilong
Nghiên cứu của Jinfeng và Zhilong (2009) là nghiên cứu phát triển tiếp theo dựa trên kết
quả nghiên cứu của Yoo và Donthu (2001). Điểm mới của nghiên cứu này là (1) Thuật ngữ tài
sản thương hiệu được thay đổi thành Tài sản của doanh nghiệp bán lẻ và những khía cạnh của
tài sản thương hiệu được thay đổi tương ứng; (2) Cấu trúc của tài sản thương hiệu được chia
thành 2 nhóm là Lòng trung thành đối với doanh nghiệp bán lẻ và nhóm còn lại (gồm Nhận biết
doanh nghiệp bán lẻ, Liên tưởng gắn với doanh nghiệp bán lẻ, Chất lượng cảm nhận đối với
doanh nghiệp bán lẻ); (3) Đưa một số biến số marketing bán lẻ vào cấu trúc của hình ảnh cửa
hàng, dựa theo kết quả nghiên cứu của Decarlo và cộng sự (2007). Nghiên cứu đã khảo sát 530
người tiêu dùng tại Vũ Hán (Trung Quốc) về mười chuỗi đại siêu thị với năm thương hiệu quốc
tế và năm thương hiệu quốc gia. Đó là các chuỗi Walmart, Carrefour, Lotus, Metro, Bellevue;
A.Best, Hualian, Zhongbai, Wushang và Zhongshang. Phương pháp phân tích dữ liệu được sử
dụng đó là mô hình cấu trúc SEM.
1.3.5 Nghiên cứu của Beristain và Zorrilla
Nghiên cứu của Juan Beristain và Zorrilla (2011) kế thừa từ quan điểm về tài sản thương
hiệu của Aaker (1991), trên góc độ đó, nhóm tác giả cho rằng "Tài sản thương hiệu của cửa hàng
là một tập hợp của tài sản nợ và có gắn kết với thương hiệu cửa hàng mà từ đó làm tăng hoặc
giảm giá trị cho doanh nghiệp bán lẻ sở hữu cửa hàng và/hoặc cho khách hàng của cửa hàng đó".
Một điểm đáng lưu ý nữa là nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hình ảnh cửa hàng, ở một góc nhìn rộng
hơn thì đó không chỉ là kết quả của những chương trình marketing của cửa hàng, mà đó còn là
kết quả của những hành động chiến lược và hoạt động xã hội mà doanh nghiệp bán lẻ (sở hữu
cửa hàng hoặc có liên quan đến cửa hàng đó) thực hiện. Do đó, trong nghiên cứu này, nhóm tác
giả cho rằng "Hình ảnh cửa hàng là một tập hợp các liên tưởng thương hiệu có tính chất thương
mại, xã hội và chiến lược gắn kết với cửa hàng".
1.3.6 Nghiên cứu của CalvoPorral và cộng sự
Nghiên cứu của CalvoPorral và cộng sự (2013) dựa trên nghiên cứu của Yoo và Donthu
(2001) và xây dựng mô hình đánh giá về tài sản thương hiệu của cửa hàng dựa trên quan điểm
của Aaker (1991). Nhóm nghiên cứu đã phát triển nghiên cứu, cho rằng yếu tố đầu vào của tài
sản thương hiệu cửa hàng đó chính là những nhận thức, là hình ảnh thương mại về cửa hàng, là
những hình ảnh về giá của sản phẩm mà cửa hàng cung cấp tới khách hàng. Nghiên cứu có điểm
tương đồng với Beristain và Zorrilla (2011) khi tách giá trở thành một biến số độc lập và song
song với uy tín của cửa hàng và hình ảnh thương mại của cửa hàng.
1.3.7 Nghiên cứu của Lê Tấn Bửu và Lê Đăng Lăng
Nghiên cứu của Lê Tấn Bửu và Lê Đăng Lăng (2015) đã kế thừa mô hình của Aaker
(1991) để đánh giá yếu tố ảnh hưởng của yếu tố Chất lượng nhân viên bán hàng và Chất lượng
bảo hành tới giá trị thương hiệu của ngành bán lẻ hàng kim khí điện máy. Nghiên cứu sử dụng
phương pháp SEM để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập là Chất lượng nhân
viên bán hàng, Chất lượng bảo hành tới bốn yếu tố thành phần của Giá trị thương hiệu là Nhận
biết thương hiệu, Liên tưởng thương hiệu, Chất lượng cảm nhận và Lòng trung thành của
khách hàng đối với thương hiệu. Kết quả kiểm định mô hình cho thấy hầu hết kiểm định tương
quan giữa các biến độc lập và phụ thuộc đều có ý nghĩa thống kê, duy nhất có mối tương quan
giữa biến Chất lượng bảo hành và Liên tưởng thương hiệu nhận kết quả Từ chối giả thuyết
nghiên cứu. Nghiên cứu đã thực hiện khảo sát 614 khách hàng được lựa chọn theo phương pháp
lấy mẫu thuận tiện. Các thương hiệu doanh nghiệp bán lẻ được lựa chọn để khảo sát là
Nguyễn Kim, Thiên Hòa, Chợ Lớn, Phong Vũ, Hoàn Long, Thế giới di động và Viễn thông A.
Bộ thang đo được phát triển từ nghiên cứu của Yoo và Donthu (2001), trong đó bộ thang đo dành
11
cho Chất lượng nhân viên bán hàng và Chất lượng bảo hành được kế thừa từ một số nghiên cứu
trước đây có liên quan về hàng hoá điện tử.
1.3.8 Nghiên cứu của Hoàng Thị Anh Thư
Nghiên cứu này nhằm mục đích xác định các thành phần của tài sản thương hiệu định
hướng khách hàng cho ngành siêu thị bán lẻ hàng tiêu dùng ở thành phố Huế, đồng thời xác định
mối tương quan giữa biến số Quảng cáo và Khuyến mãi đến các thành phần này. Nghiên cứu đã
kế thừa mô hình Tài sản thương hiệu của Aaker (1991) với việc xác định thành phần của Tài sản
thương hiệu gồm bốn cấu phần là Nhận biết thương hiệu, Liên tưởng thương hiệu, Chất lượng
cảm nhận và Lòng trung thành thương hiệu. Yếu tố Tài sản thương hiệu tổng thể được xác định
dựa trên thang đo của Yoo và Donthu (2001).
1.4. Khoảng trống nghiên cứu
Từ nội dung tổng quan nghiên cứu, có thể nhận thấy rằng nghiên cứu về thương hiệu và
tài sản thương hiệu trong doanh nghiệp đã nhận được sự chú ý của các học giả trong và ngoài
nước trong nhiều năm nay. Điều này thể hiện thông qua một số các nghiên cứu đã được tóm tắt
ở mục trên. Trong đó, các nghiên cứu về tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ đã thể
hiện những góc nhìn khám phá về các yếu tố cấu thành của tài sản thương hiệu trong lĩnh vực
dịch vụ bán lẻ và về những yếu tố ảnh hưởng tới tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ
đó. Đáng chú ý, chủ thể nghiên cứu là siêu thị (một cửa hàng đơn lẻ) và chuỗi siêu thị (nhiều siêu
thị có cùng một tên thương hiệu, có cùng chủ sở hữu) đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều tác giả ở các quốc gia khác nhau.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về tài sản thương hiệu của siêu thị nói riêng và của doanh
nghiệp bán lẻ nói chung vẫn còn hạn chế về số lượng nghiên cứu được công bố tại thời điểm
nghiên cứu của luận án. Hầu hết các nghiên cứu tiếp cận theo quan điểm của Aaker (1991) và sử
dụng các bộ thang đo được phát triển từ các nghiên cứu theo quan điểm này. Trong số các nghiên
cứu đó, nghiên cứu về yếu tố cấu thành tài sản thương hiệu được tập trung nhiều hơn so với
các nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến tài sản thương hiệu. Tính đến hiện tại, chỉ có hai công
trình nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng tác động tới tài sản thương hiệu của siêu thị và hai công
trình này cũng chỉ chọn giới hạn hai đặc tính bán lẻ để thực hiện đánh giá. Đáng chú ý, siêu thị
chuyên doanh như siêu thị điện máy hiện tại chưa có nghiên cứu độc lập về tài sản thương hiệu
theo tiếp cận mô hình của Keller (1993). Điều này vừa là cơ hội vừa là thách thức cho luận án
khi xây dựng mô hình nghiên cứu. Cơ hội ở chỗ luận án có thể kế thừa những kết quả nghiên
cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới tài sản thương hiệu của siêu thị/ doanh nghiệp bán lẻ, từ đó,
khai thác biến quan sát và bộ thang đo đã được kiểm chứng. Các yếu tố được đưa vào trong mô
hình nghiên cứu đều đã được thể hiện trong một số nghiên cứu . Tuy nhiên, thách thức ở chỗ bộ
thang đo tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng theo tiếp cận của Keller (2013, 1993) chưa
được kiểm nghiệm ở nhiều nghiên cứu, dẫn đến việc áp dụng thang đo cho từng biến nghiên
cứu và biến tài sản thương hiệu trong mô hình nghiên cứu của luận án cần sự cân nhắc và thận
trọng xem xét từ phía các ý kiến chuyên gia. Xuất phát từ những lý do trên, đây chính là khoảng
trống nghiên cứu cho đề tài nghiên cứu của luận án.
12
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN THƯƠNG HIỆU DỰA TRÊN KHÁCH HÀNG
2.1. Tiếp cận về tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng và các yếu tố cấu thành tài sản
thương hiệu
2.1.1 Khái niệm về tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng
Đến nay, khái niệm về “Tài sản thương hiệu” vẫn còn khá nhiều tranh cãi và “đó được
coi là một nội dung chiến lược quan trọng nhưng gần như rất khó để đo lường” (Marketing
dictionary.org, 2019). Tiếp cận về Tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng hiện nay vẫn chủ
yếu đi theo hai tiếp cận của Keller (1993) và Aaker (1991). Mặc dù cách tiếp cận của Aaker
(1991) về tài sản thương hiệu nhận được khá nhiều sự chú ý của các học giả nghiên cứu, đặc
biệt là khi có sự phát triển về bộ thang đo cho khái niệm này, song đứng ở góc độ tâm lý người
tiêu dùng thì cách tiếp cận của Keller (1993) được cho rằng có tiếp cận phù hợp hơn (Schmitt,
2012). Tuy nhiên, hướng tiếp cận này chưa được hoàn thiện về bộ thang đo định lượng như
hướng tiếp cận của Aaker, do đó, tiếp cận về tài sản thương hiệu dựa trên góc độ khách hàng là
người tiêu dùng được sử dụng trong luận án này là dựa trên cơ sở kết hợp của hướng tiếp cận
này và các nghiên cứu phát triển tiếp theo có liên quan đến doanh nghiệp bán lẻ và siêu thị
chuyên doanh.
2.1.2 Các yếu tố cấu thành tài sản thương hiệu dựa trên góc độ khách hàng
Tài sản thương hiệu dựa trên góc độ khách hàng là người tiêu dùng dù theo quan điểm
nào thì cũng hướng đến mục đích sau cùng là tìm kiếm những yếu tố tác động tới hành vi của
khách hàng trong quá trình mua sản phẩm và sử dụng dịch vụ.
Quan điểm của Keller về tài sản thương hiệu đã được phát triển trong hơn hai mươi năm
qua dựa trên quan điểm cho rằng tài sản thương hiệu là sự phản ứng khác biệt của người tiêu
dùng đối với các chương trình marketing thương hiệu, và sự phản ứng khác biệt này là kết quả
của tri thức thương hiệu – một khái niệm được giới thiệu là mọi suy nghĩ, cảm nhận, hình ảnh,
trải nghiệm và niềm tin gắn với thương hiệu (Kotler và Keller, 2016, tr. 325). Sự hình thành tài
sản thương hiệu trong tâm trí khách hàng được giải thích dựa theo quá trình xây dựng thương
hiệu: từ những giai đoạn về nhận biết thương hiệu, tạo dựng các liên tưởng thương hiệu, thái
độ đối với thương hiệu, gắn kết với thương hiệu. Để phân biệt cấp độ của tài sản thương
hiệu, tháp cộng hưởng thương hiệu đã được giới thiệu để đánh giá "customer mindset", mà từ
đó thương hiệu có thể xác định được vị trí hiện tại trong tâm trí khách hàng và những ảnh hưởng
đến cách khách hàng phản ứng với thương hiệu trên thị trường. Việc giới thiệu “tháp cộng
hưởng thương hiệu” chính là các bước để tạo dựng tài sản thương hiệu trong tâm trí khách hàng
bởi tháp cộng hưởng thương hiệu sẽ xem xét đến cách định vị thương hiệu ảnh hưởng như thế
nào tới việc nghĩ, cảm nhận và hành động của người tiêu dùng đối với thương hiệu cũng như
mức độ mà họ lan tỏa sự yêu thích và lòng trung thành đối với thương hiệu. Tài sản thương hiệu
đó sẽ là "đáng kể" nếu như thương hiệu có thể đạt đến mức độ khiến cho khách hàng có lòng
trung thành cao độ (chủ động, tích cực và gắn kết) (Keller, 2013, tr.107). Tuy nhiên, nếu thương
hiệu chưa thể đạt ở mức cộng hưởng thì điều đó không nghĩa rằng thương hiệu đó không có tài
sản thương hiệu trong tâm trí khách hàng. Chính vì vậy, có thể nói rằng tài sản thương hiệu
xuất hiện từ ngay khi người tiêu dùng có thể nhận biết và phân biệt được sản phẩm mang
thương hiệu này với sản phẩm mang thương hiệu khác. Việc giới thiệu thuật ngữ về “cộng
hưởng thương hiệu” của Keler (2013) có thể coi là một tiếp cận phân loại về “tài sản thương
hiệu” mà theo đó, tài sản thương hiệu là thứ có thể đo lường và phân cấp được. Cộng hưởng
thương hiệu bao gồm: (1) Nhận biết thương hiệu; (2) Hiệu suất thương hiệu; (3) Hình tượng
thương hiệu; (4) Đánh giá thương hiệu; (5) Cảm xúc thương hiệu; (6) Cộng hưởng thương
hiệu.
2.2. Đo lường tài sản thương hiệu dựa trên góc độ khách hàng
13
Đo lường Tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng vẫn là một chủ đề có nhiều tranh
luận trong giới nghiên cứu. Việc tranh luận này cũng xuất phát từ những quan điểm tiếp cận
khác nhau về bản chất của tài sản thương hiệu.
Nhóm thứ nhất gồm các biến quan sát mà các quan điểm kế thừa và đi theo trường phái
của Aaker (1991) đã phát triển. Theo đó, hành vi lựa chọn của người tiêu dùng được thể hiện
bằng các biến quan sát như “lựa chọn duy nhất” và “luôn lựa chọn” cho dù các các đặc tính của
đối thủ cạnh tranh là tương đương.
Một hướng nghiên cứu cho rằng tài sản thương hiệu có thể đo lường trực tiếp, và việc
đo lường ấy thông qua sự thể hiện bằng hành vi lựa chọn của khách hàng. Nhóm nghiên cứu này
xuất phát từ tiếp cận của Aaker (1991) và được phát triển bởi khá nhiều các tác giả khác như
Arnett và cộng sự (2003); Pappu và Quester (2006); Yoo và Donthu (2001), ... Một số các nghiên
cứu khác như Swoboda và cộng sự (2016) chỉ ra rằng tài sản thương hiệu là một cấu trúc tiềm
ẩn, có nghĩa rằng không thể đo lường trực tiếp mà thay vào đó là đo lường gián tiếp thông qua
các biến khác nhau.
Nhóm thứ hai, tiêu biểu là nghiên cứu của Keller (2013), bộ các biến quan sát và thang đo
dành cho tài sản thương hiệu được đề nghị gồm có sáu nhóm. Mỗi nhóm căn cứ trên các thành
phần cấu thành của tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng để đưa ra các câu hỏi đánh giá. Tuy
nhiên, bộ thang đo này chưa được chứng minh qua nhiều nghiên cứu nên khó có thể nói rằng bộ
thang đo này đủ sức thuyết phục với giới nghiên cứu.
2.3. Tiếp cận về tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng của siêu thị điện máy
2.3.1. Tiếp cận về siêu thị điện máy
Dựa trên tiếp cận đồng thời về pháp luật và marketing đã được đề cập, trong phạm vi
nghiên cứu của luận án này, siêu thị điện máy là một cửa hàng bán lẻ chuyên doanh với việc bán
hàng được tiến hành trực tiếp và chủ yếu cho người tiêu dùng dựa trên công nghệ tự phục vụ
(hoặc tự chọn), có danh mục hàng hóa kinh doanh là các sản phẩm điện tử điện máy, có không
gian kinh doanh và phục vụ rộng với bãi đỗ và gửi phương tiện đi lại, có phương thức thanh
toán thuận tiện, có nguyên tắc sắp xếp và trưng bày hàng hóa thu hút, có công khai các thông tin
về giá bán. Siêu thị điện máy có thể được nhận biết bởi chữ "Siêu thị" gắn cùng với phần phần
biệt trong tên thương mại hoặc không.
2.3.2. Tiếp cận về tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng của siêu thị điện máy theo
quan điểm Keller
Dựa trên tiếp cận của Keller (2013b, 1993b), trong luận án này, khái niệm về tài sản
thương hiệu của siêu thị điện máy ở khía cạnh khách hàng người tiêu dùng được định nghĩa là:
những tác động khác biệt của tri thức thương hiệu tới sự phản ứng của người tiêu dùng đối với
các hoạt động marketing thương hiệu của siêu thị điện máy.
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy dựa trên khách
hàng
2.4.1. Yếu tố môi trường vĩ mô
Yếu tố Pháp luật. Đối với siêu thị điện máy nói riêng và doanh nghiệp bán lẻ nói chung,
yếu tố pháp luật ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của siêu thị và doanh nghiệp thể hiện
chủ yếu ở các quy định chính thức về pháp luật. Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội nhập kinh tế
của Việt Nam, các hiệp định ký kết giữa Việt Nam và các vùng, lãnh thổ khác cần được xem xét
như một yếu tố ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Yếu tố Kinh tế. Đối với tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy, cầu của người tiêu
dùng và mức chi tiêu bình quân của hộ gia đình là những yếu tố thuộc nhóm yếu tố kinh tế nhận
được sự quan tâm nhiều hơn. Hai yếu tố trên thể hiện cho sức mua và khả năng chi trả cho sản
phẩm cụ thể của người tiêu dùng, và hai yếu tố này chịu ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế nói
chung của cả nước.
14
Yếu tố Văn hoá – Xã hội. Với đặc điểm là có lực lượng dân số trẻ (từ 15 tuổi trở lên)
đạt hơn 70 triệu người (tính đến hết quý 2/2018), Việt Nam đang có một lực lượng lao động trẻ
(Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Tổng cục Thống kê, 2018). Điều đó đồng nghĩa với
việc những khoản chi tiêu cho tiêu dùng sẽ có thể tiếp tục ở xu hướng tăng. Đối với các siêu thị
điện máy, điều quan tâm nhiều hơn đó là tập khách hàng tiềm năng (thế hệ người tiêu dùng Z
những người sinh từ năm 2000 trở lại) sẽ có hành vi mua hàng như thế nào, có điểm khác biệt gì
so với thế hệ trước thế hệ người tiêu dùng Y (những người sinh từ năm 1981 đến trước năm
2000), và thế hệ người tiêu dùng X (những người sinh năm từ 1966 1980) và thế hệ người tiêu
dùng "baby boomers" (những người sinh từ năm 1946 đến 1965). Hành vi tiêu dùng khác nhau sẽ
dẫn đến sự ảnh hưởng của các yếu tố tác động vào hành trình mua sắm là khác nhau.
Yếu tố Công nghệ. Đối với siêu thị điện máy nói riêng và doanh nghiệp bán lẻ nói chung,
sự phát triển của công nghệ, tiêu biểu là Internet, là yếu tố góp phần thúc đẩy cho phương thức
kinh doanh hiện đại.
2.4.2. Yếu tố môi trường ngành
Khách hàng mục tiêu. Như đã phân tích ở trên, tùy vào mối quan tâm của từng nhóm tuổi
mà có thể chia tập khách hàng mục tiêu của siêu thị điện máy thành các nhóm khách hàng khác
nhau. Từ đây thấy rằng khách hàng của các sản phẩm điện tử điện máy rất đa dạng về độ
tuổi. Các sản phẩm viễn thông như điện thoại di động sẽ có sức hấp dẫn lớn hơn so với các sản
phẩm khác đối với khách hàng thuộc nhóm khách hàng trẻ, trong khi đó các sản phẩm điện tử
điện lạnh – điện gia dụng thì thuộc mối quan tâm nhiều hơn đối với nhóm khách hàng có cuộc
sống độc lập
Đối thủ cạnh tranh. Là một kênh bán lẻ hiện đại, siêu thị điện máy cạnh tranh trực tiếp
với các siêu thị điện máy khác, với các website thương mại điện tử, các sàn giao dịch trong việc
phân phối sản phẩm điện tử, điện máy và các thiết bị tin học, viễn thông. Ngoài ra, các siêu thị
điện máy còn cạnh tranh với các kênh bán lẻ truyền thống như các tiểu thương trong chợ truyền
thống, các hộ kinh doanh cá thể (gia đình) với cửa hàng nhỏ bán lẻ các sản phẩm điện tử, điện
gia dụng
Đối tác cung cấp. Doanh nghiệp sản xuất là một trong những đối tác quan trọng của các
siêu thị bán lẻ, là thành viên thuộc về thượng nguồn trong chuỗi cung ứng hàng hóa của các
doanh nghiệp bán lẻ. Đối với các siêu thị điện máy, việc đạt được thỏa thuận về giá bán, các
chính sách bảo hành đổi trả, chính sách thanh toán, chính sách về hàng hóa đối với các doanh
nghiệp sản xuất có thể là một lợi thế quan trọng để tăng thêm khả năng cạnh tranh trên thị
trường.
Công chúng. Công chúng có khả năng tác động đến một tổ chức trong việc đạt được các
mục tiêu của tổ chức, đặc biệt khi các mục tiêu đó có liên quan đến việc tạo dựng hình ảnh
thương hiệu, duy trì được vị thế của doanh nghiệp trong cộng đồng. Các nhóm công chúng gồm
có giới tài chính, giới truyền thông, giới công quyền, giới hoạt động xã hộ, giới địa phương, ...
2.4.3 Yếu tố môi trường nội bộ
Nguồn tài chính. Nguồn lực về tài chính là yếu tố ảnh hưởng quan trọng tới ngân sách
dùng cho các hoạt động marketing và phát triển thương hiệu của doanh nghiệp. Một số các yếu
tố như nắm giữ tiền mặt, mức nợ và vốn chủ sở hữu, khả năng tiếp cận nguồn vốn để phát
triển trong tương lai và mối quan hệ với các bên liên quan tài chính quan trọng (ví dụ: chủ ngân
hàng và cổ đông) (Ennew và Waite, 2007).
Nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực đóng góp quan trọng trong việc tạo dựng, duy trì và
nâng cao tài sản thương hiệu của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở số lượng
nhân viên mà còn thể hiện ở những kỹ năng và trình độ cụ thể mà nhân viên của một tổ chức có
thể đáp ứng và vượt so với kỳ vọng ban đầu. Đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, nguồn
nhân lực có thể coi là một phần sống còn của doanh nghiệp. Bản chất dịch vụ là những thứ khó
có thể sử dụng giác quan hữu quan để thấy, vì thế, khách hàng và các bên liên quan giao tiếp với
15
nhân viên cũng chính là giao tiếp với doanh nghiệp và là trải nghiệm đối với dịch vụ được cung
ứng.
Cơ sở vật chất. Cơ sở vật chất bao gồm cơ sở, thiết bị, .. mà doanh nghiệp đang khai
thác (có thể doanh nghiệp có quyền sở hữu hoặc chỉ có quyền sử dụng). Đối với một siêu thị
điện máy, cơ sở vật chất có thể bao gồm các tài sản trên đất mà siêu thị có quyền sử dụng, các
máy móc phục vụ việc bán hàng và công tác quản lý bán hàng, các thiết bị phục vụ cho hoạt
động truyền thông như banner, băng rôn, bảng hiệu, khung nhà hội chợ, ... Cơ sở vật chất, đối
với siêu thị điện máy, chính là một sự thể hiện về thương hiệu đối với khách hàng. Điều này có
nghĩa rằng cơ sở vật chất chính là những thứ hữu hình, mà thông qua đó, khách hàng có ấn
tượng và có thể suy nghiệm về thương hiệu.
Các dạng tài sản vô hình khác.
Quyết định Marketing. Mối quan hệ không thể tách rời giữa hoạt động marketing và hoạt
động thương hiệu. Mỗi quyết định về marketing đều ảnh hưởng quan trọng đến thương hiệu
của doanh nghiệp. Đối với siêu thị điện máy, với tư cách là một nhà bán lẻ, quyết định về
marketing bán lẻ là những quyết định quan trọng để doanh nghiệp bán lẻ theo đuổi mục tiêu kinh
doanh trong đoạn thị trường trọng điểm và khoảng thời gian xác định. Một số quyết định
marketing quan trọng trong lĩnh vực bán lẻ được xác định bao gồm: Quyết định về danh mục sản
phẩm, quyết định về giá bán lẻ, quyết định về dịch vụ, quyết định về bầu không khí, quyết định
về các hoạt động và trải nghiệm tại cửa hàng, quyết định về truyền thông, và quyết định về địa
điểm (Kotler và Keller, 2016, tr.557).
2.5 Giới thiệu chung về địa bàn nghiên cứu
2.5.1 Quy mô và tốc độ tăng trưởng thị trường bán lẻ sản phẩm điện máy
Thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn tiếp tục được nhận định là một thị trường đang rất hấp
dẫn (Trần Hải Đăng, 2016) và đối với thị trường bán lẻ các sản phẩm điện máy và điện gia
dụng thì vẫn còn cơ hội cho các doanh nghiệp gia nhập thị trường. Theo nghiên cứu của GfK
Temax, doanh thu thị trường bán lẻ các sản phẩm điện máy và điện gia dụng năm 2017 là 197.4
nghìn tỷ VNĐ, năm 2018 là 217.49 nghìn tỷ VNĐ và tính đến hết quý 3 năm 2019 đã đạt mức
158.46 nghìn tỷ VNĐ.
2.5.2 Các kênh bán lẻ sản phẩm điện tử điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội
Tại thị trường Hà Nội, các sản phẩm điện tử điện máy có thể được mua qua hai kênh
bán lẻ truyền thống là Chợ truyền thống, cửa hàng điện tử nhỏ; và kênh bán lẻ hiện đại là Siêu
thị, Trung tâm thương mại và qua các ứng dụng trên nền tảng Internet.
2.5.3 Giới thiệu chung về các siêu thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội
Số lượng các siêu thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội, tính đến hết tháng 3 năm
2019 gồm có tổng số 109 siêu thị điện máy. Trong đó, Điện máy Xanh là chuỗi siêu thị điện máy
có số lượng điểm bán lớn nhất với 59 điểm bán, trải dài trên hầu khắp các Quận/ Huyện của
thành phố Hà Nội. Tiếp theo là Mediamart với 26 điểm bán, Pico với 13 điểm bán và HC với 6
điểm bán. Cuối cùng là DigiCity có 5 siêu thị điện máy. Quận Cầu Giấy, Từ Liêm (gồm Bắc Từ
Liêm và Nam Từ Liêm), Đống Đa, Hà Đông, Long Biên có nhiều điểm bán của nhiều siêu thị
điện máy. Xét về số lượng hàng hóa kinh doanh (SKU), tính đến hết tháng 3 năm 2019,
Mediamart đang kinh doanh hơn 11 nghìn SKU trên toàn hệ thống; Pico đang kinh doanh gần
6500 SKU trên toàn hệ thống; HC có 6248 SKU trên toàn hệ thống; DigiCity có gần 5000 SKU
trên toàn hệ thống. Riêng Điện Máy Xanh, tính đến thời điểm luận án thống kê có gần 5500
SKU trên toàn hệ thống. Tuy nhiên, sau đó hệ thống của Trần Anh và Điện máy Xanh hợp lại
với nhau sau khoảng thời gian một năm hoạt động song song nên số lượng SKU này có sự thay
đổi đáng kể.
16
CHƯƠNG 3
MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Các giả thuyết và mô hình nghiên cứu
3.1.1 Các yếu tố ảnh hưởng tới tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy trên địa bàn
thành phố Hà Nội và giả thuyết nghiên cứu
(1) Khả năng tiếp cận; (2) Danh mục sản phẩm thương hiệu; (3) Nhân viên bán hàng;
(4) Mức giá sản phẩm và những lợi ích vật chất có thể nhận được; (5) Không gian mua sắm; (6)
Hoạt động truyền thông và các nỗ lực cộng đồng; (7) Hoạt động chăm sóc khách hàng; (8) Dịch
vụ giao hàng, lắp đặt; (9) Dịch vụ thanh toán, hoàn trả; (10) Dịch vụ sửa chữa, bảo hành
3.1.2 Mô hình nghiên cứu
3.2 Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án này, như đã đề cập trong Phần mở đầu, đó là để xác
định và làm rõ sự ảnh hưởng của các yếu tố marketing bán lẻ đến tài sản thương hiệu của siêu
thị điện máy dựa trên góc độ khách hàng người tiêu dùng. Đây là một loại nghiên cứu nhân quả
với mục tiêu xác định mối quan hệ giữa các biến độc lập – biến phụ thuộc.
3.3 Phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu
Thu thập dữ liệu thứ cấp : Thu thập dữ liệu từ báo cáo của các đơn vị nghiên cứu thị trường,
cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội ; từ các công trình khoa học có liên quan; sách báo, tạp
chí; internet về siêu thị điện máy trong thời gian qua
Thu thập dữ liệu sơ cấp: Để thu thập dữ liệu sơ cấp cho nghiên cứu, tác giả đã thực hiện
một số phương pháp sau:
+ Phương pháp sử dụng phiếu điều tra: Tác giả khảo sát theo phương pháp chọn mẫu phi xắc
suất, các phiếu điều tra được phỏng vấn trực tiếp với các đối tượng là cá nhân người tiêu dùng
đang sinh sống và làm việc tại địa bàn các quận nội thành của thành phố Hà Nội. Tổng số lượng
phiếu khảo sát phát ra là 300 phiếu, số phiếu thu về và có khả năng sử dụng phân tích là 300
phiếu. Toàn bộ hoạt động điều tra được thực hiện và giám sát bởi Công ty TNHH B & Company
(Công ty nghiên cứu thị trường có trụ sở đặt tại Hà Nội).
+ Phương pháp thảo luận nhóm: Lựa chọn ngẫu nhiên một nhóm các cá nhân người tiêu dùng đã
mua hàng hoá tại các siêu thị điện máy để phục vụ cho việc thu thập dữ liệu sơ bộ, từ đó sàng
lọc và đánh giá về các biến quan sát và thang đo nghiên cứu.
+ Đánh giá của chuyên gia: được thực hiện dưới hình thức phỏng vấn sâu, gặp gỡ trực tiếp,
trao đổi qua điện thoại và thư điện tử để nắm bắt tình hình về các siêu thị điện máy trên địa bàn
thành phố Hà Nội và sự phù hợp của bộ thang đo cùng các biến nghiên cứu trong mô hình nghiên
cứu.
17
3.4 Thiết kế bảng câu hỏi và xây dựng thang đo đối với các khái niệm nghiên cứu
Bảng câu hỏi được xây dựng theo quy trình với ba bước chính: (1) Xây dựng bảng câu
hỏi nháp từ kết quả tổng quan các công trình nghiên cứu trước đây; (2) Điều chỉnh bảng câu hỏi
nháp bằng phương pháp nghiên cứu định tính (Thảo luận nhóm) để hình thành bảng câu hỏi sơ
bộ; (3) Tiến hành thu thập dữ liệu sơ bộ với kích cỡ mẫu là 137 để đánh giá độ tin cậy của
thang đo (thông qua hệ số Cronbach’s Alpha) và sự phù hợp của thang đo đối với nội dung
nghiên cứu (thông qua phân tích nhân tố khám phá EFA). Sau khi tiến hành khảo sát sơ bộ, bảng
câu hỏi được tham vấn ý kiến các chuyên gia và điều chỉnh một số nội dung để hình thành bảng
câu hỏi phục vụ cho thu thập dữ liệu chính thức.
3.5 Thực hiện thu thập dữ liệu sơ bộ
Trong thu thập dữ liệu sơ bộ, phương pháp chọn mẫu được lựa chọn là phương pháp lấy
mẫu phi ngẫu nhiên, với phương pháp cụ thể là chọn mẫu thuận tiện.
3.6 Thực hiện thu thập dữ liệu chính thức
Việc thu thập dữ liệu chính thức được thực hiện bằng phiếu điều tra thông qua phương
pháp phỏng vấn trực tiếp khách hàng đang sinh sống trên địa bàn các quận nội thành của thành
phố Hà Nội. Hoạt động thu thập dữ liệu điều tra khách hàng của luận án được tác giả ủy nhiệm
cho nhóm nghiên cứu thực địa của Công ty TNHH B & Company – là công ty cung cấp các dịch
vụ nghiên cứu thị trường có trụ sở tại quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
3.7 Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu
Trên cơ sở các thông tin thu thập được, tiến hành thống kê, phân tích và so sánh, đối
chiếu các số liệu và thông tin để đưa ra những đánh giá chung về thực trạng tài sản thương hiệu
của các siêu thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội. Ngoài ra một số dữ liệu khảo sát sẽ
được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel 2016 và SPSS 20.
18
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU
4.1 Kết quả thống kê mô tả tần suất đối với thông tin mẫu khảo sát
4.1.1 Trong thu thập dữ liệu sơ bộ
Nhóm khách hàng tham gia khảo sát trong độ tuổi từ 1981 đến 2000 là chủ yếu. Trong đó,
khách hàng nữ chiếm phần hơn với 77 đáp viên người (chiếm 55.79%). Hai nhóm có ít đại diện
hơn trong cuộc khảo sát này là nhóm trên 55 tuổi và nhóm dưới 18 tuổi. Các nhóm tuổi được chia
dựa trên các nghiên cứu về người tiêu dùng cá nhân của Nielson, KPMG, PwC, ...
4.1.2 Trong thu thập dữ liệu chính thức
Thứ nhất, tỷ lệ các nhóm tuổi của đáp viên tham gia khảo sát tương đối đồng đều. Trong
đó, nhóm tuổi từ 25 tuổi đến 34 tuổi có số lượng lớn nhất, với 91 người (chiếm 30.3%) gồm tỷ
lệ chia đều cho đáp viên là nam giới và đáp viên là nữ giới. Nhóm này là nhóm đã có trải nghiệm
mua hàng tại Pico và HC lớn nhất (31 người đã mua hàng tại Pico và 24 người đã mua hàng tại
HC), Điện máy Xanh và Mediamart có số đáp viên đã chọn mua bằng nhau (18 người). Nhóm
tuổi từ 35 tuổi đến 44 tuổi là nhóm tuổi có số lượng đáp viên lớn thứ hai, với 72 người tham gia
khảo sát, chiếm 24%. Đáp viên là nam trong nhóm tuổi này có số lượng lớn hơn so với đáp viên
là nữ giới và số lượng người đã mua hàng hóa tại siêu thị Mediamart là nhiều nhất, chiếm 34.7%
trong tổng số đáp viên thuộc nhóm tuổi này. Nhóm tuổi từ 18 tuổi đến 24 tuổi có tổng 62 đáp
viên, chiếm 20.6% tổng số người tham gia khảo sát. Đáp viên là nữ giới chiếm tới 67.7% và số
lượng đáp viên đã mua hàng tại Điện máy Xanh chiếm tới gần 50% trong tổng số đáp viên thuộc
nhóm. Nhóm tuổi từ 45 tuổi đến 54 tuổi, có tổng 54 đáp viên (chiếm 18%) và nam giới thuộc
nhóm này chiếm tới 61.1% trong nhóm. Siêu thị điện máy HC và Mediamart là hai thương hiệu
được nhiều đáp viên thuộc nhóm này lựa chọn nhất (33.3% cho mỗi thương hiệu siêu thị điện
máy). Nhóm tuổi từ 55 đến 59 tuổi là nhóm tuổi có số lượng đáp viên ít nhất (với 21/300, tương
ứng 7%). Đối với nhóm tuổi này, ngoại trừ Điện máy Xanh là ít nhất thì các thương hiệu siêu thị
điện máy còn lại được lựa chọn là tương đương nhau.
Thứ hai, “Nhân viên văn phòng” là nghề nghiệp chính của nhiều đáp viên nhất trong cuộc
khảo sát này (với 82 đáp viên, chiếm 27.3%). Tiếp theo là những người tự kinh doanh (với 57
người, chiếm 19%), học sinh/ sinh viên và làm việc tự do (với 53 người cho mỗi nhóm nghề
nghiệp, chiếm 17.6%). Những đáp viên làm nghề chuyên môn (bác sỹ, kỹ sư, giáo viên, ..) có 24
người (chiếm 8%). Số lượng đáp viên là những người làm nhân viên của nhà máy, xí nghiệp và
những người nghỉ hưu chiếm khoảng 5% cho mỗi nhóm. Chỉ có 3 người (chiếm 1%) trong số
các đáp viên tự nhận mình ở nhà nội trợ.
4.2 Kết quả thống kê mô tả với các biến nghiên cứu
Kết quả thống kê mô tả đối với các biến nghiên cứu cho biết thông tin cơ bản về các
biến nghiên cứu. Các thông tin đó bao gồm: Gía trị trung bình; Giá trị trung vị; Giá trị phổ biến;
Độ lệch chuẩn. Có kết quả thống kê mô tả sẽ cho biết cơ bản hình dạng của biến nghiên cứu:
độ tập trung và độ phân tán, từ đó, kết hợp với các kết quả phân tích còn lại để đưa ra kết luận
phù hợp.
4.3 Đánh giá độ tin cậy và giá trị thang đo của các biến quan sát
Dựa trên kết quả hệ số Cronbach’s Alpha và kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA thì
thấy rằng thang đo của các biến quan sát đảm bảo độ tin cậy và đảm bảo giá trị hội tụ và giá trị
khác biệt. Điều đó cho phép kết luận rằng thang đo này là phù hợp với các biến quan sát của
biến nghiên cứu.
4.4 Kiểm định sự khác biệt trung bình mẫu bằng kiểm định mô hình ANOVA One way và
T – test
Kết quả kiểm định mô hình Ttest và ANOVA One cho thấy:
19
Thứ nhất, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tài sản thương hiệu của siêu thị
điện máy dưới góc độ khách hàng đối với các siêu thị điện máy khác nhau trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
Thứ hai, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tài sản thương hiệu của siêu thị
điện máy dưới góc độ khách hàng người tiêu dùng của những người tiêu dùng thuộc các nhóm
nghề nghiệp khác nhau vào thời điểm hiện tại. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy giữa những người làm nhân viên văn phòng và những
người tự kinh doanh, học sinh/ sinh viên và những người tự kinh doanh, Các nghề chuyên môn
(Kỹ sư, Bác sỹ, Giáo viên, ..) và những người tự kinh doanh. Các nhóm đối tượng còn lại thì
không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Thứ ba, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi, nhóm thu nhập, và
giới tính về tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy dưới góc độ khách hàng người tiêu dùng.
4.5 Hiệu chỉnh mô hình nghiên cứu và kiểm định các giả thuyết nghiên cứu
Sau khi tiến hành phân tích nhân tố khám phá EFA, mô hình nghiên cứu được điều chỉnh
gồm 39 biến quan sát của 8 biến độc lập và 4 biến quan sát của 1 biến phụ thuộc. Các biến quan
sát này được một lần nữa tham vấn các chuyên gia về bán lẻ và nghiên cứu thị trường để trao
đổi và thảo luận về kết quả phân tích dữ liệu. Trên cơ sở các biến quan sát này, các biến độc
lập được đặt tên lại để phù hợp với nội dung của biến quan sát.
4.6 Bàn luận về kết quả nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng tời tài sản thương hiệu của siêu
thị điện máy dựa trên góc độ khách hàng
Mô hình nghiên cứu của luận án dựa trên quan điểm tiếp cận của Keller (2013, 1993) và
các kết quả nghiên cứu về tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bán lẻ trong thời gian gần đây
trên thế giới. Kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần khẳng định sự tương đồng đối với
kết quả nghiên cứu của một số các nghiên cứu như nghiên cứu về tài sản thương hiệu của
chuỗi đại siêu thị của Jinfeng và Zhilong (2009), Allaway và cộng sự (2011), Takahashi (2014),
Swoboda (2016, 2009).
Kết quả kiểm định giả thuyết cho thấy biến F7: Chính sách mua hàng trả góp và đơn vị
cung cấp dịch vụ tin cậy có Sig.>0.5 cho thấy mức độ tác động đối với biến phcuj thuộc là
không có ý nghĩa thống kê. Vì vậy, giả thuyết về mối quan hệ cùng chiều giữa biến F7 và biến
phụ thuộc vẫn chưa thể kết luận.
20
Phương trình hồi quy thể hiện tác động của 7 yếu tố tới tài sản thương hiệu của siêu thị
điện máy là:
Tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy dựa trên góc độ khách hàng = 0.125 * Danh
mục sản phẩm – thương hiệu + 0.184 * Khu vực trông giữ phương tiện + 0.238 * Không gian
mua sắm + 0.197 * Những lợi ích vật chất có thể nhận được và sự sẵn sàng trong chia sẻ thông
tin + 0.235 * Thái độ và sự hữu ích của nhân viên bán hàng + 0.222 * Dịch vụ giao hàng và nhân
viên lắp đặt + 0.178 * Dịch vụ sửa chữa, bảo hành.
Trong phương trình này, không gian mua sắm có ảnh hưởng quan trọng tới tài sản thương
hiệu của siêu thị điện máy dựa trên khách hàng (+0.238); Thái độ và sự hữu ích của nhân viên
bán hàng là yếu tố có mức độ tác động lớn tiếp theo (+0.235); Dịch vụ giao hàng và nhân viên
lắp đặt là yếu tố có mức độ tác động lớn thứ ba (+0.222); Tiếp theo là Những lợi ích vật chất có
thể nhận được và sự sẵn sàng chia sẻ thông tin (+0.197); Tiếp theo là Khu vực trông giữ phương
tiện (+0.184); Tiếp theo là Dịch vụ sửa chữa, bảo hành (+0.178); Và cuối cùng là Danh mục sản
phẩm – thương hiệu có mức độ tác động thấp nhất (+0.125).
Kết quả nghiên cứu này đã cho thấy sự khác biệt giữa các thương hiệu siêu thị điện máy
trên địa bàn thành phố Hà Nội không còn nằm ở danh mục sản phẩm kinh doanh. Thay vào đó,
khách hàng lựa chọn điểm mua hàng dựa vào những yếu tố có tính vô hình hơn. Khách hàng
dường như quan tâm đến nhiều yếu tố ngoài danh mục sản phẩm hơn ví dụ như họ có cảm
thấy mua sắm dễ chịu không, có thuận tiện không, các dịch vụ đối với khách hàng như thế nào,
… Kết quả này tương đồng khá lớn với một số các kết quả nghiên cứu trước đây, đặc biệt là
nhóm nghiên cứu của Swoboda và cộng sự (2016) khi cho rằng đối với các cửa hàng bán lẻ
chuyên doanh nên tập trung nhiều hơn vào dịch vụ cung cấp.
21
CHƯƠNG 5
ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ KHUYẾN NGHỊ
5.1. Đánh giá chung về tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng của các siêu thị điện máy
trên địa bàn thành phố Hà Nội
5.1.1. Một số thành công đã đạt được
Các siêu thị điện máy đã tạo được nhận biết thương hiệu đối với người tiêu dùng. Sự
nhận biết thương hiệu này được đo lường bằng khả năng người tiêu dùng có thể nhận ra và gọi
tên thương hiệu đó hay không. Kết quả khảo sát đã cho thấy các đáp viên đều có khả năng nhận
biết và gọi tên thương hiệu của những siêu thị điện máy họ biết trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Mặc dù chưa thể kết luận rằng đông đảo người tiêu dùng trên địa bàn thành phố Hà Nội có
được nhận biết thương hiệu đối với các siêu thị điện máy song những ở một góc độ nào đó,
điều này thể hiện dấu ấn của siêu thị điện máy trong tâm trí của người tiêu dùng.
Trong số các siêu thị điện máy, thương hiệu Điện máy Xanh là thương hiệu có số lượng người
nhận biết không cần gợi ý nhiều nhất (253/300). Tiếp theo là Mediamart, HC và Pico với số
lượng tương đương nhau (lần lượt là 168, 167, 143). Điều này cho thấy phần nào kết quả của
hoạt động truyền thông thương hiệu mà Tập đoàn thế giới di động và Điện máy Xanh đã thực
hiện tại khu vực thị trường thành phố Hà Nội. Đối với thương hiệu siêu thị điện máy
Mediamart, việc nhận biết thương hiệu chủ yếu thông qua các điểm bán được đặt trên các mặt
đường phố lớn, bày trí hấp dẫn với tông màu đỏ. Việc mở rộng các siêu thị điện máy mang
thương hiệu Mediamart cũng đã giúp cho sự nhận biết thương hiệu này tốt hơn. Hai thương
hiệu siêu thị điện máy còn lại là HC và Pico thì chủ yếu xuất hiện tại khu vực bán (cũng là hai
thương hiệu có số lượng điểm bán ít hơn so với Điện máy Xanh và Mediamart).
Các siêu thị điện máy đã tạo được liên tưởng thương hiệu phù hợp trong tâm trí người
tiêu dùng. Dựa trên kết quả nghiên cứu, nhìn chung, người tiêu dùng đã không đến các siêu thị
điện máy để tìm kiếm mức giá thấp hơn so với các kênh bán sản phẩm điện máy khác (như các
sàn giao dịch thương mại điện tử). Người tiêu dùng tìm kiếm sự đảm bảo ở các siêu thị điện
máy – một nơi bán hàng hiện hữu và là một doanh nghiệp kinh doanh có quy mô rộng lớn. Tuy
nhiên, người tiêu dùng vẫn tìm kiếm những lợi ích có thể nhận được được thông qua các
chương trình giảm giá và tặng quà đối với khách hàng. Và đối với các khách hàng quay trở lại,
các siêu thị điện máy vẫn chưa thể chứng minh rõ ràng những lợi ích mà những khách hàng này
có được khi quay trở lại mua hàng tại chính siêu thị của họ. Cá nhân tác giả cho rằng, trong thời
gian qua, các siêu thị điện máy đã chạy đua để cùng hạ giá và cạnh tranh nhau về giá bán sản
phẩm. Điều này dẫn đến những hệ lụy lâu dài, và một trong số đó chính là việc để cho khách
hàng phụ thuộc quá nhiều vào mức giá bán hàng hóa khi lựa chọn điểm mua hàng. Đến sau cùng,
chính siêu thị điện máy lại là người chịu thiệt khi chịu sức ép trong các hợp đồng nhập hàng hóa
từ các nhà cung cấp. Vòng tròn đối với siêu thị điện máy lúc này lại là: Nhập hàng có chất lượng
trung bình (thậm chí là có thể có một vài lỗi kỹ thuật) để có mức giá thấp hơn đối thủ cạnh
tranh, bán cho người tiêu dùng với mức giá thấp, người tiêu dùng sử dụng hàng hóa không hài
lòng, người tiêu dùng có định kiến và từ bỏ siêu thị điện máy đó. Chính vì vậy, cá nhân tác giả
cho rằng, việc rời bỏ liên tưởng thương hiệu “giá thấp” có thể là một điều phù hợp cho hoạt
động kinh doanh trong dài hạn của siêu thị điện máy. Thay vào liên tưởng thương hiệu “giá bán
thấp”, các siêu thị điện máy đang dần dịch chuyển sang các liên tưởng thương hiệu khác phù hợp
hơn liên quan đến những lợi ích vật chất mà khách hàng có thể nhận được, như “quà tặng”,
“khuyến mãi”.
Các siêu thị điện máy đã bước đầu tạo được sự gắn bó với người tiêu dùng. Dựa trên kết quả
nghiên cứu, những đánh giá tích cực dành cho các siêu thị điện máy đã có. Số lượng khách hàng
cho rằng họ sẽ quay trở lại mua tại siêu thị điện máy Pico trong tương lai là 92 khách hàng, tại
siêu thị điện máy HC là 102 khách hàng, tại siêu thị điện máy Mediamart là 98 khách hàng, tại
Điện máy Xanhlà 158 khách hàng. Những con số này mới chỉ là những số liệu dựa trên một tập
22
mẫu khảo sát chưa thể đại diện cho toàn bộ người tiêu dùng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy
nhiên, việc khách hàng có sự cam kết và gắn bó với các siêu thị điện máy cũng đã là một thành
công và việc của các doanh nghiệp sở hữu chuỗi siêu thị điện máy đó là tận dụng và khai thác
những giá trị mà một khách hàng có thể mang lại cho mình.
5.1.2. Một số hạn chế gặp phải
Hạn chế về xác định định vị thương hiệu, hoạt động truyền thông thương hiệu bên ngoài
tổ chức. Có thể nói, đến thời điểm hiện tại, các siêu thị điện máy đã gần như không còn cần
thực hiện kế hoạch liên quan đến việc nâng cao nhận biết thương hiệu của người tiêu dùng trên
địa bàn thành phố Hà Nội. Đó là vì trong gần 20 năm xuất hiện mô hình bán lẻ dạng siêu thị
chuyên doanh (đối với sản phẩm điện tử điện máy), người tiêu dùng, đặc biệt tại các đô thị lớn
như thành phố Hà Nội, đều đã biết về các siêu thị điện máy như là một kênh bán lẻ đối với các
sản phẩm tiêu dùng lâu bền có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần là việc nhận biết
thương hiệu thì sẽ không thể đủ sức níu giữ khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới đến không
gian mua sắm trực tiếp của siêu thị điện máy. Vì thế, cần sự thể hiện nhiều hơn của các siêu thị
điện máy, hay chính là việc truyền thông về những điểm khác biệt của siêu thị điện máy, nhằm
tạo những liên tưởng thương hiệu độc đáo, phù hợp và đủ mạnh để siêu thị điện máy luôn có
thể là một lựa chọn cân nhắc trong quá trình mua hàng của người tiêu dùng.
5.1.3. Một số nguyên nhân được xác định
Các doanh nghiệp sở hữu siêu thị điện máy đang tập trung quá nhiều vào các mục tiêu
ngắn hạn, dẫn đến (1) cắt giảm ngân sách dành cho marketing nói chung và thương hiệu nói
riêng; (2) cắt giảm các đãi ngộ và chính sách dành cho nhân viên, dẫn đến chất lượng nhân viên
hạn chế; (3) sức ép chi phí khiến cho các khoản ngân sách dành cho phát triển thị trường và duy
trì mối quan hệ với khách hàng bị hạn chế. Tất cả những sức ép liên quan đến chi phí khiến cho
lãnh đạo doanh nghiệp phải chọn giải pháp hoặc cắt giảm chi tiêu hoặc tìm cách mở thêm
nguồn đầu tư. Trao đổi với ông Nguyễn Anh Đức – Giám đốc marketing chuỗi siêu thị điện máy
Pico, ông cho rằng tại thời điểm hiện tại, rất nhiều các siêu thị điện máy buộc phải cắt giảm chi
phí, trong đó chi phí dành cho hoạt động truyền thông thương hiệu và các chi phí marketing khác
thường xuyên được lựa chọn để cắt giảm. Lý do là vì thời điểm hiện tại các công cụ để đánh
giá hiệu quả marketing của các chương trình còn rất hạn chế, chi phí cao do tính trên một m 2
mặt sàn kinh doanh (diện tích của các siêu thị điện máy với số lượng điểm bán ít hơn như Pico,
HC). Vì vậy, việc cắt giảm chi phí là điều không thể tránh khỏi, và đó là vòng lặp của việc: hạn
chế chi phí marketing – kết quả không như mong đợi – cắt giảm tiếp tục chi phí marketing – kết
quả không như mong đợi.
Những nguyên nhân này cũng được thể hiện với cùng hàm ý trong nghiên cứu của Đào
Xuân Khương (2017, tr. 141–142) khi cho rằng ba nguyên nhân của kết quả người tiêu dùng đánh
giá chất lượng cung cấp dịch vụ của các siêu thị chuyên doanh nói chung trên địa bàn thành phố
Hà Nội còn kém đó là bởi (1) Đội ngũ nhân viên; (2) Năng lực quản lý; và (3) Khả năng thấu
hiểu kỳ vọng của khách hàng. Theo đó, doanh nghiệp cần phải có chính sách đào tạo nhân viên,
nâng cao năng lực quản lý và khả năng nghiên cứu cũng như thể hiện được sự thấu hiểu khách
hàng.
5.2. Quan điểm dự báo và định hướng phát triển thương mại trong nước đến 2025, tầm nhìn
đến năm 2035
Thị trường thành phố Hà Nội cùng với thị trường thành phố Hồ Chí Minh là hai thị
trường trọng điểm của Việt Nam. Trong Vùng Thủ đô, Hà Nội được khẳng định là thành phố
trung tâm của vùng với mô hình chùm đô thị có hệ thống đa trung tâm hiện đại, đầu mối giao
thông chính, trung tâm nghiên cứu, dịch vụ tài chính, thương mại, văn hoá, du lịch và dịch vụ hạ
tầng xã hội mang tầm khu vực Đông Nam Á (Nước CHXHCN Việt Nam, 2011). Ngày nay tại
các thành phố đông dân cư như thành phố Hà Nội, người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn các sản
phẩm thông minh hơn, có tính kinh tế hơn, dễ dàng hơn (trong mua sắm, trong sử dụng) và
người mua hàng chủ động hơn rất nhiều về việc lựa chọn nơi mua hàng (siêu thị, trung tâm
23
thương mại) hoặc tham khảo các kênh thông tin từ nhiều nguồn khác nhau trên Internet. Tuy
nhiên, việc đến tận nơi bán để được chạm, sờ và thử vận hành cũng được nhắc đến như một
thói quen tiêu dùng của người tiêu dùng đối với các hàng hóa có giá trị cao như các sản phẩm
điện máy.
5.3. Quan điểm và định hướng quản trị tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy trên địa
bàn thành phố Hà Nội
5.3.1. Quan điểm đề xuất
Tài sản thương hiệu nên được xem xét với vai trò là một dạng tài sản trí tuệ trong doanh
nghiệp, là một phần thuộc tài sản vô hình của doanh nghiệp. Theo đó, tài sản thương hiệu không
nên chỉ nhìn nhận là việc đã hoàn thành và có được chứng nhận đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của
doanh nghiệp sở hữu hay việc có được các chứng chỉ bảo hộ đối với các đối tượng của tài sản
trí tuệ khác. Tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy nên được nhìn nhận rộng hơn trong mối
tương quan với các loại tài sản khác của doanh nghiệp.
Dưới góc độ người tiêu dùng, tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy nên được nhìn
nhận là một lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp khi có khả năng tác động đến hành vi mua của
người tiêu dùng và duy trì sự gắn kết của họ ở các cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, quản trị tài sản
thương hiệu siêu thị điện máy đòi hỏi đồng thời doanh nghiệp xem xét trên nhiều khía cạnh khác
nhau không chỉ đơn thuần là một khía cạnh đơn lẻ, và cần gắn kết với các đặc tính bán lẻ của
siêu thị.
Tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy dưới khía cạnh người tiêu dùng là đòi hỏi
quan trọng để bảo đảm sự phát triển bền vững của siêu thị điện máy nói riêng và doanh nghiệp
sở hữu siêu thị điện máy nói chung. Vì những tổ chức, doanh nghiệp nào có khả năng mang lại
lợi ích cho người dùng, cho cộng đồng tại khu vực kinh doanh và cho chính bản thân doanh
nghiệp, tổ chức đó thì mới có cơ hội nhận được sự ủng hộ và có được sự gắn bó, trung thành từ
phía khách hàng và đối tác trong hoạt động kinh doanh.
Quản trị tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy cần nhìn nhận đa chiều, trong đó các
yếu tố tác động trực tiếp đến người tiêu dùng như các quyết định về giá bán lẻ, về danh mục
sản phẩm – thương hiệu, về hoạt động truyền thông đối với cộng đồng, về cách bố trí sắp xếp
không gian trong và ngoài khu vực mua sắm, về nhân viên, về các dịch vụ như dịch vụ giao hàng,
dịch vụ lắp đặt, dịch vụ sửa chữa, dịch vụ bảo hành thì cần được quan tâm nhiều hơn. Bên cạnh
đó, các yếu tố còn lại, thuộc về phía nội tại của doanh nghiệp như quy trình tổ chức, chế độ đãi
ngộ và lương thưởng với nhân viên, ... cũng cần được xem xét và điều chỉnh để thúc đẩy việc
tạo nên các đề xuất giá trị sau cùng cho người tiêu dùng, cho công chúng cũng như là cho chính
những người làm việc, hợp tác cùng với siêu thị điện máy.
Quản trị tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội dựa trên
kết quả nghiên cứu về hành vi lựa chọn của người tiêu dùng đang sinh sống trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Những đề xuất dưới đây có thể được xem xét để áp dụng tại các khu vực thị
trường khác ngoài thành phố Hà Nội.
Việc hoạch định và thực thi chiến lược thương hiệu nhằm nâng cao tài sản thương hiệu
của siêu thị điện máy là trách nhiệm của toàn bộ những nhân viên, quản lý, đơn vị hợp tác với
siêu thị điện máy và doanh nghiệp sở hữu siêu thị điện máy, trong đó phòng marketing giữ vai trò
nòng cốt về chuyên môn kỹ thuật.
Phạm vi nghiên cứu đề tài giới hạn về các yếu tố marketing bán lẻ tác động đến tài sản
thương hiệu trong tâm trí người tiêu dùng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Vì vậy, các đề xuất có
liên quan đến nâng cao tài sản thương hiệu sẽ được tập trung chủ yếu vào các yếu tố tác động
của tài sản thương hiệu của siêu thị điện máy đã được nghiên cứu.
5.3.2. Xu hướng kinh doanh và định hướng hoạt động quản trị tài sản thương hiệu của siêu
thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội
Xu hướng kinh doanh theo chuỗi
24
Xu hướng kinh doanh kết hợp trực tuyến và ngoại tuyến
Xu hướng tăng trải nghiệm của người tiêu dùng
5.4 Khuyến nghị đối với các siêu thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội trên cơ sở vận
dụng kết quả nghiên cứu
Từ những phân tích phía trên, luận án đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao tài sản
thương hiệu của siêu thị điện máy dưới góc độ khách hàng người tiêu dùng trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Những giải pháp được đề xuất dựa trên khả năng giải quyết các tồn tại và thách
thức đặt ra cho hoạt động quản trị tài sản thương hiệu của các siêu thị điện máy đồng thời phát
triển những nền tảng sẵn có và tính đến các yếu tố xu hướng được dự báo. Hoạt động quản trị
tài sản thương hiệu được tiếp cận dưới góc nhìn của quản trị chiến lược với hàm ý về khả
năng tận dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để xây dựng và duy trì lợi thế cạnh tranh (lợi
thế về sự khác biệt) trong tương lai. Cấp độ về quản trị thương hiệu của các siêu thị điện máy
được nhìn nhận ở hai cấp độ dựa theo cơ cấu tổ chức của siêu thị điện máy, đó là: Cấp doanh
nghiệp (với vai trò là người quản lý, người sở hữu toàn bộ chuỗi); Cấp Siêu thị (với vai trò là
người thực hiện các hoạt động).
5.5 Khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại
Khuyến nghị đối với Sở Công thương thành phố Hà Nội, Bộ Công thương và Uỷ ban
nhân dân thành phố Hà Nội. Trong đó, các khuyến nghị tập trung vào nội dung hỗ trợ hoạt động
kinh doanh các doanh nghiệp bán lẻ nói chung và siêu thị điện máy trên địa bàn thành phố Hà Nội
nói riêng.
5.6 Khuyến nghị đối với Hiệp hội bán lẻ Việt Nam
Khuyến nghị đối với Hiệp hội bán lẻ Việt Nam trong việc hỗ trợ và tư vấn các đơn vị
thành viên. Trong đó, các khuyến nghị có đề cập đến việc hỗ trợ các thành viên tham gia đào tạo
các chương trình về bán hàng và quản trị thương hiệu, cập nhật các công nghệ bán hàng, các
kiến thức liên quan đến môi trường Internet và cách khai thác, vận hành đối với việc bán hàng
trong thời đại công nghệ.
25
KẾT LUẬN
Tài sản thương hiệu có vai trò quan trọng đối với khách hàng và thể hiện giá trị của
doanh nghiệp trên thị trường. Đối với siêu thị điện máy, trong bối cảnh áp lực cạnh tranh như
hiện nay thì siêu thị điện máy cần đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao tài sản thương hiệu dựa
trên khách hàng và cần coi đó là một lợi thế cạnh tranh trong dài hạn của toàn hệ thống.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cá nhân tác giả đã nhận thấy những hạn chế của
nghiên cứu có thể ảnh hưởng đến những kết luận của nghiên cứu và cần thêm dữ liệu của minh
chứng.
Thứ nhất, đối với quy mô mẫu. Do nguồn lực có hạn, quy mô mẫu 300 người trên quy
mô người tiêu dùng tại thị trường thành phố Hà Nội là hạn chế. Sự hạn chế của mẫu nhỏ có thể
dẫn đến những kết quả sai lệch trong việc đánh giá dữ liệu và thể hiện tính đại diện của mẫu.
Thứ hai, đối với phương pháp phân tích và xử lý dữ liệu. Mặc dù phương pháp sử dụng
hệ số Cronbach’s Alpha (để đánh giá độ tin cậy) và phân tích nhân tố khám phá EFA (để đánh
giá giá trị phân biệt và giá trị hội tụ của thang đo) thường được sử dụng trong các nghiên cứu về
nhân tố ảnh hưởng, song, theo Nguyễn Đình Thọ (2011, tr. 406), để đánh giá giá trị phân biệt cần
kiểm định thêm hệ số tương quan giữa hai khái niệm bằng phương pháp MTMM (MultiTrait
MultiMethod). Trong luận án này chưa sử dụng phương pháp MTMM, chính vì vậy, ở góc độ
nghiên cứu những kết luận từ kết quả phân tích Cronbach’s Alpha và EFA mang tính tham khảo
nhiều hơn là kết luận tuyệt đối.
Thứ ba, đối với những đánh giá về thị trường bán lẻ và những đề xuất đối với doanh
nghiệp sở hữu chuỗi siêu thị điện máy. Do chưa thể tiếp cận đầy đủ với các thông tin nội bộ các
siêu thị điện máy trong việc tổ chức hoạt động, hoạch định chiến lược kinh doanh, ... nên những
đề xuất có tính tham khảo dựa trên các kết quả phân tích của người nghiên cứu. Bên cạnh đó, do
chưa thể tiếp cận và bố trí lịch phỏng vấn với đại diện bên Hiệp hội bán lẻ Việt Nam nên
những đề xuất đối với Hiệp hội bán lẻ Việt Nam được đưa ra dựa trên những hiểu biết của cá
nhân tác giả luận án.