Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Đồ án tốt nghiệp Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.5 KB, 53 trang )

Đồ án tốt nghiệp
Thực trạng của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Việt
Nam
.
MỤC LỤC
Chương I. Những cơ sở lý luận chung của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
2. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
3. Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
5. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
6. Pháp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Chương II. Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
I. Quá trình hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực công nghiệp
2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực thương mại dịch vụ
3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn
II. Tác động của các chính sách vĩ mô đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1. Tác động của chính sách thương mại
2. Tác động cảu chính sách tài chính tiền tệ
3. Tác động của chính sách đất đai
4. Tác động của chính sách công nghệ, giáo dục đào tạo
5. Tác động của chính sách hợp tác quốc tế về các doanh nghiệp vừa và nhỏ
III. Thực trạng và những tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
1. Vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
2. Tình hình thiết bị công nghệ
3. Trình độ nhân lực, lao động và quản lý
4. Tình hình và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ về sản phẩm, thị
trường
CHƯƠNG I


NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ
1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng khái niệm doanh
nghiệp vừa và nhỏ và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ được du nhập từ bên
ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ là trung tâm của
nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu vực này trong nhiều năm qua. Định nghĩa
về doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rừ ràng phải dựa trước tiên vào
quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí về số nhân công, vốn đăng kí, doanh
thu..., các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng chương trỡnh phỏt triển khỏc
nhau.
Ở Việt Nam đó giải quyết vấn đề định nghĩa này một phần nào. Công văn số
681 /CP-KTN ban hành ngày 20-6-1998 theo đó doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp
có số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương
378.000 USD - theo tỷ giá giữa VND và USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí
này đặt ra nhằm xây dựng một bức tranh chung về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam phục vụ cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho phép
phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ. Vỡ vậy, tiếp theo đó Nghị định số
90/2001/NĐ-CP đưa ra chính thức định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau: “Doanh
nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đó đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung
bỡnh hàng năm không quá 300 người”. Các doanh nghiệp cực nhỏ được quy định là có
từ 1 đến 9 nhân công, doanh nghiệp có từ 10 đến 49 nhân công được coi là doanh nghiệp
nhỏ.
2.Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trên thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu và quy định khác
nhau tuỳ theo từng nơi. Các tiêu chí để phân loại doanh nghiệp có hai nhóm: tiêu chí định
tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của
doanh nghiệp như chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản
lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường

khó xác định trên thực tế. Do đó chúng thường được dùng làm cơ sở để tham khảo trong,
kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng có
thể dựa vào các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận.
Trong đó:
Số lao động: có thể lao động trung bỡnh trong danh sỏch, lao động thường xuyên,
lao động thực tế;
Tài sản hay vốn: có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (vốn) cố định, giá trị
tài sản cũn lại;
Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm (hiện nay có xu
hướng sử dụng chỉ số này).
Trong các nước APEC tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lao động. Cũn
một số tiờu chớ khỏc thỡ tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước.
Tuy nhiên sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường chỉ mang tính tương
đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
Trỡnh độ phát triển kinh tế của một nước: trỡnh độ phỏt triển càng cao thỡ trị số
cỏc tiờu chớ càng tăng lên. Ví dụ như một doanh nghiệp có 400 lao động ở Việt Nam
không được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng lại được tính là SME ở CHLB Đức. Ở
một số nước có trỡnh độ phát triển kinh tế thấp thỡ cỏc chỉ số về lao động, vốn để phân
loại doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước phát triển.
Tớnh chất ngành nghề: do đặc điểm của từng ngành, có ngành sử dụng nhiều lao
động như dệt, may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều vốn như hoá chất, điện... Do
đó cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại các SME giữa
các ngành với nhau. Trong thực tế, ở nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến
ba nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Ngoài ra có thể dùng khỏi niệm hệ số
ngành (I
b
) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau.
Vựng lónh thổ: do trỡnh độ phát triển khác nhau nên số lượng và quy mô doanh
nghiệp cũng khác nhau. Do đó cần tính đến cả hệ số vùng (I
a

) để đảm bảo tính tương thích
trong việc so sỏnh quy mụ doanh nghiệp giữa cỏc vựng khỏc nhau.
Bảng : Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước
TÊN NƯỚC TIấU CHÍ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
ÚC
- Sản xuất : dưới 100 LĐ
- Phi sản xuất: dưới 20 LĐ
MỸ
- Doanh nghiệp nhỏ: dưới 100 LĐ
- Doanh nghiệp vừa: 101-499 LĐ
NHẬT
- Sản xuất:dưới 300 LĐ hoặc dưới 100 triệu Yên
- Bán lẻ, dịch vụ: dưới 50 LĐ hoặc dưới 10 triệu Yên
CHLB ĐỨC - Dưới 500 LĐ
ĐÀI LOAN
- Công nghiệp, xây dựng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 300 LĐ
- Khai khoáng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 500 LĐ
- Thương mại, vận tải và dịch vụ khác: dưới 40 triệu NT$ doanh thu,
dưới 50 LĐ
(Nguồn : tổng hợp từ dữ liệu sưu tầm được qua các trang web trên mạng)
Tớnh lịch sử: một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng với quy mô như
vậy, hiện tại hoặc tương lai có thể được coi là vừa hoặc nhỏ. Như vậy trong việc xác định
quy mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp trung bỡnh (I-
d
) trong từng giai đoạn. Hệ số này chỉ được sử dụng khi xác định quy mô doanh nghiệp cho
các thời kỡ khỏc nhau.
Mục đích phân loại: khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau tuỳ theo mục
đích công việc phân loại.
Như vậy có thể xác định được quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc một ngành hoặc
một địa bàn cụ thể theo công thức sau:

F(S
ba
) = I
b
* I
a
*S
a
/ I
d
Trong đó:
F(S
ba
): quy mụ một doanh nghiệp thuộc một ngành và trờn một lónh thổ cụ thể.
I
b
,I
a
,I
d
: tương ứng là hệ số vùng, ngành, hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp;
S
a
: quy mô vừa và nhỏ chung trong một nước.
Cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ cú vai trũ quan trọng trong nền kinh tế một quốc gia,
khu vực và toàn cầu. Cỏc ưu thế và nhược điểm của loại hỡnh doanh nghiệp này sẽ được
trỡnh bày dưới đây nhằm đem lại một cái nhỡn sõu vào bản chất của loại hỡnh này, cho
phộp ta định ra hướng đi rừ ràng trong việc xác định hướng phát triển cho loại hỡnh này.
3.Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ cú những lợi thế rừ ràng, đó là khả năng thoả món nhu

cầu cú hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động
với trỡnh độ lao động kỹ thuật trung bỡnh thấp, đặc biệt là rất linh hoạt, có khả năng
nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp vừa và
nhỏ có thể bước vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của cỏc doanh nghiệp lớn
(do quy mô doanh nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất, những khoảng
trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn không đáp ứng vỡ mối quan tõm
của họ đặt ở các thị trường có khối lượng lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hỡnh sản
xuất cú địa điểm sản xuất phân tán, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ nên nó có nhiều điểm
mạnh:
- Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén với thay đổi
của thị trường.
Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng khụng lớn, các điều kiện sản
xuất đơn giản là đó cú thể bắt đầu hoạt động. Vũng quay sản phẩm nhanh nờn cú thể sử
dụng vốn tự cú, hoặc vay bạn bố, người thân dễ dàng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ linh hoạt,
dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng thời, do tính chất linh hoạt cũng như quy mô nhỏ cảu nó,
doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng
chuyển đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén trong
lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống động trong phát triển
kinh tế.
- Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao.
Đó là bởi vỡ cỏc doanh nghiệp loại này cú mức vốn đầu tư nhỏ, sử dụng ít lao
động nên có khả năng mạo hiểm sẵn sàng mạo hiểm. Trong trường hợp thất bại thỡ cũng
khụng bị thiệt hại nặng nề như các doanh nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được. Bên cạnh
đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực mới này: do tính chất
nhỏ bé về quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất dây chuyền
hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộc kinh doanh mạo hiểm.
- Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu quả với chi
phí cố định thấp.
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản cố định cũng
ít, do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho phép. Đồng thời doanh

nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế vốn. Với chiến lược phát triển, đầu tư
đúng đắn,sử dụng hợp lý cỏc nguồn lực của mỡnh, cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đạt
được hiệu quả kinh tế - xó hội cao, cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất lượng
tốt và có sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp có nhiều hạn chế.
- Khụng cú hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người lao động.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ tất nhiên là không lớn lắm. Số lượng lao động
trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao động trong xí nghiệp chưa quá
mức rừ rệt. Mối quan hệ giữa người thuê lao động và người lao động khá gắn bó. Nếu xảy
ra xung đột, mâu thuẫn thỡ dễ dàn xếp.
4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cỏc hạn chế của loại hỡnh doanh nghiệp này đến từ hai nguồn. Các hạn chế khách
quan đến từ thực tế bên ngoài, và các hạn chế đến từ chính các lợi thế của doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
- Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của SMEs nằm trong chính đặc điểm của nó, đó là
quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm vào tỡnh trạng thiếu vốn trầm
trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, hay tiến hành đổi mới, nâng cấp trang thiết bị.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phụ thuộc vào doanh nghiệp mà nó cung
cấp sản phẩm.
- Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là các
công nghệ đũi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm
và tính cạnh tranh trên thị trường.
- Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, thiếu bí quyết và
trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sản phẩm, thiếu đầu tư cho nghiên
cứu và phát triển,... nói cách khác là không đủ năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu
về chất lượng, khó nâng cao được năng suất và hiệu quả kinh doanh.
- Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trườngcác doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trường.
- Do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập và mở rộng
quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương doanh nghiệp đó đang hoạt

động.
- Cũng do tớnh chất vừa và nhỏ của nú, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập chỗ
đứng vững chắc trong thị trường
5. Vai trũ của doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Tạo ra nhiều việc làm với chi phớ thấp
Các cơ sở doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với các phương pháp tiết kiệm
vốn và do đó chúng được công nhận là phương tiện giải quyết thất nghiệp hiệu quả nhất
Thứ nhất, do đặc tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh nghiệp loại này
thường phân tán nên chúng có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho nhiều vùng địa lý và nhiều
đối tượng lao động, đặc biệt là với các vùng sâu, vùng xa, vùng chưa phát triển kinh tế, với
các đối tượng lao động có trỡnh độ tay nghề thấp. Nhờ vậy chúng vừa giải quyết thất
nghiệp vừa góp phần giảm dũng người chuyển về thành phố tỡm việc làm.
Thứ hai, do tớnh linh hoạt, uyển chuyển dễ thớch ứng với các thay đổi của thị
trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong trường hợp có biến động xảy ra, các
doanh nghiệp lớn sẽ đối phó khá chậm chạp, không phải vỡ cấp quản lý bất tài mà bởi vỡ
doanh nghiệp lớn thỡ khú xoay trở nhanh. Họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động,
sau đó sẽ phải sa thải bớt lao động để cắt giảm chi phí đến mức có thể tồn tại và phát triển
được trong điều kiện cung lớn hơn cầu. Trong khi đó do khả năng linh hoạt, có thể thích
ứng nhanh với thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn có thể tồn tại
được mà không phải sử dụng đến biện pháp cắt giảm lao động.
Bảng : Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở một số nước Châu Á
TÊN NƯỚC
THU HÚT LAO ĐỘNG
(%)
GIÁ TRỊ GIA TĂNG
(%)
Singapore 35.2 26.6
Malaysia 47.8 36.4
Hàn Quốc 37.2 21.1

Nhật Bản 55.2 38.8
(Albert Bery: Các hoạt động kinh doanh vừa và nhỏ dưới tác động của tự do hoá
thương mại và tỷ giá: kinh nghiệm của Canada và Mỹ Latinh, 1996)
b. Cung cấp cho xó hội một khối lượng hàng hoá đáng kể về cả chất lượng, số
lượng và chủng loại
Các công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút một lượng lớn lao động và tài
nguyên của xó hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thêm sức cạnh tranh trực tiếp với các
công ty và tập đoàn lớn, hàng hoá của họ nói chung thiên về sự đa dạng về chất lượng và
chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng
tiến vào nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vỡ doanh thu từ đó quá nhỏ.
c. Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh
Một số những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn làm việc trong
các công ty lớn mà muốn mở công ty riêng để tiện đường vùng vẫy. Các doanh nghiệp có
quy mô vừa và nhỏ rất thích hợp đối với họ trong việc thử sức của mỡnh. Bờn cạnh đó các
công ty tư nhân lớn nói chung đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi lên. Tập đoàn Microsoft
của tỷ phú Bill Gates cũng do ông ta xây dựng dần lên. Ông ta vào lúc 20 tuổi vẫn cũn là
một người chưa có nhiều tài sản, bỏ học đại học để mở doanh nghiệp riêng của mỡnh.
Chưa đầy 30 năm sau đó trở thành người giàu nhất thế giới, là một điển hỡnh của người
làm giàu dựa vào năng lực của mỡnh.
Cỏc cụng ty nhỏ là cũn là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho các công ty lớn. Các
nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban đầu về quản lý rất cần thiết, được công ty lớn
đánh giá cao như là:
Điều hành kinh doanh Quan hệ với khỏch hàng
Kiểm soỏt và quản lý nhõn viờn Quy định xuất nhập khẩu
Quản lý thời gian Công nghệ thông tin hiện đại
Điều hành văn phũng Các quy định về thuế
Hậu cần Hệ thống cung cấp và phõn phối
Bỏn hàng và tiếp thị Luật lệ cụng ty
Xỳc tiến sản phẩm và dịch vụ Bỏn hàng
Định giá và lợi nhuận Quan hệ với quan chức chớnh phủ

Đây là các kỹ năng cần thiết cho công việc ở các công ty lớn và việc đào tạo chúng cho
người lao động cần thời gian. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ thực hiện “hộ” khâu này. Nhân
viên công ty nhỏ sau một thời gian có được kinh nghiệm rồi sẽ được các công ty lớn thu
nhận.
d. Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương
Nhỡn chung cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ được mở ra ở địa phương nào đều có công
nhân và chủ doanh nghiệp là người ở địa phương đó. Khi các doanh nghiệp loại đó được
mở ra thỡ người dân lao động ở địa phương có công ăn việc làm, có nguồn thu nhập. Kết
cục là quỹ tiền tiết kiệm-đầu tư của địa phương đó được bổ sung.
e. Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn
Các công ty lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của các đơn vị kinh
tế nhỏ hơn chúng vỡ một nguyờn nhõn đơn giản là quy mô của chúng quá lớn. Quy luật
của vật lý là khối lượng một vật càng lớn thỡ quỏn tớnh của nú càng lớn. Cũng vậy, cỏc
đơn vị kinh tế càng to lớn thỡ càng thiếu tớnh linh hoạt, thiếu khả năng phản ứng nhanh,
nói cách khác là sức ỡ càng lớn.Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao động và
tài nguyên vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp, không bắt kịp và
phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, một nền kinh tế có một tỷ lệ thích
hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ trở nên “nhanh nhẹn” hơn, phản ứng kịp thời hơn.
Tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ được nâng cao.
f. Cải thiện mối quan hệ giữa cỏc khu vực kinh tế khỏc nhau
g. Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế
Một nền kinh tế bao giờ cũng cú “vựng biờn giới”, “vùng sâu”, “vùng xa”. Đó là các
khu vực địa lý hoặc cỏc thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển, hoặc là xa tuyến giao
thông, thiếu tài nguyên... Các công ty lớn thường bỏ qua các khu vực đó vỡ cho rằng nguồn
lợi thu được từ đó không lớn bằng nguồn lợi thu được từ nơi khác với cùng một chi phí bỏ
ra, nói cách khác là chi phí cơ hội của vùng đó cao. Nếu một nền kinh tế chỉ có các doanh
nghiệp lớn thỡ điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển không đều giữa các vùng, không tận
dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động của nền kinh tế cũng như gây ra các thiệt
hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thỡ chi phớ cơ
hội của các vùng này là chấp nhận được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vỡ vậy họ sẵn

sàng hoạt động ở đây nếu có các chính sách ưu đói thớch hợp của chớnh quyền địa phương.
h. Giữ gỡn và phỏt huy cỏc ngành nghề truyền thống, thể hiện bản sắc dõn tộc
Trong quỏ trỡnh hiện đại hoá, công nghiệp hoá các ngành nghề truyền thống đang
đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt, giữa chế tạo sản phẩm thủ công với sản xuất dây
chuyền hàng loạt. Một ví dụ như: thợ đóng giày có thể đóng những đôi giày rất bền dùng
được hàng năm không hỏng . Nhưng trong thời hiện đại phải đối mặt với các xí nghiệp sản
xuất giày có sản phẩm không bền lắm, đổi mới theo mùa và giá rẻ hơn so với giày thủ
công. Một thợ thủ công hay vài người thỡ khụng thể đương đầu được với các doanh
nghiệp lớn đó. Muốn tồn tại được các thợ thủ công phải hợp nhau lại thành lập doanh
nghiệp, sau đó quảng cáo xa rộng để tỡm đến các khách hàng tiềm năng của các sản phẩm
thủ công. Trong xó hội luụn tồn tại nhu cầu đối với các sản phẩm truyền thống, vấn đề là
phải làm cho những khách hàng đó biết đến sản phẩm của mỡnh.
Loại hỡnh doanh nghiệp vừa và nhỏ cú thể núi là rất thích hợp cho sản xuất thủ
công. Các ngành nghề truyền thống có thể dựa vào đó để sản xuất, kinh doanh, quảng cáo.
Bên cạnh đó công nghệ tiên tiến cũng sẽ dần tiếp cận vào các ngành nghề này. Và đó cũng
là một điều cần phải xẩy ra trong thời đại công nghiệp.
Cụ thể hơn ta hóy hỡnh dung một cảnh như sau: một số thợ đóng giày hợp nhau lại
thành một doanh nghiệp. Trong thành phố địa phương của họ chỉ có một số nhỏ khách
hàng ưa thích loại giày đóng thủ công và sẵn sàng trả giá (dù là cao) để đi loại giầy này
cầu nhỏ. Doanh nghiệp đó đáp ứng được nhu cầu đó. Sau đó doanh nghiệp tiến hành
một chiến dịch quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên Internet. Sau
một thời gian các khách hàng có nhu cầu tương tự ở tại các thành phố khác trong cả nước
liên lạc đặt mua. Tiếp sau nữa là các khách hàng nước ngoài ưa thích kiểu dáng giày quảng
cáo trên Internet cũng liên lạc đặt mua. Bên cạnh đó các nghệ nhân cũng sử dụng thêm một
số công nghệ mới để hỗ trợ thêm cho việc chế tạo giày như là dùng máy tính để tạo hỡnh
sản phẩm trước,... Trong quá trỡnh phỏt triển đó họ tiếp cận và làm quen với các kỹ thuật
và công nghệ mới. Tuy khách hàng địa phương của họ không nhiều nhưng khách hàng trên
toàn cầu chiếm một lượng đủ để họ tồn tại được trước thách thức của những đôi giày hiện
đại giá rẻ rất mốt được sản xuất hàng loạt kia.
6. Phỏp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Bảng : Hệ thống các nhóm văn bản luật pháp trực tiếp liên quan
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tờn của luật và
chớnh sỏch
Luật bị thay thế Nội dung chớnh
Nghị định số 90/NĐ-
CP về chính sách trợ
giúp phát triển các
doanh nghiệp nhỏ và
vừa (2001)
Nghị định đưa ra một chính sách đặc biệt
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, là chính
sách hỗ trợ bổ sung cho phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
Luật Doanh nghiệp
(1999)
Luật Công ty và
Luật Doanh
nghiệp tư nhân
(21-12-1990),
Nghị định số
66/HĐBT ngày 2-
3-1992 cho các hộ
kinh doanh cá thể
Luật Doanh nghiệp 1999 và Nghị định số
02/2000 hướng dẫn việc thực thi Luật
Doanh nghiệp, đưa ra khuôn khổ pháp lý
hiện đại đầu tiên cho tất cả các doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh trong nước:
Luật quy định việc thành lập các công ty

qua việc đăng ký kinh doanh tự giỏc, hơn là
thông qua phê chuẩn và cấp phép của chính
phủ.
Luật Phỏ sản Doanh
nghiệp (1993)
Luật quy định cơ sở để đánh giá các doanh
nghiệp bị phá sản, các thủ tục yêu cầu và
tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Luật Thuế giá trị gia
tăng
Luật Thuế doanh
thu
Luật này xác định mức thuế giá trị gia tăng,
là mức thuế tính trên giá trị hàng hoá và
dịch vụ trong quỏ trỡnh sản xuất, lưu thông
và tiêu dùng.
Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp (1999)
Luật Thuế lợi tức Các đối tượng chịu thuế thu nhập của doanh
nghiệp được quy định bởi luật này là thu
nhập của tổ chức và cá nhân có hoạt động
sản xuất và kinh doanh. Tỷ lệ thuế thu nhập
của doanh nghiệp theo quy định của Luật là
32 % ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt.
Bộ luật Lao động
(1999), Nghị định
77/2000/NĐ-CP có
hiệu lực từ ngày 1-1-
2001
Bộ luật Lao động điều chỉnh các mối quan

hệ lao động tại doanh nghiệp. Mức lương
tối thiểu trong các doanh nghiệp ở Việt
Nam là 210 000 VNĐ
Luật khuyến khích đầu
tư trong nước (1994)
Xác định những ưu đói đầu tư trong nước
vào các vùng có khó khăn về kinh tế-xó hội
và cỏc hoạt động kinh tế chiến lược, bao
gồm về đầu tư tạo nhiều việc làm mới.
Luật Thương mại
(1997)
Văn bản luật pháp quy định hoạt động
thương mại tại Việt Nam
Sắc lệnh về hợp tác
chuyển giao công nghệ
(1998). Nghị định
45/1998/NĐ-CP
Khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho hoạt động
chuyển giao công nghệ, quy định những chi
tiết của việc chuyển giao công nghệ.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DNVVN TẠI VIỆT NAM
Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt nam diễn ra từ khá lâu, trải
qua nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, môi trường khác nhau mà nhìn chung
là chịu sự ảnh hưởng của hai nhóm nhân tố chính là cuộc trường kỳ kháng chiến kéo dài
gần một thế kỷ và những quan điểm chính trị thời kỳ hậu chiến tranh.
Giai đoạn trước năm 1945, khi mà Việt nam còn nằm trong ách thống trị của thực
dân Pháp thì cũng đã tồn tại một số lượng đáng kể các doanh nghiệp mà lúc đó là các cơ

sở, các xưởng sản xuất nhỏ chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp, các nghề thủ
công truyền thống. Các mặt hàng giai đoạn nay phần lớn vẫn ở dạng nguyên sơ nhưng
cũng đáp ứng được nhu cầu củ nhân dân trong hoàn cảnh rất đặc biệt của thời kỳ đô hộ,
thậm chí nhiều hàng còn được gửi đi triển lãm ở một số nước phương Tây thời bấy giờ.
Trong giai đoạn từ cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công và cả nước bước vào
giai đoạn kháng chiến chống pháp. Các DNVVN lúc này tồn tại cả ở vùng ta và vùng địch,
đáng chú ý là các DNVVN ở vùng căn cứ đã đóng góp vai trò đáng kể, vừa phục vụ nhu
cầu thời chiến của nhân dân, vừa đáp ứng nhu cầu hậu cần cho kháng chiến lâu dài.
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy, cả miền bắc bắt tay vào xây dựng lại đất
nước trên con đường xây dựng CNXH. Các DNVVN ra đời rất nhanh và nhiều trong giai
đoạn này, lúc này chịu sự chi phối của đường lối chính trị hình thức hợp tác xã, tổ hợp tác
kinh doanh được khuyến khích phát triển, còn các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân
thì bị loại trừ, trong khi đó loại hình DNVVN tư nhân ở miền Nam lúc đó lại rất phát triển.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 và đến trước đại hội VIII. Điểm đáng lưu ý
trong các DNVVN ở giai đoạn này là ở Miền nam, kinh tế tư nhân là hình thức bị kỳ thị
và các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân buộc phải quốc hữu hoá, DNVVN của tư
nhân bị cải tạo, xoá bỏ, không khuyến khích phát triển. Nếu muốn tồn tại thì phải tồn tại
dưới dạng khác như dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, công tư hợp danh.
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một bước ngoặt, Đại
hội VI đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận
sự tồn tại lâu dài của các hình thức sử hữu khác nhau, thay đổi quan điểm với kinh tế tư
nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi trọng. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng
loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch vụ,
thương mại ra đời và phát triển.
Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp
quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, hợp
tác xã, doanh nghiệp Nhà nước. Đáng chú ý là Nghị quyết 16 của Bộ chính trị Đảng cộng
sản Việt Nam (1988); Nghị định 27, 28, 29 /HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp
tác và hộ gia đình; Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, Công
văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/98 về định hướng chiến lược và chính sách phát triển

DNVVN và một loạt các Luật như: Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân mà nay hai
Luật này đã được gộp lại thành Luật doanh nghiệp (1999), Luật hợp tác xã, Luật doanh
nghiệp Nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994), Luật đầu tư nước
ngoài(1989) đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.
Trong thời gian qua, nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và nhiều địa phương
nghiên cứu về DNVVN như: Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI), Viện nghiên cứu quản lý kinh
tế trung ương(CIEM), Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI), Hội đồng liên
minh các hợp tác xã Việt Nam(VCA), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh; nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế bàn về chính sách hỗ
trợ DNVVN đã được tổ chức, và cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế, các dự án hỗ trợ về tài
chính và khoa học cho DNVVN, trong đó có Viện Friedrich Ebert (FES) của CHLB Đức,
Ngân hàng hợp tác và phát triển Nhật bản (JBIC), Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ),
Dự án hỗ trợ của phòng hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA), Chương trình phát triển dự án
Mekong về DNVVN (MPDF). Bên cạnh đó, Cũng có rất nhiều trung tâm ra đời với mục
đích hỗ trợ các DNVVN, đó là Trung tâm xúc tiến DNVVN thuộc Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt nam (SME PC/VCCI) ở số 9 Đào Duy Anh, Trung tâm hỗ trợ DNVVN
thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng (SMEDEC) ở số 8 Hoàng Quốc Việt,
Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ DNVVN (BPSC) ở số 7 Nguyễn Thái Học, Câu lạc bộ
DNVVN Hà nội( HASMEC) ở số 418 Bạch Mai…
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, DNVVN vẫn gặp không ít những
khó khăn, vướng mắc, và nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế của đất nước,
chính phủ đã có Nghị định 90/2001/CP-ND ngày 23/11/2001 về chính sách trợ giúp,
phát triển DNVVN trong đó quy định rõ khái niệm, tiêu chí xác định DNVVN ở Việt Nam,
khẳng định tầm quan trọng của DNVVN trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất
nước và các biện pháp, các chính sách hỗ trợ DNVVN phát triển. Chính phủ còn giao cho
MPI đứng lên làm đầu mối phối hợp các Bộ, các ngành và địa phương tiếp tục nghiên cứu
hoàn chỉnh dự thảo “Chiến lược và chính sách phát triển DNVVN”, đề xuất giải pháp thực
hiện để chính phủ xem xét và phê duyệt .
Nghị định cũng quy định việc thành lập “Cục Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ”
trực thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư, để giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư thực hiện chức

năng quản lý Nhà nước về xúc tiến phát triển DNVVN; thành lập “Hội đồng khuyến khích
phát triển DNVVN” làm nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách
khuyến khích phát triển DNVVN; thành lập “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNVVN” thuộc
các cơ quan, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhằm thực hiện các
chương trình trợ giúp một cách thiết thực và có hiệu quả; khuyến khích, tạo điều kiện để
các DNVVN tham gia các hiệp hội doanh nghiệp đã có và thành lập các hiệp hội, câu lạc
bộ doanh nghiệp, nhằm triển khai các hoạt động kể cả thu hút các nguồn lực từ nước ngoài
để trợ giúp một cách thiết thực, trực tiếp cho DNVVN , các dịch vụ về thông tin, tiếp thị
mở rộng thị trường, đào tạo, công nghệ... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
DNVVN.
Trong thời kỳ từ đổi mới đến hiện nay, số lượng doanh nghiệp của các thành phần
kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lượng DNVVN trong khu vực Nhà nước
giảm liên tục, thì số lượng DNVVN trong khu vực tư nhân trong công nghiệp (doanh
nghiệp và công ty) tăng nhanh, số lượng lao động trên tổng số, đóng góp cho GDP và tỷ
trọng trong tổng đầu tư xã hội cũng tăng nhanh (Xem bảng 5). Quan niệm về kinh tế tư
nhân cũng có nhiều đổi mới, không còn cái nhìn kỳ thị như trong giai đoạn bao cấp, với tư
tưởng giáo điều và tả khuynh, coi kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế tiêu cực, là tàn
dư của chế độ cũ, là bóc lột, ăn bám…, Đến nay, kinh tế tư nhân thực sự đã được coi là
“một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt nam”.
Các DNVVN ở Việt nam, mà đại diện tiêu biểu là khu vực kinh tế tư nhân và hộ cá
thể, đã trải qua 2 bước ngoặt tính từ giai đoạn đổi mới. Bước ngoặt thứ nhất có thể xem
như cởi trói cho doanh nghiệp là vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 khi nhà nước ban
hành Luật Đầu tư nước ngoài(1989), Luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994), Luật
doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty(1990), tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của nhiều loại
hình doanh nghiệp. Theo VCCI thì trong giai đoạn 1991-1999, mỗi năm nền kinh tế Việt
nam tăng thêm 3.388 doanh nghiệp.
Có thể xem xét tình hình tổng hợp của khu vực kinh tế tư nhân (đại diện cho các
DNVVN) qua một số các chỉ tiêu chính như số lượng các doanh nghiệp tư nhân, số lượng
và tỷ lệ lao động so với xã hội, mức đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội (GPP), đầu tư
phát triển mức độ đóng góp vào đầu tư phát triển cả nước trong vài năm gần đây theo

bảng dưới đây. Trong khi mà chưa có một nguồn nào cung cấp số liệu thống kê chính thức
riêng cho khu vực DNVVN thì các số liệu thống kê về khu vực kinh tế tư nhân có thể xem
như đại diện cho các DNVVN, vì như nói từ phần đặc điểm các DNVVN tại Việt nam, khi
nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực
ngoài quốc doanh.
Bảng : Số liệu kinh tế về khu vực kinh tế tư nhân
(Đại diện cho các DNVVN).
Số liệu về khu vực kinh tế tư nhân
évt 1996 1997 1998 1999 2000
1. Số lượng đơn vị
1.1.Doanh nghiệp của tư
nhân
DN 20.272 21.032 20.578 22.767 29.519
- Cụng nghiệp DN 5.832 6.073 5.927 6.049 6.979
- Thương nghiệp dịch vụ DN 12.695 13.010 12.494 14.234 17.506
- Cỏc ngành khỏc DN 1.745 1.949 2.157 2.484 5.034
1.2. Hộ cỏ thể hộ 2.016.259 1.949.836 1.981.306 2.054.178 2.137.713
- Cụng nghiệp hộ 616.855 608.250 583.352 608.314 645.801
- Thương nghiệp dịch vụ hộ 1.102.619 1.022.385 1.058.542 1.088.606 1.109.293
- Cỏc ngành khỏc hộ 296.785 319.201 339.412 357.258 382.619
2. Lao động
- Tổng số người 3.865.163 3.666.825 3.816.942 4.097.455 4.643.844
- Tỷ lệ so với tổng lao động
xó hội
% 11,2 10,3 10,3 10,9 12
2.1.Doanh nghiệp của tư
nhân
DN 354.328 395.705 435.907 539.533 841.787
- Cụng nghiệp DN 233.078 252.657 273.819 322.496 498.847
- Thương nghiệp dịch vụ DN 60.936 63.050 62.470 96.720 151.433

- Cỏc ngành khỏc DN 60.314 79.998 99.618 120.317 191.507
2.2 Hộ cỏ thể DN 3.510.835 3.271.120 3.381.035 3.557.922 3.802.057
- Cụng nghiệp DN 1.524.708 1.403.205 1.350.152 1.464.013 1.622.381
- Thương nghiệp dịch vụ DN 1.531.638 1.388.701 1.455.351 1.501.636 1.584.391
- Cỏc ngành khỏc DN 454.489 479.214 575.532 592.273 595.285
3. Tổng sản phẩm trong
nước (GDP)
- Tổng số toàn quốc
tỉ
đồng
272.036 313.623 361.017 399.943 444.140
Trong đó doanh nghiệp của
tư nhân và cá thể
tỉ
đồng
77.481 87.475 98.625 106.029 119.337
Tỷ lệ trong tổng GDP toàn
quốc
% 28,48 27,89 27,32 26,51 26,87
3.1 Doanh nghiệp
tỉ
đồng
19.602 21.920 25.304 27.975 31.733
- Cụng nghiệp
tỉ
đồng
4.609 5.278 6.367 7.179 8.626
- Thương nghiệp dịch vụ
tỉ
đồng

7.565 8.564 10.238 11.203 12.397
- Cỏc ngành khỏc
tỉ
đồng
7.428 8.078 8.699 9.593 10.710
- Tỷ lệ trong tổng GDP % 7,21 6,44 7,01 6,99 7,14
3.2 Cỏ thể
tỉ
đồng
57.879 65.555 73.321 78.054 87.604
- Cụng nghiệp
tỉ
đồng
9.261 10.658 11.804 12.662 15.491
- Thương nghiệp dịch vụ
tỉ
đồng
17.381 19.728 22.878 24.865 27.393
- Cỏc ngành khỏc
tỉ
đồng
31.237 35.169 38.639 40.527 44.720
- Tỷ lệ trong tổng GDP % 21,28 20,90 20,31 19,52 19,72
4. Vốn đầu tư phát triển
- Tổng số toàn xó hội
tỉ
đồng
131.171 147.633
Trong đó: Doanh nghiệp của
tư nhân và cá thể

tỉ
đồng
31.542 35.894
Tỷ lệ trọng tổng số toàn xó % 24,05 24,31
hội
4.1 Doanh nghiệp của tư
nhân
tỉ
đồng
5.628 6.627
% Trong tổng số toàn xó hội % 4.29 4.49
4.2. Cỏ thể
tỉ
đồng
25.914 29.267
Tỷ lệ trong tổng số toàn xó
hội
% 19,76 19,82
Nguồn: Tổng cục Thống kờ
Bước ngoặt thứ hai bắt đầu kể từ khi Luật doanh nghiệp được ban hành
vào1/1/2000. Trong vòng một năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực có 14.417
doanh nghiệp mới được thành lập với tổng vốn đăng ký đến hơn 24.000 tỷ (tương đương
với 1,65 tỷ USD, trong đó 17.000 là vốn đăng ký mới và 7000 là vốn đăng ký bổ sung của
các doanh nghiệp đang hoạt động, tức là tăng hơn ba lần nếu xét về số lượng doanh nghiệp
và hộ kinh doanh, và tăng hơn năm lần nếu xét về số vốn so với năm 1999. Năm 2001, có
thêm hơn 21.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp, tăng 1,46 lần
so với năm 2000, tổng số vốn huy động được của các doanh nghiệp đạt khoảng 35.000,
tăng gấp 1,78 lần so với cùng kỳ năm 2000. Có thể thấy tình hình năm 2001 như sau:
Bảng : Tổng hợp số doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân dến
năm 2001

Loại DN 31/12/98 31/12/99
Đên 31/12/2000 Đến 30/9/2001
Tổng số
đăng ký
Đang
hoạt
động
Báo nghỉ
KD
Tổng số
đăng ký
Đang
hoạt
động
Báo nghỉ
KD
Cty TNHH
9.375 13.850 21.031 20.255 776 29.160 28.356 804
Cty cổ phần
582 933 1.718 1.668 50 2.986 2.928 58
DNTN
18.751 22.794 28.719 27.277 1.442 33.925 32.459 1.466
Tổng số
28.708 37.577 51.468 49.200 2.268 66.071 63.743 2.328
Nguồn: Bộ Tài chính
Về cơ cấu của các DNVVN hiện nay, xuất phát từ điều kiện lịch sử kinh tế xã hội,
DNVVN ở Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế, trong đó phần lớn tập trung trong
ba lĩnh vực chính: các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp, các DNVVN trong thương
mại dịch vụ và các DNVVN hoạt động ở khu vực nông thôn. Sau đây sẽ nghiên cứu cụ thể
các doanh nghiệp trong từng lĩnh vực kể trên.

1. DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp
Từ sau năm 1986, do các chính sách khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh trong
lĩnh vực công nghiệp ra đời, các DNVVN lúc này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau
như công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, kinh tế hộ gia đình, kinh tế
quốc doanh. Số lượng DNVVN cũng tăng dần.
Về cơ cấu phân bố theo vùng: Các DNVVN chủ yếu tập trung ỏ Miền Nam Việt
nam (81%), Số DNVVN tập trung ở miền Bắc chỉ chiếm 12,6% tổng số các DNVVN trong
công nghiệp.
Về ngành nghề kinh doanh: Các DNVVN trong công nghiệp tồn tại ở 4 nhóm
ngành chính sau là
+ Nhóm ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống: ngành này trong thời gian qua đã
có những thay đổi mạnh mẽ, các giá trị công nghiệp và văn hóa đã hình thành, những mặt
hàng của ngành này đã trở thành một trong các mặt hàng có thế mạnh của Việt nam. Tuy
nhiên do góc độ truyền thống và văn hóa, sự hội nhập của nhóm ngành này hạn chế bởi
tính chất manh mún, quy mô nhỏ, khác biệt văn hóa, cho nên thị trường xuất khẩu rất khó
khăn đòi hỏi phải tìm được những phân đoạn thị trường ngách.
+ Nhóm ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô: như khoáng sản, hải sản, lâm
sản. Trong những năm qua, sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung, DNVVN nói
riêng vẫn dựa rất lớn vào nhóm ngành này-đây là thực trạng cần được đánh giá và điều
chỉnh để hình thành chiến lược cơ cấu ngành bảo đảm hiệu quả cao của quá trình hội nhập.
Việc tham gia hội nhập bằng tài nguyên khai thác một mặt đạt hiệu quả kinh tế - xã hội
thấp, mặt khác còn làm cho nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên không tái tạo bị suy kiệt,
ảnh hởng nghiêm trọng cân bằng sinh thái.
+ Nhóm ngành chế biến, lắp ráp: mặc dù mang lại ý nghĩa xã hội trong việc tạo ra
nhiều chỗ làm việc song giá trị thụ hưởng chủ yếu mới chỉ dừng lại ở giá trị gia công (phải
mua nhiều yếu tố đầu vào từ bên ngoài). Từ đó, tác dụng tích lũy, thúc đẩy nền kinh tế hạn
chế. Đặc biệt sẽ chịu nhiều rủi ro của các biến động tiền tệ của khu vực và quốc tế.
+ Nhóm ngành chế tạo sản phẩm kỹ thuật cao: (máy móc, điện tử, hóa chất, thiết
bị đo lường, động cơ...) có thể coi là mới bắt đầu. Hiện tại nhóm ngành này còn phụ thuộc
nhiều vào đầu tư tài chính, công nghệ kỹ thuật và trình độ quản lý của nước ngoài.

DNVVN thuộc lĩnh vực công nghiệp Việt Nam còn thể hiện sự đuối sức ở nhóm ngành
này, bởi không chỉ lý do tài chính mà còn vì sự tụt hậu của năng lực nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng. Đây chính là nhóm ngành mà trong chiến lược lâu dài của quá trình
hội nhập cần được đặc biệt quan tâm. Chúng cần được phân công và hợp tác một cách
khoa học và hiệu quả để tham gia nhiều nhất nguồn lực vào quá trình cạnh tranh khu vực
và quốc tế
Về lao động: Có quy mô khá nhỏ, phần lớn các DNVVN có số công nhân< 100
người( chiếm hơn 90%). Theo con số của tổng cục thống kê thì trong lĩnh vực sản xuất cơ
bản các DNVVN chiếm 36% tổng số lao động. Trong lĩnh vực xây dựng là 51%.
Về công nghệ: cũng không khác so với tình hình chung của các doanh nghiệp Việt
nam, nói chung là lạc hậu, lỗi thời, tỷ lệ đổi mới công nghệ thấp.
Trình độ công nghệ lạc hậu, yếu kém thể hiện ở năng lực vận hành, tiếp thu công nghệ, đổi
mới công nghệ thấp. Khả năng nghiên cứu triển khai tạo sản phẩm mới cũng không tốt.
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: Toàn bộ các DNVVN ( cả Nhà nước cũng như
ngoài quốc doanh và kể các các doanh nghiệp có vốn đầu tư nướ ngoài) tạo ra khoảng 31%
giá trị tổng sản lượng công nghiệp hàng năm. Trong đó, bộ phận bộ phận DNVVN ngoài
quốc doanh tạo ra 25% giá trị sản lượng công nghiệp.
Bảng : Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1998
Doanh nghiệp trong công
nghiệp
Tổng số
(Tỷ đồng)
Ước tính phần của DNVVN trong
từng loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước
trong công nghiệp
69.588,4 20% 12.917,7
Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
33.148,2 60% 19.888,9

Doanh nghiệp có vốn nước
ngoài
47.948,0 5% 2.397,4
Tổng 150.684,6 31% 46.712,04
Nguồn: Giải pháp phát triển các DNVVN tại Việt nam-GS-TS Nguyễn Đình Hương
chủ biên-NXB chính trị quốc gia.
Trong 8 tháng đầu năm nay(năm 2002), tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp
của khu vực ngoài quốc doanh đạt 19,2% so cùng kỳ năm trước (tốc độ tăng trởng công
nghiệp chung đạt 14,5%) so với mức chung14%, khu vực nhà nước là 11,7%, khu vực
nước ngoài tăng 13,1%. Có thể thấy tình hình đóng góp của các DNVVN qua tình hình
đóng góp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 8 tháng đầu năm 2002 như sau:
Bảng : Đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vào mức tăng sản lượng công
nghiệp 8 tháng đầu năm 2002
Thực hiện (Tỷ đồng)
Thỏng
8/2002 so
với thỏng
8/2001
8 tháng đầu
năm 2002
so với cùng
kỳ 2001
(%)
7 tháng đầu
năm 2002
ước tính
tháng 8/2002
Cộng dồn 8
tháng đầu
năm 2002

Tổng số 149219 23636 172855 114.2 114.0
Phõn theo khu vực và thành phần kinh tế
Khu vực doanh nghiệp
Nhà nước
59798 9379 69177 111.1 111.7
Trung ương
Địa Phương
39634
20164
6212
3617
45846
23331
111.7
109.7
112.6
110.2
Khu vực ngoài quốc
doanh
35846 5792 41638 119.6 119.2
Khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài
53575 8465 62040 114.2 113.1
Dầu mỏ và khí đốt 15402 2100 17502 87.7 96.1
Cỏc ngành khỏc 38173 6365 44538 126.8 121.6
Nguồn
Về thị trường: Một thị trường nội địa đông dân với sức tiêu thụ lớn là cơ hội rất
tốt cho các DNVVN ở Việt nam. Tuy vậy, với tình hình nhập lậu tràn lan như hiện nay thì
cơ hội cạnh tranh là rất khó cho các DNVVN nói chung và các DNVVN trong công nghiệp
nói riêng. Cạnh tranh xét cả theo nghĩa cạnh tranh đối với hàng nhập lậu với giá rẻ, và

cạnh tranh với cả doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.Thêm vào đó là khả năng tiếp cận thị
trường chưa cao, chất lượng sản phẩm hạn chế .
Chính phủ cũng không ngừng có những bước tiến tích cực trong việc tiếp thu
những kinh nghiệm quý báu từ bên ngoài nói chung và từ các quốc gia đang phát triển nói
riêng. Hoạt động hợp tác cùng phát triển, chia sẻ kinh nghiệm giữa Việt nam và các nước
không ngừng được tăng cường và củng cố. Việt nam hiện đã có nhiều quan hệ với các
nước về phát triển lĩnh vực DNVVN, đáng kể trong số đó là Italia, Đức, Nhật…Ngày
22/5/2000, tại Hà nội đã diễn ra “Hội thảo DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp - kinh
nghiệm của Italia và Việt nam” do Bộ Công nghiệp, Văn phòng đại diện của UNIDO và
Đại sứ quán Italia tổ chức, qua đó phía Italia cũng chia sẽ với Việt nam những kinh
nghiệm quý báu của mình trong việc phát triển DNVVN. Ngày 6/12/2000 cũng tại Hà Nội,
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam phối hợp với Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức
(ZDH) của Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức hội thảo" Hợp tác giữa Chính phủ và
doanh nghiệp nhằm hỗ trợ phát triển DNVVN"
Bên cạnh đó có dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp
sản xuất đá ốp lát đã triển khai ngày 4/12/2000 do Trung tâm xúc tiến hợp tác quốc tế
(ICPC), Liên minh các hợp tác xã Việt nam, Liên minh Châu Âu và Liên đoàn thủ công
nghiệp và dịch vụ Italia (Confartigianato) cùng phối hợp thực hiện. Dự án có nguồn vốn
140.000 EURO trong đó phía EU tài trợ 80%, mục tiêu của dự án này là nhằm tạo ra một
liên hiệp xuất khẩu cho các DNVVN trong lĩnh vực đá ốp lát của Việt nam.Qua dự án này,
các DNVVN sẽ nắm bắt được những thông tin cần thiết về hoạt động xuất nhập khẩu, kỹ
năng sản xuất và cung cách làm ăn của các nước EU, mở ra hướng mới cho xuất khẩu của
Việt nam sang EU.
2. DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Ngành thương mại dịch vụ, với những lợi thế riêng của nó như vốn đầu tư ít, khả
năng thu hồi vốn nhanh, mức lợi nhuận hấp dẫn, thị trường đa dạng...đã và đang thu hút
được một số lượng không nhỏ các DNVVN.
Về vốn: Với đặc trưng là thị trường cung ứng vốn chủ yếu là thị trường tài chính
phi chính thức, các chủ doanh nghiệp sử dụng vốn tự có, hoặc vay mượn của ban bè, người
thân...nên các DNVVN gặp khó khăn rất nhiều trong vấn đề vốn. Các DNVVN trong dịch

vụ cũng nằm trong tình trạng chung của các DNVVN là khó có khả năng tiếp cận đến
nguồn vốn của ngân hàng.
Về lao động: Nếu như một trong những đặc điểm nổi bật của các DNVVN nói
chung là thu hút nhiều lao động thì các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ lại
không hoàn toàn như vậy. Xuất phát từ tính đặc thù của ngành thương mại dịch vụ là
ngành ít đòi hỏi lao động. Các DNVVN chưa thực sự góp phần quan trọng vào việc giải
quyết lực lượng lao động dư thừa nhiều ở nước ta hiện nay.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ tuy chưa phải là cao nhưng lại cao
hơn hiệu quả hoạt động của các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp. Theo thống kê của
Tổng cục thống kê năm 1998 thì trong khi bình quân một lao động trong các DNVVN
công nghiệp tạo ra doanh thu 14,6 triệu VND với mức lãi 0,4 triệu VND thì con số này tại
các DNVVN thương mại dịch vụ là 75,8 triệu và 1,3 triệu tiền lãi, tức là bằng 407% và
125% so với cách DNVVN công nghiệp. Hạn chế ỏ đây là mặc dù doanh thu rất cao nhưng
lãi thì không hơn bao nhiêu so với các DNVVN công nghiệp.
Về cơ cấu: Các DNVVN thương mại dịch vụ tập trung quá đông ở các thành phố,
đô thị và kinh doanh một số ngành như nhau. Một số các công ty đi sâu chuyên doanh mặt
hàng ngành hàng nhưng vẫn còn trùng lặp. Một số các công ty thực hiện chuyên doanh ổn
định, còn tuyệt đại đa số thì kinh doanh tổng hợp.
Về kinh doanh:Thiếu sự hợp tác kinh doanh giữa các DNVVN, quản lí chồng chéo
không có sự đồng nhất theo đầu mối ngành nghề nên hiệu quả kinh doanh thấp. Hoạt động
của các DNVVN không mang tính bổ sung, hợp tác mà mang tính cạnh tranh gay gắt do sự
tập trung quá đông các DNVVN tại cùng một địa điểm, cùng một lĩnh vực kinh doanh.
3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn.
Với đặc trưng là một nền kinh tế nông nghiệp đi lên thì hiển nhiên là trong chiến
lược phát triển DNVVN để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì vai trò của các
DNVVN ở khu vực nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng. Bộ mặt của các DNVVN đã thay
đổi phần nào qua dự án VIE/816 do UNDP tài trợ trong vòng 4 năm từ 11/1997 đến
2001.Hiện nay, các ngành nghề nông thôn thu hút hơn 5 triệu lao động nông nhàn và 11
triệu lao động phi nông nghiệp. Năm 2000, đã tạo ra hơn 4000 tỷ đồng giá trị sản lượng,

90% tiêu thụ nội địa và 10% xuất khẩu.
Các DNVVN ở khu vực nông thôn với đại diện phổ biến là các doanh nghiệp hộ
gia đình và các doanh nghiệp tư nhân
Về vốn: Vốn bình quân rất thấp cả về tương đối và tuyệt đối so với các DNVVN
nói chung.Theo báo cáo của Viện bảo hộ lao động và các vấn đề xã hội - NXB Khoa học
và Kỹ thuật , Hà nội , 1998 thì :Với doanh nghiệp hộ gia đình vốn bình quân là 921 USD,
với doanh nghiệp tư nhân thì là 2.153 USD, vốn thấp không chỉ hiểu là như cầu về vốn ở
các DNVVN khu vực nông thôn thấp mà còn hiểu ở sự thiếu hỗ trợ tín dụng.
Về thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Thị trường chủ yếu được phân làm hai loại là
thị trường địa phương và thị trường ở các thành phố lớn.
Một điểm sáng trong quá trình phát triển các DNVVN ở nông thôn, nhằm bắt tay
vào tìm tiếng nói chung cho các DNVVN khu vực này, ngày 16/8/2002 tại Hà nội, Đại hội
thành lập “ Hiệp hội các DNVVN khu vực nông thôn Việt nam” do VCCI tổ chức đã khai
mạc với sự tham gia của hơn 100 DNVVN khu vực nông thôn. “Hiệp hội các DNVVN khu
vực nông thôn” ra đời nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển ngành nghề nông
thôn, hỗ trợ bảo vệ lẫn nhau, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nghiên cứu khoa học, thông
tin kinh tế, thị trường, xúc tiến thương mại, đầu tư, thúc đẩy quan hệ hợp tác thương mại
trong nước và quốc tế, giữ gìn và phát triển các làng nghề truyền thống, đầu tư thiết bị hiện
đại, đổi mới công nghệ nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, góp phần xoá đói giảm
nghèo, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Hiệp hội cũng đã thông qua
nhiệm kỳ 2002-2007, tập trung vào một số lĩnh vực phổ biến như thông tin kinh tế, trao
đổi góp ý về các cơ chế, chính sách, đào tạo và tư vấn, tổ chức phát triển DNVVN ở các
địa phương, tạo nhịp cầu giao thương phát triển.
II. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH SÁCH VĨ MÔ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
CÁC DNVVN
Một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến sự tồn tại và phát triển của
các DNVVN là vấn đề cơ chế chính sách, môi trường hành lang pháp lý cho hoạt động của
các DNVVN. Dưới đây là những nét chính khái quát về ảnh hưởng của một số chính sách
vĩ mô đến hoạt động và phát triển của DNVVN Việt nam.
1. Tác động của chính sách thương mại

Trước hết, về vấn đề khởi sự tiến hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các
DNVVN cũng đã được “cởi trói” qua quy định mới về việc tiến hành đăng ký kinh doanh
thành lập doanh nghiệp được quy định tại Luật doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp được
Quốc hội thông qua ngày 20/6/1999, có hiệu lực từ 1/1/2000 đã luật hoá các quy định
thành lập doanh nghiệp theo hướng bãi bỏ cơ chế xin phép thành lập, chủ đầu tư chỉ đăng
ký kinh doanh với hồ sơ hết sức đơn giản, xoá bỏ mọi kiểm tra kiểm soát trước khi thành
lập, tạo điều kiện cho phép chủ đầu tư nhanh chóng tiếp cận thị trường, việc giám sát kiểm
tra của nhà nước chuyển sang giai đoạn sau đăng ký kinh doanh. Luật doanh nghiệp cũng
xoá bỏ vốn pháp định ở hầu hết các ngành nghề ( chỉ còn áp dụng đối với một số ngành
nghề như Ngân hàng, Bảo hiểm..) đã tạo điều kiện cho các DNVVN ra đời thuận lợi, giảm
tối thiểu các chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp.

×