Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 trường Tiểu học Trần Quốc Toản học tốt môn Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.4 KB, 18 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SÁNG KIẾN
Kính gửi: - Hội đồng sáng kiến cấp cơ sở huyện Phú Ninh.
Tên đề tài sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 trường Tiểu
học Trần Quốc Toản học tốt môn Tiếng Việt.
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Bộ môn Tiếng Việt lớp 1 rèn kĩ năng
( nghe, nói, đọc, viết)
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ tháng 9
năm 2019 đến 4 năm 2020.
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
4.1. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:
* Cơ sở thực tiễn:
Năm học 2019 – 2020 trường Tiểu học Trần Quốc Toản có 598 học sinh.
Khối lớp 1 có 5 lớp gồm 153 học sinh. Đa số học sinh đều là con của nông dân bố
mẹ các em phải đi làm nương rẫy nên ít quan tâm đến con em mình.Vì vậy, học
sinh ở đây, đặc biệt là học sinh lứa tuổi lớp 1, các em con rụt rè, nhút nhát, một số
em thiếu tự tin khi giao tiếp. Đa số các em chưa thuộc chữ cái và chưa biết cách
cầm bút đúng cách, bên cạnh đó cịn một số em khó nhớ nhưng mau quên.
Địa bàn Tam Lãnh là một xã nằm xa nhất huyện Phú Ninh có học sinh dân
tộc Kor sinh sống. Kinh tế cịn khó khăn. Một số phụ huynh thì suốt ngày bận bịu
với cơng việc ít quan tâm đến con cái xem sở thích ra sao? Khi đến lớp thường có
những em khơng mang theo sách vở, dụng cụ học tập. Về nhà, cũng không dành
thời gian để gần gũi, quan tâm đến các em. Nên khả năng giao tiếp Tiếng Việt của
các em cịn hạn chế hơn so với các bạn khác.
Tơi thấy việc tăng cường vốn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học nói chung và
học sinh lớp 1 ở trường Tiểu học Trần Quốc Toản là một việc làm cấp thiết cần
phải ưu tiên được chú trọng và tiến hành kịp thời để trang bị cho các em những kĩ
năng, những vốn ngôn ngữ Tiếng Việt cần thiết để các em giao tiếp với mọi người
xung quanh và vận dụng tốt vào học tập, từ đó các em sẽ năng động, sáng tạo hơn


và biết vươn lên, thích ứng với cuộc sống hiện tại đang từng ngày đổi mới.
a. Ưu điểm:
- Giáo viên nhiệt tình, thường xuyên quan tâm đến các em học sinh.

1


- Đa số sinh có đầy đủ sách giáo khoa và đồ dùng học tập,các em hầu hết
đều ngoan hiền, lễ phép, vâng lời cô giáo.
- Được sự chỉ đạo quan tâm thường xuyên của các ban ngành, đặc biệt của
Ban giám hiệu nhà trường kết hợp với sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng nghiệp, phụ
huynh và lãnh đạo địa phương.
- Học sinh đi học đúng độ tuổi và đã qua chương trình mầm non 5 tuổi, đã
được làm quen với môi trường học tập với cô giáo và bạn bè.
b. Nhược điểm:
- Gia đình các em đều làm nghề nơng, hồn cảnh gia đình cịn nhiều khó
khăn nên việc học tập của một số em chưa thật sự được quan tâm.
- Từ môi trường mà hoạt động chủ yếu là vui chơi, giờ đây các em phải
chuyển sang một mơi trường hồn tồn khác lạ với hoạt động học tập là chủ yếu.
Việc thay đổi thói quen sinh hoạt khiến các em không thể dễ dàng bắt nhịp.
- Ngay từ đầu năm, chuyển sang cấp một đặc biệt là lớp đầu cấp các em
chưa thuộc các chữ cái và chưa viết được mà lớp học lại đông nên rất khó khăn cho
giáo viên trong dạy học trong đó có mơn Tiếng Việt.
4.2 Nêu nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm
của giải pháp đã biết:
* Nội dung: Xuất phát từ thực tế của mơn Tiếng Việt và q trình giảng dạy
của mình tơi thấy cần tạo cho học sinh một khơng khí học tập sơi nổi, hứng thú
trong khi dạy học. Có như vậy học sinh mới u thích mơn học và nâng cao được
chất lượng dạy học. Được học Tiếng Việt thông qua các bài giảng điện tử như ti vi
hay máy chiếu bên cạnh đó tổ chức hoạt động dạy học qua hình thức trị chơi các

em sẽ thấy thoải mái hơn, hứng thú hơn, từ đó ghi nhớ tốt những kiến thức cơ bản.
Nội dung chương trình được xác định như sau:
1. Kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết
2. Kiến thức: Ngữ âm và chữ viêt, từ vựng, ngữ pháp, văn
3. Ngữ liệu:
a. Giai đoạn học chữ: Là những từ ngữ, câu ngắn, các thành ngữ, tục ngữ,
ca dao.... phù hợp với yêu cầu học chữ và rèn kĩ năng.
b. Giai đoạn sau chữ: Là những câu đoạn nói về thiên nhiên, gia đình,
trường học,...
* Dựa vào chương trình đã xây dựng một hệ thống cấu trúc chặt chẽ
( ở cả hai phần học vần và luyện tập tổng hợp)
Các bài của phần học vần có 3 dạng cơ bản:
Làm quen với âm và chữ
Dạy học âm, vần mới
Ôn tập âm, vần
Phần luyện tổng hợp:
Tập đọc, chính tả, kể chuyện, tập viết.
* Tính mới, sáng tạo:
Cải tiến hơn so với trước đây. Tổ chức nhiều kĩ thuật dạy học. Sáng tạo
nhiều hình thức mới trong việc cải tiến phương pháp dạy học lấy học sinh làm
trung tâm. Phát triển kĩ năng nói trong Tiếng Việt. Tổ chức nhiều sân chơi học tập.
Giúp học sinh được vui chơi, được ôn lại kiến thức và vận dụng các kĩ năng vào
2


thực tế cuộc sống. Tạo điều kiện cho người học phát huy tính tự chủ, sáng tạo,
mạnh dạn, sáng tạo, chủ động hơn trong cách làm việc và giải quyết vấn đề học
tập.
Cái mới nổi bật của chương trình mơn Tiếng Việt lớp 1 thể hiện qua hai
định hướng lớn:

a. Coi trọng đồng thời cả bốn kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết nhưng chú ý đến
kĩ năng đọc và viết.
b. Coi trọng đồng thời ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết nhưng chú ý hơn ngơn
ngữ viết.
Tính khả năng: Phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, phù hợp với
điều kiện thực hiện của đơn vị.
Trong quá trình nghiên cứu, để tìm ra biện pháp giúp học sinh học tốt
môn Tiếng Việt ở lớp 1, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
sau:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Để có cơ sở trong q trình
nghiên cứu, bản thân tôi đã đọc rất nhiều sách giáo khoa, sách tham khảo, tạp chí
giáo dục.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát, phương
pháp phỏng vấn, phương pháp phân tích, đánh giá, tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp toán học thống kê và một số phương pháp khác nữa trong
q trình nghiên cứu.
Trong 2 nhóm phương pháp trên được áp dụng trong môn Tiếng Việt với
các dạng bài sau:
* Dạy học sinh phát âm đúng, viết đúng
+ Ở sáu bài đầu cho học sinh nhận dạng âm, thanh và viết được chữ ghi âm,
dấu ghi thanh. Ở bài này giáo viên sử dụng phương pháp trực quan học sinh quan
sát tranh và nói âm, tiếng đi đôi với bức tranh.
* Dạy âm, vần mới
+ Học sinh đọc được âm vần và viết được chữ ghi âm,vần, đọc và viết được
tiếng và từ ứng dụng. Ở dạng bài này sử dụng phương pháp làm mẫu phối hợp với
răng, lưỡi, miệng để quan sát cách phát âm của giáo viên để nhận ra cách đọc và
đọc đúng. Bên cạnh đó cần phải có phương pháp thực hành luyện tập theo tổ
nhóm, cá nhân, lớp để các em ghi nhớ.
* Giúp học sinh hiểu nghĩa của từ
+ Cho học sinh quan sát hình ảnh, vật thật để giúp học sinh hiểu nghĩa của

từ.
+ Sử dụng ti vi trong quá trình giảng dạy sẽ có được nhiều hình ảnh trực
quan sinh động, có nhiều đoạn video các em cần xem hỗ trợ trực tiếp trong từng
bài dạy để các em có thể ghi nhớ bài sâu hơn và hiểu nghĩa của từ.
* Thực hành luyện viết
Việc thực hành luyện viết rất cần thiết với học sinh Tiểu học. Việc thực hành
luyện viết cần uốn nắn cách luyện viết, tư thế ngồi với nhiều hình thức luyện tập.
Tập viết có thể viết bảng con hoặc viết vào vở. Muốn học sinh sử dụng có
hiệu quả vở tập viết giáo viên cần hướng dẫn tỉ mĩ nội dung và yêu cầu về kĩ năng.
3


Viết ở từng bài ( mẫu chữ, các dấu chỉ khoảngcách giữa các chữ, dấu chỉ vị trí đặt
bút, thứ tự viết nét) giúp các em viết đủ,viết đúng số dịng quy định.
* Để học tốt mơn Tiếng Việt ngồi việc dùng các biện pháp luyện đọc đúng,
viết đúng, giúp học sinh giải nghĩa từ, thực hành luyện viết, giáo viên còn dùng
biện pháp thực hành kể chuyện.
Thường dùng trong phân mơn kể chuyện. Phương pháp kể chuyện góp phần
rèn luyện và phát triền các kĩ năng Tiếng Việt cho học sinh.Trước hết, phương
pháp kể chuyện phát triển kĩ năng nói cho học sinh. Giờ kể chuyện các em dùng
ngơn ngữ nói của mình để kể lại câu chuyện trước đám đông. Việc kể lại câu
chuyện trước đám đông rèn cho các em khả năng tự tin, mạnh dạn trong các hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Đồng thời, các kĩ năng: nghe, đọc, kĩ năng ghi chép
cũng được phát triển trong quá trình kể lại chuyện.
* Song song với việc sử dụng các biện pháp trên trong dạy Tiếng Việt để
tạo cho các em hứng thú, vui vẻ trong học tập giáo viên kết hợp các phương pháp
tổ chức trị chơi.
+ Sử dụng trị chơi ơ cửa bí mật”
+ Sử dụng trò chơi tiếp sức
+ Sử dụng trò chơi gọi tên các đồ vật con vật, .......

+ Sử dụng phương pháp đóng vai trong phân mơn Kể chuyện
* Tổ chức hoạt động nhóm:
Khi thực hành nhiệm vụ học tập cho các em hoạt động nhóm sẽ giúp giảm áp
lực cho các thành viên, các em chia sẻ ý kiến với nhau. Sau đó đại diện nhóm trình
bày trước lớp. Tạo cho các em mạnh dạn, tự tin trình bày trước đám đông.
* Tổ chức đôi bạn giúp nhau tiến bộ.
Ngồi giờ học, tơi tổ chức cho HS “Đơi bạn giúp nhau tiến bộ”
đối với HS của lớp. Cụ thể:
Những HS đọc viết đúng sẽ giúp nhứng HS đọc viết còn chưa
đúng.
+ HS viết chữ đẹp sẽ giúp bạn còn viết chưa đẹp hay những
em đọc tốt sẽ hỗ trợ các em đọc chưa tốt.
Để thực hiện có hiệu quả, giáo viên chủ động xếp HS ngồi gần
nhau gồm 1 em học tốt ngồi cạnh em học còn chậm. Để HS tự sửa
khi nói, khi viết cho nhau và cả khi trò chuyện cùng nhau hay lúc ra
chơi.
4.3 Nêu các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng giải
pháp:
Để áp dụng được sáng kiến một cách tốt nhất, bên cạnh đó
giúp bản thân tơi có thể hoàn thành và hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao cần có các điều kiện sau:
* Điều kiện:
4


a. Về phía nhà trường: Nhà trường phối kết hợp các tổ chức, đoàn thể để
“Tổ chức các hoạt động ngoại khóa.” Phối hợp với gia đình học sinh, Hội cha mẹ
học sinh: Liên lạc trao đổi thông tin về sự tiến bộ của học sinh, có thể được tư vấn
thêm về các biện pháp để giúp các em học sinh học tốt mơn Tiếng Việt.
Có sự chia sẻ kinh nghiệm trong chuyên môn của đồng nghiệp về các biện

pháp nâng cao chất lượng mơn Tiếng Việt.
b. Về phía giáo viên:
Mỗi giáo viên cần thực sự yêu nghề, yêu trẻ; khơng ngừng học hỏi nâng cao
trình độ chun mơn; cần xác định rõ mục tiêu trọng tâm của bài dạy; phương
pháp và hình thức tổ chức linh hoạt, phù hợp với nội dung bài dạy và đối tượng
học sinh. Giáo viên phải phân hóa đối tượng học sinh phù hợp với từng hoạt động
dạy- học trong tiết học và bài học.
Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh trong giáo dục. Thường xuyên
giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến
phương pháp giảng dạy lôi cuốn học sinh, được sự tin tưởng của phụ huynh học
sinh
Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với Đồn thể, với địa phương, tạo
những điều kiện, môi trường giáo dục tốt.
Trao đổi kịp thời những khó khăn gặp phải với tổ chun mơn để tìm ra giải
pháp tối ưu phù hợp với học sinh.
Là giáo viên, mỗi người cần trang bị cho mình những kinh nghiệm từ thực tế
giảng dạy. Cần có sự đầu tư và học hỏi từ đồng nghiệpvà nhất là phải áp dụng
thông tư 22 phối kết hợp thơng tư 30 trong q trình giảng dạy để đặt học sinh vào
trung tâm của dạy- học.
c. Về phía phụ huynh:
Luôn phối hợp với giáo viên, nhà trường trong việc giáo dục học sinh.
Quan tâm đến việc học của các em nhiều hơn, hướng dẫn, đơn đốc nhắc con
em mình soạn đầy đủ sách, vở, dụng cụ học tập trước khi đến lớp. Tạo điều kiện
cho các em tham gia các trị chơi lành mạnh, các chương trình ngồi trời để con
thấy sự kì diệu của các mơn học, tăng niềm đam mê và khả năng học tập của con.
Thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm để nắm bắt tình hình học tập của
các em để từ đó có biện pháp hướng dẫn thêm cho các em. Có như vậy các em
mới có thể học tốt được.
d. Về phía học sinh:

Đi học đều, có đầy đủ dụng cụ học tập. Trong quá trình học phải thực hiện
tốt nề nếp học tập, lắng nghe cô giáo giảng bài.
Làm các yêu cầu mà giáo viên giao nhiệm vụ học tập. Hợp tác với các bạn
trong nhóm, lớp để chia sẻ cùng bạn bè trong quá trình viết, đọc Tiếng Việt
* Phương tiện:
Máy vi tính, máy in, máy chiếu hoặc ti vi, các tranh ảnh các tiết học môn
Tiếng Việt, tài liệu về môn Tiếng Việt.
4.4 Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp:
5


Mục đích của giải pháp:
Giúp học sinh củng cố, hệ thống hóa kiến thức được học, mở rộng vốn từ,
khắc sâu kiến thức, nắm chắc âm vần vừa học, biết vận dụng vào từng trường hợp
cụ thể.
Là giáo viên giảng dạy lớp 1 – lớp đầu tiên của bậc Tiểu học, tôi càng chú
trọng hơn phân môn Tiếng Việt bởi theo suy nghĩ của tôi các em mới bỡ ngỡ bước
vào học tập theo chương trình phổ thơng chuẩn, việc học tập và rèn luyện vốn
Tiếng Việt cần phải được thực hiện ngay từ đầu tạo nền tảng vững chắc cho việc
học tập và rèn luyện Tiếng việt cho các em. Hỗ trợ cho giáo viên trong công tác
dạy học tăng cường Tiếng Việt cho học sinh. Vì lẽ đó tơi muốn qua đề tài này để
có dịp nhìn lại q trình dạy học của mình, từ đó sẽ tiếp tục hoàn thiện tốt hơn
những nhiệm vụ được giao trong những năm học tiếp theo.
Các bước thực hiện giải pháp:
Bước 1: Chọn đề tài:
Khi ca ngợi về tiếng nói của dân tộc, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã viết :
“ Ôi Tiếng Việt suốt đời ta mắc nợ
Quên nỗi mình, quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá, môi tôi hồi hộp quá
Tiếng việt ơi, Tiếng việt ân tình”.

(Lưu Quang Vũ – Tiếng việt)
Quả đúng như vậy, mỗi người dân Việt Nam, Tiếng Việt là tiếng nói thân
thương, kết tụ lại tinh hoa, truyền thống của dân tộc có tự bao giờ. Càng tự hào bao
nhiêu ta càng thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ, giữ gìn nguồn tài
sản q giá đó để nó khơng bao giờ bị mai một.
Ngồi ra việc rèn vốn Tiếng Việt cịn có những nhiệm vụ khác đó là làm
giàu kiến thức về ngơn ngữ, đời sống và kiến thức văn hố cho học sinh, phát triển
ngôn ngữ và tư duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho các
em.
Nói cách khác thơng qua việc dạy Tiếng Việt phải giúp học sinh thấy được
rằng khả năng đọc, viết là có lợi ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học
sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí
tuệ đầy đủ và phát triển.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, trong quá trình dạy học, mỗi Nhà giáo
chúng tôi đều dành nhiều tâm huyết để rèn học sinh của mình có được kĩ năng sử
dụng Tiếng Việt(nghe, nói, đọc, viết) thành thạo vì vậy việc tăng cường nâng cao
chất lượng học tập, sử dụng tiếng Việt cho đối tượng học sinh tiểu học, đặc biệt là
đối tượng học sinh đầu bậc tiểu học ở trường Tiểu học Trần Quốc Toản là việc
làm vô cùng cần thiết được đặt lên hàng đầu trong tiêu chí giáo dục. Xác định rõ
tầm quan trọng đó, năm học: 2019- 2020 tôi quyết định chọn, nghiên cứu đề tài: “
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 trường Tiểu học Trần Toản học tốt môn
Tiếng Việt”.
Bước 2: Xác định đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 1 trường Tiểu học Trần Quốc Toản Tam Lãnh - Phú Ninh Quảng Nam.
6


Bước 3: Thu thập xử lí thơng tin

TT

Tên tác giả
01 Trần Thị Thu

Tên tài liệu
Một số biện pháp phát huy tính tích cực

02

Nguyễn Thị Ngân Huệ

của học sinh trong giờ Học vần
Kinh nghiệm dạy học nâng cao chất

03

lượng môn tiếng Việt
Nguyễn Tại – Lê Thị Thu Huyền Sách thiết kế bài giảng môn Tiếng Việt 1

04

Trương Thị Thu Minh

Phương pháp dạy học sinh lớp 1 nhanh

biết đọc Tiếng Việt.
05 Bộ Giáo dục & Đào tạo
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1
Bước 4: Tiến hành thực hiện đề tài:
- Tổng hợp các số liệu đã thu thập được
- Sắp xếp lại các chi tiết sao cho phù hợp với yêu cầu của sáng kiến.

Bước 5: Hồn chỉnh bản sáng kiến:
- Trình bày sáng kiến, ngắn gọn, xúc tích.
- Đánh máy, in ấn.
Cách thực hiện các giải pháp:
Căn cứ vào thực tiễn của quá trình giảng dạy và nghiên cứu, với mong muốn
làm sao cho học sinh của mình học mơn Tiếng Việt đạt hiệu quả, tạo cho các em
niềm say mê trong học tập, khắc phục tối đa các nhược điểm mà các em thường
hay mắc phải khi nói, đọc, viết Tiếng Việt, tôi đã quyết tâm, tự làm mới tiết dạy,
học hỏi kinh nghiệm giảng dạy, tự mày mò nghiên cứu và đã tích lũy được một số
biện pháp sau:
+ Tìm hiểu về hồn cảnh gia đình và vốn Tiếng Việt của học sinh:
Ngay sau khi nhận lớp, tôi đã tìm hiểu để nắm bắt về hồn cảnh, mơi trường
sống cũng như tính cách của từng em. Trong tuần học đầu tiên, tơi tranh thủ thời
gian nói chuyện với từng em nhằm kiểm tra khả năng giao tiếp của các em ở mức
độ nào và tơi đã sử dụng hình thức khảo sát kiến thức trẻ năm tuổi đã qua mẫu giáo
chuẩn bị vào lớp một.
Sau khi điều tra, khảo sát thực tế, tôi đã lập bảng thống kê của lớp với kết quả
như sau:
Kết quả khảo sát đầu năm:
Tổng số học sinh: 31/17 nữ
TS
Hồn cảnh
Học
gia đình
sinh

Khả năng
giao tiếp
7


Nhận biết
chữ cái

Viết chữ cái


35

Nghèo Cận
Khó
nghèo khăn
2
3
30

Tốt
5

Hạn
chế
30

Đạt
6

Chưa
đạt
29

Đạt

6

Chưa
đạt
29

Vì đa số học sinh chưa hồn thành về Tiếng Việt nên tôi đã tiến hành phân
loại và tìm các biện pháp dạy học phù hợp để giúp các em nắm bắt được bài theo
đúng khả năng và nâng dần kiến thức theo chuẩn để các em có nền tảng học tốt
hơn.
Tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh lớp 1 của trường chúng tơi chưa hồn
thành mơn Tiếng Việt.
Sau khi tìm hiểu, tơi kết ḷn được những nguyên nhân chính dẫn đến thực
trạng này như sau:
* Đối với giáo viên:
Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học
sinh nhưng vẫn còn một số hạn chế sau:
Phương pháp giảng dạy chưa thật sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ đối
với học sinh chậm tiến nên chất lượng chưa cao.
Việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan của giáo viên vào tiết
học còn hạn chế nên ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh.
Bên cạnh những giáo viên thực sự yêu nghề, u học sinh thì vẫn cịn một số
giáo viên chưa thật sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn kiến
thức trong trái tim của mỗi học sinh.
Do sĩ số lớp đơng 31 em/ lớp nên khó khăn cho việc theo sát, kèm cặp học
sinh trong từng tiết dạy.
* Đối với học sinh:
Hồn cảnh gia đình các em cịn khó khăn, bố mẹ ít có thời gian quan tâm, gần
gũi con cái.
Nhiều học sinh sức khỏe yếu, trí nhớ không tốt nên chậm tiếp thu bài, học rồi

lại qn ngay.
Vốn từ của học sinh cịn ít ỏi, kĩ năng nói và viết chưa tốt.
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống văn hóa, tinh thần ngày càng tăng cao
nên các em thường bị cuốn vào nhu cầu giải trí như xem ti vi, điện thoại nhiều dẫn
đến ảnh hưởng rất nhiều về trí óc, làm cho khả năng phát triển ngôn ngữ bị hạn
chế.
Từ những nguyên nhân trên, là một GV trực tiếp chủ nhiệm lớp 1, bản thân
tơi khơng thể khơng suy nghĩ:“Phải làm gì để thay đổi thực trạng này?” và “Nâng
cao chất lượng dạy – học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 ở đây bằng cách
nào?”.
Để tìm ra đáp án cho câu trả lời trên, tôi đã bỏ ra rất nhiều thời gian và công
sức, kết hợp với sự giúp đỡ của BGH nhà trường cũng như đồng nghiệp của mình.
Cuối cùng tơi cũng đã thu gặt được một số kết quả nhất định. Trong phạm vi đề tài
này, tơi xin trình bày một số biện pháp dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1
ở trường Tiểu học Trần Quốc Toản để các đồng nghiệp tham khảo và bổ sung.
+ Biện pháp khắc phục:
* Làm tốt công tác dân vận:
8


Bản thân tôi là một giáo viên cần làm công tác dân vận đối với tôi là một
thách thức vô cùng lớn. Thế nhưng, vì lịng u nghề, mến trẻ, thương các em sống
ở vùng nông thôn lại con em nhà nông nên tôi đã cố gắng vượt qua mọi thử thách
để hồn thành tốt cơng tác này.
* Đối với bản thân:
- Thật sự tâm huyết với nghề.
- Sống hòa đồng với dân làng.
- Tìm hiểu tiếng dân tộc Kor
- Tập tính kiên trì, nhẫn nại.
- Đổi mới phương pháp dạy học.

- Tự học để năng cao kiến thức, kĩ năng sư phạm.
- Chịu khó nghiên cứu, tự làm ra những đồ dùng dạy học phù hợp với tình
hình thực tế ở địa phương.
* Đối với phụ huynh:
Tôi nghĩ, gia đình là mơi trường giáo dục có ảnh hưởng trực tiểp đến trẻ.
Trước tiên là ảnh hưởng của cha mẹ rất sâu sắc. Vì vậy giáo dục gia đình là
một “điểm mạnh” là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục trẻ. Song
mỗi gia đình có những điểm riêng nên giáo viên phải biết phối hợp như thế nào để
đảm bảo được tính thống nhất, tồn vẹn trong quá trình giáo dục. Đồng thời phát
huy ảnh hưởng cùng nhà trường giáo dục học sinh đạt hiệu quả. Trước những
ngun nhân xuất phát từ gia đình tơi đã lên kế hoạch
+ Ngay từ đầu năm, tổ chức cuộc họp phụ huynh học sinh triển khai nội quy
nhà trường, thông báo tên các loại sách, vở, dụng cụ học tập cần có cho học sinh
khi đến lớp. Các dụng cụ và các loại sách, vở trong môn Tiếng Việt. Yêu cầu phụ
huynh đưa, đón con em đúng thời gian. Đưa thời khóa biểu, mong phụ huynh soạn
đúng đồ dùng học theo thời khóa biểu mỗi khi các em đến lớp.
+ Yêu cầu phụ huynh tạo mọi điều kiện tốt nhất để các em có thời gian dành
cho việc học tập. Quan tâm đến việc học của các em, thường xuyên kiểm tra bài vở
khi các em về nhà.
+ Hướng dẫn phụ huynh cách dạy con em mình ở nhà.
+ Phụ huynh nắm được số điện thoại của cô giáo để có thể liên hệ trực tiếp,
với cơ khi có việc cần thiết.
- Chẳng hạn như : Hôm nay học Tiếng Việt bài vần ao – eo
Tôi hướng dẫn phụ huynh bày cho con mình đọc đi đọc lại 10 lần. Sau đó viết
vần, từ và câu trong bài đó (mỗi vần, mỗi từ một dòng và viết câu một lần) vào vở
ở nhà để giúp cho học sinh vừa thuộc bài vừa luyện viết.
* Đối với dân làng:
- Tôi tỏ ra thân mật, gần gũi, tôn trọng và sẵn sàng giúp đỡ họ khi cần thiết.
- Tham gia các hoạt động, phong trào tại địa phương để tạo ra mối quan hệ
hài hịa, nắm bắt được điều kiện, hồn cảnh của các em học sinh từ đó có các biện

pháp giúp đỡ phù hợp.
+ Tạo mối quan hệ thân thiết giữa cơ-trị và dạy cho HS nói Tiếng Việt
Tâm lý trẻ mới bước vào lớp Một có nhiều bỡ ngỡ, mới lạ. Trong khi đó, đa
số các em học sinh lớp Một của tơi nói Tiếng Việt cịn hạn chế, một số em khả
năng diễn đạt kém, trả lời chưa đầy đủ, một số nói ngọng, nói lắp. Chúng như
9


những chú chim non ngơ ngác, rụt rè, sợ sệt. Điều này gây khơng ít khó khăn cho
Giáo viên trong quá trình tiếp cận với các em.
Việc gần gũi thân mật với học sinh là một việc làm rất cần thiết đối với các
em lúc này, giúp cho các em cảm thấy hạnh phúc khi đến trường và tạo cho các em
có một tâm thế thoải mái và xem cơ giống như người mẹ thứ hai. Để làm được
điều đó thì bản thân tơi đã cố gắng tìm mọi cách để đến gần được với các em. Đầu
tiên tôi hỏi han, trao đổi với các em bằng những câu hỏi đơn giản rồi bày cho các
em trả lời cho trọn câu. Như vậy dần dần các em sẽ biết được ý cô hỏi và lựa chọn
cách trả lời đầy đủ hơn.
Trong lớp có học sinh dân tộc đang theo học đó là các em thuộc nhóm dân tộc
Kor. Để hiểu hơn các em thì bản thân tơi đã bỏ ra thời gian học tiếng dân tộc Kor
để bày cho học sinh tập nói tiếng phổ thơng. Tơi cịn mua ít quà để tặng các em
trong lớp vào cuối tuần. Những món q ấy tuy khơng có giá trị gì về kinh tế
nhưng giá trị về tinh thần thì vơ cùng to lớn, bởi các em cảm nhận được ở tôi sự
quan tâm, chia sẻ. Điều đó thể hiện rõ ở những cái nhìn ngây thơ đầy vẻ biết ơn
của các em. Tuần đầu, tôi để các em tự do lựa chọn chỗ ngồi mà các em thích, tơi
dành nhiều thời gian để tâm tư chuyện trị với các em. Tơi hướng dẫn các em giới
thiệu về bản thân, về gia đình, hướng dẫn các em bày tỏ sở thích, ước mơ, mong
muốn của mình. Lúc đầu các em cịn nhiều bỡ ngỡ. Nhưng dần dần ngơn ngữ nói
của các em đã phát triển, các em đã xem tôi như người thân và rất thích nói chuyện
với tơi. Cảm giác các em đến trường rất vui vẻ và hào hứng.Việc làm này tôi đã
vận dụng trong những năm học trước và thấy rất hiệu quả.

+ Hình thành và bổ sung vốn ngôn ngữ tiếng Việt cho HS:
* Rèn kĩ năng nhận biết âm, vần, từ ngữ thơng qua hình ảnh:
Như chúng ta đã biết con đường nhận thức của học sinh Tiểu học: “ Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở lại thực tiễn.”
Đồ dùng dạy học là phương tiện vật chất, phương tiện hữu hình cần thiết khi dạy
Tiếng Việt. Vì vậy để các em nhớ lâu, nhớ chắc âm, vần, từ ngữ, câu ứng dụng
trong mỗi bài học, bắt buộc phải có hình ảnh đính kèm.
Ví dụ : Học âm “ l”
Tôi cho học sinh đọc, ghép âm “ l” sau đó ghép tiếng “ lê” và đưa hình ảnh
quả lê cho học sinh xem, yêu cầu học sinh ghi nhớ âm l qua hình ảnh quả lê bằng
cách hỏi học sinh:
- Chúng ta học âm “l” qua hình ảnh gì?
- “Qua hình ảnh quả lê.”
Yêu cầu học sinh đọc âm “l” tôi lại gắn âm “l” vào quả lê và hướng dẫn các
em rằng nếu khi nào nhìn thấy âm “l” mà quên cách đọc âm “l” thì các em hãy nhớ
là âm này học trong hình quả lê và tự đánh vần “l – ê – lê” khi đó các em sẽ nhớ
lại đó là âm “l”. Và khi dạy đến bài ôn tập, mỗi khi đọc đến âm nào tôi lại hỏi các
em: “Âm này học trong hình gì?”
Ví dụ : Khi ơn tập các âm q-qu, c, m, n, h, c …
- Khi ôn tới âm n tơi hỏi : “ Âm này học trong hình gì?”
- Học sinh trả lời : “Hình cái nấm”
- Tơi yêu cầu các em đánh vần tiếng nấm, các em sẽ nhớ và khắc sâu âm n.
- Hay khi ôn đến âm m
10


- Tơi hỏi : “Âm này học trong hình gì”?
- Học sinh trả lời : “Cái mũ”
- Các em hãy đánh vần tiếng “mũ”
- Học sinh đánh vần : “ m-u-mu-ngã- mũ”

- Vậy đây là âm gì? Học sinh sẽ trả lời âm « m ». Với cách làm như vậy sẽ
giúp cho học sinh khắc sâu, nhớ và đọc được các âm đã học. Ở phần học vần tôi
cũng làm tương tự như vậy.
Ví dụ : Học vần oa
Khi dạy tơi gắn vần « oa » lên hình bơng hoa cho học sinh khắc sâu hình ảnh
vần « oa » ở trên bông hoa. Nếu học sinh nào quên cách đọc vần oa tơi hỏi : «Vần
này học ở hình gì ? ».
- Học sinh trả lời : «hoa »
- Yêu cầu học sinh đánh vần : « o-a-oa »
- Vậy các em vừa đánh vần vần gì ? « vần oa »
- Cho học sinh tự đánh vần và đọc tiếng « hoa» : « h-oa-hoa, hoa »
Như vậy nếu quên cách đọc học sinh sẽ tự nhớ lại hình ảnh, tự đánh vần và
nhớ ra cách đọc. Và đến bài ôn tập cứ đọc đến vần nào là tôi lại yêu cầu học sinh
nhắc lại vần này học trong hình gì để học sinh khắc sâu vần với hình ảnh, từ đó học
sinh tự đánh vần và tự nhớ ra cách đọc.
Trong bộ sưu tập đồ dùng dạy học tự làm của tơi có rất nhiều hình ảnh
phong phú, cho nên đến giờ học môn Tiếng Việt, học sinh rất thích thú và tham gia
hoạt động học tập sôi nổi.
* Rèn kĩ năng nhận biết âm, vần, từ ngữ thơng qua một số trị chơi học
tập:
Muốn học sinh học tốt mơn Tiếng Việt thì mỗi giáo viên khơng chỉ giảng
giải theo chương trình sách giáo khoa, sách hướng dẫn một cách rập khn,
máy móc làm cho học sinh học một cách thụ động. Tiết học diễn ra đơn điệu và
hiệu quả khơng cao.
Vì vậy việc lồng ghép hoạt động vui chơi trong giờ học, vừa tạo không khí
giờ học thêm sơi nổi, vừa giúp các em dạn dĩ, nói năng tự nhiên trước tập thể
lớp và ghi nhớ kiến thức một cách chủ động hơn. Cho nên tiết học nào tơi cũng
có sự nghiên cứu bài trước để chuẩn bị đồ dùng dạy học cho cô và trị với màu
sắc hấp dẫn, phù hợp nhằm lơi cuốn sự chú ý của học sinh, thường xuyên thay
đổi cách chơi, đồ chơi cho mỗi tiết học, không lặp lại những trị chơi, dễ làm

cho học sinh nhàm chán, tìm lời giới thiệu hay hấp dẫn, tìm tịi những câu đố
hoặc những lời dẫn dắt sinh động để tập trung học sinh vào bài học.
Ví dụ 1:
+ Qua bài dạy âm “m, n” hoặc “l, h” khi đọc, phát âm rất dễ bị sai nên sau
tiết học cho học sinh chơi trị chơi: “ chuyền bóng ”.
a. Trị chơi: “ chuyền bóng ”.
- Mục tiêu : Luyện cho học sinh phát âm đúng các âm đã học.
- Chuẩn bị: Một quả bóng nhựa.
- Cách chơi: Khi quả bóng chuyền đi, các em phải nói to, chính xác một
trong hai từ “lá hẹ”, “bờ hồ” dần dần đặt ra yêu cầu ở mức độ cao hơn, các em có
11


thể đọc một từ bất kỳ (trong từ này có âm “l, h” hoặc âm m, n): cái nón, trâu lá, ,
mùa hè,.v.v...
Ví dụ 2:
+ Qua bài dạy âm “o, c” hoặc vần “ it, eo’’ cho các em chơi trò chơi: “Tập
làm tiếng kêu của các con vật”.
b. Trò chơi: : “Tập làm tiếng kêu của các con vật”.
- Mục tiêu: Qua trò chơi tất cả các em được tham gia thực hiện, nội dung
yêu cầu của cuộc chơi, biết cách chơi, tìm được những tiếng có vần đã học, đọc
chính xác.
- Chuẩn bị: Một số vương miện làm bằng giấy bìa có dán hình các con vật
thân quen.
- Cách chơi: Mỗi lượt chơi 3 em, mỗi em đại diện cho một con vật mà mình
u thích. Khi nghe các bạn dưới lớp gọi tên con vật nào thì bạn đại diện con vật
đó lên tiếng. Chẳng hạn như: Mèo kêu “meo meo”, chuột kêu “chít chít”, gà gáy “ò
ó o”,.v.v...
Trò chơi này, luyện phát âm cho học sinh rất hiệu quả.
Ví dụ 3:

+ Qua bài dạy âm “r, s” có thể tổ chức cho học sinh chơi trị chơi: “Gọi tên
đồ vật, con vật”.
c. Trò chơi: “Gọi tên đồ vật, con vật”.
- Mục tiêu: Trò chơi này giúp học sinh phát âm đúng các từ có âm “r, s” và
ghi nhớ trong đầu.
- Chuẩn bị: Cô đặt trên bàn nhiều đồ chơi và tên gọi các đồ chơi có âm “r,
s” như “con rùa, cá rơ,, cái rổ, con rắn, củ sắn, chữ số,.v.v... ”.
- Cách chơi: Lần lượt từng học sinh xung phong lên chọn đồ chơi rồi gọi tên
các đồ chơi có mang âm “r, s”.
Ví dụ 4:
+ Qua bài dạy vần “ung, ưng” tôi sẽ cho học sinh chơi trị chơi “Hành
khách thơng minh”.
d. Trị chơi “Hành khách thơng minh”.
- Mục tiêu: Qua trị chơi nhằm giúp học sinh củng cố, khắc sâu đúng vần đã
học, tìm và phát hiện những tiếng từ mới có chứa âm, vần đã học.
- Chuẩn bị: Hai biển số vịng trịn bằng giấy bìa cứng có ghi các vần “ung,
ưng” tôi giới thiệu cho các em hai biển số của hai xe ô tô, phân bố từng xe để hành
khách (các em) biết . Phân bố chỗ chơi, phổ biến cách chơi cụ thể để các em dễ
dàng nhận ra cách chơi và gia nhập trò chơi tốt hơn.
- Cách chơi: Tôi mời hai em làm bác lái xe, phân bố từng xe đậu ở bến để
hành khách (các em chơi) biết: Bằng hình thức giới thiệu của cơ: Hôm nay, cô sẽ
cho các em đi mua hàng ở xa, nếu em nào mua vé xe “ung ” là đi mua hàng ở chợ
Tam Lãnh, em nào mua vé xe “ưng” là đi mua hàng ở Thành phố Tam Kỳ.
Muốn đi xe nào hành khách chọn cho mình một vé mang vần “ung, ưng ”
mà mình thích. Giáo viên là người quản lý thông báo xe “ung”, “ưng ” ở các vé
giáo viên ghi sẵn các tên hàng cần mua như: bông súng, thúng gạo, rau húng, dây
thừng, mè xửng, dầu vừng,.v.v... Ơ tơ sắp chuyển bánh, mời hành khách chuẩn bị
12



hành lý ( giáo viên kiểm tra vé xem các em đã đi đúng xe của mình chưa, hỏi các
em, đây là ơ tơ biển sớ gì ? Hoặc em mua vé ơ tơ nào?). Từ đó giúp các em nhận
biết vần đã chọn và phát âm đúng những tiếng có mang vần “ung, ưng ” khi các
em trả lời giáo viên. Sau mỗi lần chơi cho các em đổi vé để gây sự chú ý và ghi
nhớ các âm đã học thông qua việc chọn ô tô. Đặc biệt bác lái xe phải cầm vô lăng
quay biển số xe về các bạn, sao cho tất cả các em đều nhận ra ơ tơ đó bạn đi đúng
theo vé của mình mua chưa.
Qua trị chơi giúp các em hiểu cách chơi, rõ ràng, xác định được vị trí của
hai ơ tơ và biết cách lựa chọn âm hoặc vần thích hợp (tuỳ theo từng bài học) không
chọn những âm vần mà giáo viên chuẩn bị mà khơng có ơ tơ, phiên định vị của
từng ô tô, tránh sự lộn xộn khi di chuyển, giúp các em chơi đạt kết quả và trật tự
trong q trình chơi.
Ví dụ 5:
+ Qua các bài ôn tập ở phần Học vần cũng như phần tìm vần ở phần Tập đọc
tơi thường thực hiện trị chơi trị chơi “ Ơ cửa bí mật”.
e. Trị chơi “ Ơ cửa bí mật”:
- Mục tiêu: Qua trị chơi nhằm giúp học sinh củng cố, khắc sâu đúng vần đã
học, tìm và phát hiện những tiếng từ mới có chứa âm, vần đã học.
- Chuẩn bị: Một ô cửa làm bằng gỗ, các cánh cửa được trang trí bằng giấy
đề can nhiều họa tiết đẹp, hấp dẫn; Một số đồ vật như: quả lê, cái mũ, bông hoa, củ
cải, con thỏ, con gà,.v.v... (đồ vật được cắt bằng giấy bìa, mặt sau dán chữ, âm,
vần đang học có liên quan đến bài học). Hoặc thay thế đồ vật bằng hệ thống câu
hỏi viết trên giấy có liên quan đến nội dung từng bài học.
Chẳng hạn, khi dạy bài ôn tập các vần có âm m ở cuối vần. GV chuẩn bị
một số đồ vật bằng giấy bìa như: quả cam, con tơm, cái ́m, chùm nho, con tằm,
phím đàn, hạt cườm, cánh buồm, số năm,.v.v... Đằng sau mỗi đồ vật là một từ ngữ
có tiếng chứa vần có âm m ở cuối.
- Cách chơi: Có hai đội chơi, mỗi đội 4 em. Chơi theo hình thức tiếp sức,
lần lượt 2 em trong 2 đội lên, chọn ô cửa mà mình thích, mở ơ cửa rồi chọn đồ vật
có trong mỗi ơ cửa, nói cho cả lớp biết đó là vật gì. Sau đó đọc từ ngữ ở mặt sau

vật đó. Đội nào có nhiều bạn nói đúng tên đồ vật và đọc to rõ ràng, đọc đúng từ ở
mỗi vật thì đội đó thắng.
Trị chơi này rất dễ chơi và sinh động, kích thích tính tị mị và tư duy sáng
tạo của mình, nên học sinh rất thích tham gia và tham gia rất nhiệt tình, sơi nổi.
Ví dụ 6:
+ Để khỏi bị nhàm chán, qua các bài ôn tập ở phần Học vần cũng như phần
tìm vần ở phần Tập đọc tơi cho cịn cho các em chơi trò chơi “ Đi chợ”.
g. Trò chơi “ Đi chợ”:
- Mục tiêu: Qua trò chơi nhằm giúp học sinh nhận biết, phát âm đúng vần đã
học. Nhận biết các âm qua từ, đồ vật.
- Chuẩn bị: Một số loại quả, hoa, rau thật (đồ vật cắt bằng bìa hoặc vẽ có dán
chữ, âm, vần đang học có chứa trong từ đồ vật ) như: Quả na ( âm n), quả mận
(âm m), rau muống (vần uông), quả ớt ( vần ơt), quả cam ( vần am),.v.v...
- Cách chơi: Mỗi lượt 4 học sinh tham gia chơi, 1 học sinh đóng vai là
người đi chợ xách giỏ hoặc bưng rổ, 3 Học sinh là người bán hàng rau quả.
13


- Học sinh đóng vai người đi chợ vừa đi vừa đọc :“ đi chợ, đi chợ”.
- Những học sinh đóng vai người bán hàng hỏi :“ mua gì ? mua gì ?”
Chẳng hạn, người đi chợ nói: “ Tơi thích mua quả có âm n hoặc quả có vần
ân! ” thì những người bán hàng mang những quả có âm và vần bạn vừa nói đến.
Bạn đi chợ có thể đố các bạn bán hàng: “ Mình mua chữ n là quả gì ?”;
“Mình mua vần ân là quả gì ?”.
Người bán hàng đọc : “Quả na, quả mận,.v.v....”
Cứ như vậy, bạn nào bán hết số hàng nhanh và đúng yêu cầu của người mua
hàng trong thời gian ngắn nhất thì bạn đó là người chiến thắng.
Qua trị chơi này, các em rất thích. Vì đồ dùng cho trẻ rất gần gũi, phong
phú, màu sắc đẹp gần giống thật. Các em rất thích làm người bán hàng và người đi
chợ để tập làm người lớn. Qua đọc từ của đồ vật, âm vần chứa trong các từ giúp trẻ

em phát triển ngôn ngữ, vốn từ, củng cố nhận biết âm vần trong trò chơi.
Bên cạnh một số trò chơi tự tìm, tơi tham khảo và sử dụng thêm một số trò
chơi trong sách hướng dẫn của giáo viên, sách hướng dẫn về các trị chơi, tơi đều
đưa vào các tiết học cho phù hợp và thay đổi hình thức chơi để các em khỏi nhàm
chán, thích thú hơn khi học môn Tiếng Việt.
* Rèn kĩ năng nhận biết, ghi nhớ âm, vần bằng hình thức so sánh sự
giống nhau và khác nhau về cấu tạo âm, vần:
Để giúp các em nhận biết, ghi nhớ một số âm, vần giống nhau về cấu tạo
như: các con chữ: p, q, d, b; u, ư; e, ê; m, n;..
Ngoài việc cho các em quan sát, nhận xét một số điểm giống nhau và khác
nhau. Để giúp các em phân biệt dễ dàng hơn khi học đến âm nào tôi vận dụng
những phế liệu như : vỏ bao thuốc cứng tôi cắt chữ theo những nét rời. Ví dụ : âm
b, d, đ gồm một nan giấy dài thẳng, một nan cong trái hoặc nan cong phải, một nan
ngang nhỏ rồi cho học sinh chọn những nan giấy rời của cô cắt sẵn để xếp thành
chữ. Khi xếp, các em đọc âm mà các em vừa xếp, các em lựa chọn và xác định vị
trí của từng nét tạo nên chữ, giúp các em có sự phân biệt rõ ràng hơn về dấu hiệu
khác nhau và giống nhau giữa các cặp chữ giúp các em có sự ghi nhớ vần có chủ
định.
Khi dạy đến âm hoặc vần nào, tôi đều cắt chữ thành nét rời như trên và bỏ
vào một cái bì nhỏ cho mỗi em, để về nhà các em tự xếp chữ và ghi nhớ âm, vần
mình vừa học ở lớp.
* Rèn kĩ năng viết :
Việc cầm bút để viết của các em học sinh lớp tôi vào những tuần đầu năm
học thật sự rất khó khăn. Để giúp HS cầm bút và viết được từng con chữ, từng chữ
là cả một q trình. Trước tiên tơi hướng dẫn kĩ cho các em tư thế ngồi viết, cách
cầm bút, cách để vở. Những ngày đầu cho các em viết nét tự do vào bảng con, cho
các em tập tơ hình vẽ in sẵn thật nhiều cho quen tay. Khi tay cầm bút của các em
đã cứng cáp, tôi hướng dẫn các em tập tô ( tô trong vở tập tô dành cho trẻ mẫu
giáo 5 tuổi). Sau đó hướng dẫn các em viết đúng các nét cơ bản trên bảng con,
trong vở tập viết trước rồi tập các em viết ra vở ô ly. Khi các em bắt đầu tập viết

trên vở ơ ly, tơi viết mẫu các chữ đầu dịng, dùng bút đỏ chấm sẵn điểm đặt bút để
các em dễ viết hơn. Tôi hướng dẫn kĩ cho các em cách nối nét, độ cao, độ rộng và
14


quy trình viết con chữ, cách viết liền mạch giữa các nét trong một con chữ, giữa
các con chữ trong một chữ. Ngoài việc tiến hành luyện viết ở mỗi tiết Học vần,
Tập viết. Trong những buổi phụ đạo, những lúc rảnh rỗi, tôi cho học sinh luyện
viết thật nhiều như thi viết đẹp, tập chép, nghe viết, thi viết đúng, viết nhanh để
tăng dần tốc độ. Khi chấm chữa bài hoặc khi ra bài mẫu trong vở HS, tôi luôn cẩn
thận, viết đúng mẫu và viết đẹp để các em noi gương.
+ Củng cố kiến thức Tiếng Việt thông qua việc đọc sách:
Theo tơi, đọc sách là hình thức củng cố vốn từ ngữ, kiến thức tiếng Việt hiệu
quả nhất. Vì vậy, tơi thường xun mượn truyện thiếu nhi và sưu tầm rất nhiều báo
nhi đồng để sẵn trên lớp. Tranh thủ lúc rảnh là cho học sinh đọc. Lúc đầu, những
em chưa biết đọc thì xem tranh và nghe bạn đọc. Dần dần các em đều thích tự đọc
và cố gắng tập đọc như các bạn.
+ Củng cố kiến thức Tiếng Việt thông qua hoạt động tự chọn, vui chơi
ngoại khóa:
Ngồi ra, trong những tiết sinh hoạt lớp, những giờ ra chơi, tôi thường xuyên
tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành mạnh, chơi các trò chơi dân
gian, tổ chức các hoạt động văn nghệ thể thao, qua các hoạt động rèn cho học sinh
kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn kết tốt, kĩ năng lắng nghe, kĩ
năng hợp tác,.v.v...
Khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận, những suy nghĩ,
những quan sát của mình với cơ, với bạn một cách thoải mái, tự nhiên khơng gị
bó, áp đặt. Từ đó các em đã tích lũy làm giàu thêm rất vốn ngơn ngữ tiếng Việt của
mình.
+ Hình thức động viên, khen thưởng :
Động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng

nói, đọc, viết Tiếng Việt là vơ cùng cần thiết. Vì thế, tơi theo dõi hằng ngày các em
có biểu hiện tiến bộ thì ghi vào nhật ký riêng của mình. Trong tiết sinh hoạt cuối
tuần cho các em bình chọn bạn nào ngoan nhất, đưa tay phát biểu nhiều nhất, nói,
đọc, viết tiến bộ sẽ được gắn một bông hoa hồng vào bảng khen thưởng (bảng này
tơi tự làm dưới hình thức dán 13 bình cắm bơng hoa lên bảng dưới mỗi ô là tên
của học sinh trong lớp và thêm các bông hoa hồng để học sinh cắm vào). Và động
viên khuyến khích bằng hoa hồng cho các nhóm, tổ vào mỗi ngày và tổng kết
tuyên dương sau mỗi tuần. Có như vậy các thành viên trong tổ mới động viên giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ để giữ gìn truyền thống. Còn các thành viên tổ khác sẽ cố
gắng học tập để đạt kết quả tốt như tổ bạn… Chính dư luận là dấu hiệu quan trọng
nhất đánh dấu sự trưởng thành và phát triển của tập thể trong đó có sự tiến bộ của
các đối tượng học sinh, nhất là học sinh cá biệt.
Ngoài những biện pháp nêu ở trên, muốn dạy môn Tiếng Việt cho HS ở đây
đạt hiệu quả như mong muốn, bản thân tôi luôn luôn thể hiện là tấm gương trong
sáng, mẫu mực cho học sinh noi theo. Tôi luôn thực hiện tốt việc đổi mới phương
pháp dạy học để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh (VD: sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp gợi mở, nêu vấn đề, phương
pháp đóng vai,...biết lựa chọn phối kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học.); Qua các hoạt động học tập học sinh được rèn các kĩ năng phân
15


tích, tổng hợp, tư duy sáng tạo, hợp tác theo nhóm, kĩ năng đánh giá, kĩ năng hợp
tác trong nhóm, kĩ năng xử lý tình huống,.v.v...Vận động các thầy cơ giáo dạy bộ
môn ở điểm trường bồi dưỡng kiến thức hiểu biết về tâm sinh lý trẻ em ở nơi đây,
nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của môn Tiếng Việt để hướng dẫn cho các
em. Phương pháp này có hiệu quả nếu giáo viên biết hợp tác và tác động đến kịp
thời, đúng mức độ đến từng đối tượng học sinh. Kết quả của sự tác động phụ thuộc
vào tình cảm, thái độ, nghệ thuật của giáo viên khi tác động. Tôi luôn tạo cho các
em một niềm tin: «Mỗi ngày đến trường là một niềm vui». Xây dựng các đôi bạn

cùng tiến. Tôi sắp xếp các em ở gần nhà nhau ngồi cùng một bàn, em học tốt ngồi
với em học chậm để em học tốt có thể giúp đỡ bạn tiến bộ hơn.
+ Tạo nên sự kết hợp hài hồ giữa gia đình và nhà trường:
Muốn cho học sinh có thể nhận biết, ghi nhớ và phát âm đúng các âm, vần đã
học, tôi chuẩn bị cho mỗi em một cuốn « nhật kí học tập » để giúp các em ghi lại
những âm, vần, từ ngữ đã học ở lớp mỗi ngày. Sau đó các em mang về nhà để phụ
huynh hoặc các anh chị ruột của các em theo dõi, biết và hướng dẫn các em đọc
đúng, viết đúng âm vần đã học. Tôi giám sát kĩ việc ghi nhật kí của từng em để sửa
chữa, bổ sung kịp thời. Thỉnh thoảng, tôi sắp xếp thời gian đến thăm nhà học sinh
để nói chuyện với phụ huynh về vấn đề học tập của một số em học chậm đồng thời
kiểm tra, nhắc nhở về trách nhiệm của họ đối với việc học hành của con em mình.
4.5. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến:
Đề tài này được áp dụng với học sinh khối lớp 1 ở trường Tiểu học Trần
Quốc Toản đã đạt được những kết quả có tính khả thi và có thể áp dụng cho tất cả
các lớp 1 trong và ngồi địa bàn tỉnh Quảng Nam.
5. Những thơng tin cần được bảo mật: Khơng có
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Những biện pháp tơi đã làm cũng rất đỗi bình thường. Nhưng kết quả đạt được
lại rất khả quan. Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả học tập của học sinh
ngày càng tiến bộ rõ rệt. Các em ngày càng chăm ngoan. Điều đó làm tơi rất vui
mừng và vơi đi những vất vả, mệt nhọc. Tình cảm thầy- trị, bạn bè ngày càng gắn
bó và thân thiện.
Học sinh mạnh dạn trình bày câu trả lời, các em đọc, viết tốt hơn tự giác thực
hiện nhiệm vụ học tập tự làm các bài tập trong vở bài tập, đến cuối học kì I năm
học 2019 - 2020 khơng có học sinh chưa hồn thành mơn Tiếng Việt. Tuy một số
em vẫn còn đọc, viết chậm nhưng các em đã tiến bộ rất nhiều so với giai đoạn
trước, số lượng lỗi phát âm và lỗi chính tả đã giảm. Cụ thể qua bảng tổng hợp sau:
Số học
sinh

35

Mức độ hoàn thành các yêu cầu bài học trong thời gian quy định
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
20
57%
15
43%
0
0

Nhưng mọi sản phẩm làm ra cho dù tốt đến mấy, chất lượng cao đến mấy
cũng khơng thể hồn hảo tuyệt đối. Sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng vậy. Tuy
16


tôi đã rất cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Kính mong
được các bạn đồng nghiệp giúp đỡ, góp ý để đề tài được hồn thiện hơn.
7. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần
đầu, kể cả áp dụng thử:
Những công việc tôi làm đều bắt nguồn từ tinh thần trách nhiệm của một giáo

viên chủ nhiệm lớp, từ tình u đối với học trị của mình. Thành cơng tơi đạt được
phần lớn đều do sự nổ lực của bản thân. Nhưng bên cạnh đó, tơi cũng ln nhận
được sự động viên khích lệ của cán bộ quản lí nhà trường, sự chia sẻ đóng góp từ
các giáo viên trong tổ chuyên môn. Nhờ vậy mà lớp tôi được đánh giá có nhiều
tiến bộ, học sinh ngoan ngỗn, đa số các em đều đọc, viết tốt. Biết trả lời câu hỏi
theo yêu cầu của các bài tập đọc, biết kể chuyện theo tranh. Học sinh tin tưởng vào
giáo viên. Khả năng giáo tiếp của các em ngày càng tiến bộ.
Ý kiến của cô Hồ Thị Ký: Khi áp dụng Sáng kiến vào thực tế giảng dạy tôi
thấy học sinh lớp đã có sự tiến bộ nhiều. Đến cuối học kì I năm học 2019 – 2020
chất lượng môn Tiếng Việt cải thiện nhiều. Đa số các em đã biết đọc, biết viết, chữ
viết lại đẹp. Chỉ có trường hợp em Danh thuộc học sinh khuyết tật trí tuệ nên em
chỉ mới thuộc được chữ cái. Đây là một kết quả đáng mừng và tôi sẽ áp dụng cho
những năm tiếp theo.
Ý kiến của cô Nguyễn Thị Tường Vi ( Tổ phó chun mơn): Sáng kiến của
tơi khi áp dụng vào thực tế giảng dạy lớp 1/2 mà cô vi phụ trách đã giúp cho chất
lượng môn Tiếng Việt của học sinh ngày càng đi lên. Chất lượng chữ viết đúng độ
cao, khoảng cách đạt đến 90%. Học sinh mạnh dạn, tự tin đọc to, rõ, đúng tốc độ
theo chuẩn. Các em mạnh dạn trong giao tiếp, trình bày ý kiến của các nhân mình,
có các kỹ năng sống được áp dụng vào trong thực tế cuộc sống nhờ giáo dục thông
qua môn Tiếng Việt.
Trên đây là báo cáo kết quả hoạt động sáng kiến: Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 1 trường Tiểu học Trần Quốc Toản học tốt mơn Tiếng Việt.
Nơi nhận:
-Như kính gửi;
-Lưu: TĐ-KT

17


18




×