Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Sự nghiệp biên khảo, trước thuật của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến ( Khảo sát qua tờ Nam Phong tạp chí)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.46 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
………&……….

NGUYỄN THỊ THU TRANG

SỰ NGHIỆP BIÊN KHẢO, TRƢỚC THUẬT
CỦA ĐÔNG CHÂU NGUYỄN HỮU TIẾN
(Khảo sát qua tờ Nam Phong tạp chí)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
………&……….

NGUYỄN THỊ THU TRANG

SỰ NGHIỆP BIÊN KHẢO, TRƢỚC THUẬT
CỦA ĐÔNG CHÂU NGUYỄN HỮU TIẾN
(Khảo sát qua tờ Nam Phong tạp chí)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn: GS.TS.Trần Ngọc Vƣơng


Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, minh bạch và chưa được ai
công bố trong bất cứ công trình nào khác

Hà Nội, ngày 15 tháng 1 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Trang


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô Khoa Văn học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt
tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu tại khoa.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, lòng biết ơn sâu sắc nhất đến GS.
TS Trần Ngọc Vƣơng, người đã truyền nhiệt huyết nghiên cứu, tận tình
hướng dẫn, chỉ dạy, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 1 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Trang



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 6
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
Chƣơng 1. ĐỘI NGŨ TÁC GIẢ TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ ............ 7
1.1. Những tác giả tiêu biểu của phái cựu học ............................................... 7
1.2. Những tác giả tiêu biểu của phái tân học ................................................ 9
Chƣơng 2. SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG CỦA NGUYỄN HỮU TIẾN . 17
2.1. Nhà nho Nguyễn Hữu Tiến và nghề báo .............................................. 17
2.1.1. Con đường đến với nghề báo .......................................................... 17
2.1.2. Nguyễn Hữu Tiến với chuyên mục “Tồn cổ lục” trên Nam Phong
tạp chí ........................................................................................................ 19
2.2. Các công trình biên khảo của Nguyễn Hữu Tiến.................................. 22
2.3. Nguyễn Hữu Tiến và công việc dịch thuật ........................................... 28
2.4. Sáng tác của Nguyễn Hữu Tiến ............................................................ 51


Tiểu kết chương 2............................................................................................ 55
Chƣơng 3. ĐÓNG GÓP CỦA ĐÔNG CHÂU NGUYỄN HỮU TIẾN CHO
BÁO CHÍ VÀ VĂN CHƢƠNG ĐẦU THẾ KỶ XX ................................... 57
3.1. Vai trò của “Nhà báo” Đông Châu ....................................................... 57
3.2. Đóng góp của Nguyễn Hữu Tiến cho văn chương giai đoạn giao thời 63
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 70

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 74


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong khoảng thời gian chuyển giao cũ mới đầu thế kỉ XX, Nguyễn Hữu
Tiến (biệt hiệu Đông Châu) cùng Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Nguyễn Bá
Học… là những nhà Nho cuối mùa, những con người xuất thân từ cựu học
không thể thành danh với sự nghiệp khoa bảng cũng không cam chịu cúi đầu
làm nô bộc cho chế độ. Báo chí đối với họ đã trở thành sự nghiệp của cả cuộc
đời. “Chính họ sẽ là những người tiến hành “tổng kiểm kê văn học truyền
thống trên báo chí”, hoạt động tích cực trong địa hạt biên khảo, dịch thuật.”
[19, 146].
Tên tuổi của Nguyễn Hữu Tiến gắn liền với các công trình biên khảo,
dịch thuật. Đặc biệt sự nghiệp của ông cũng đáng chú ý ở chỗ gắn liền với
hoạt động báo chí thời kì đó, đây cũng là công việc Nguyễn Hữu Tiến dành
gần như trọn vẹn quãng thời gian hoạt động chữ nghĩa của cuộc đời mình.
Ông làm biên tập cho Nam phong tạp chí, là người chuyên về dịch thuật các
sách chữ Hán ra Việt vănvà là người ở lại với Nam phong tới giờ phút cuối
cùng, chứng kiến toàn bộ đời sống, sự phát triển và lụi tàn của tạp chí này.
Chính vì vậy vai trò của ông với Nam phong tạp chí là vô cùng quan trọng.
Đầu thế kỷ XX ở Việt Nam có sự giao thoa Âu – Á, Đông – Tây do công
cuộc cai trị của thực dân. Do đó sự va chạm giữa các nền văn minh đương
nhiên xảy ra. Trong khung cảnh ấy nền văn chương học thuật truyền thống có
vai trò ra sao, được vận dụng và tác động như thế nào trong chủ định, chủ
trương “giao hòa” đó? Thông qua Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến chúng tôi
muốn tìm một cách trả lời cho vấn đề trên.
Mặc dù công lao của Nguyễn Hữu Tiến đối với Nam phong tạp chí nói
riêng và văn chương Việt Nam nói chung đầu thế kỷ XX không nhỏ nhưng
những công trình, bài viết về ông lại khá ít ỏi. Ông mới được đề cập sơ lược

1


qua các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, được
nhắc đến chủ yếu để điểm danh trong danh sách các nhà nho thuộc phái cựu
học chuyển sang làm báo chứ chưa được nghiên cứu dưới góc độ như một tác
giả độc lập. Vì vậy với đề tài Sự nghiệp biên khảo, trước thuật của Đông
Châu Nguyễn Hữu Tiến (khảo sát qua Nam phong tạp chí) người viết muốn
tìm hiểu những đóng góp của tác giả này choNam Phong nói riêng và nền văn
học quốc ngữ Việt Nam giai đoạn giao thời nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Như trên đã đề cập, cho đến nay những công trình nghiên cứu, tìm hiểu về
Nguyễn Hữu Tiến còn nhiều hạn chế. Ở các cuốn Nhà văn hiện đại (1998),
Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900 – 1945 (2000), Văn học Việt
Nam 1900 – 1945 (2003), Văn học Việt Nam thế kỷ XX (2004)…Nguyễn Hữu
Tiến được đề cập tới ít nhiều với tư cách là nhà văn thuộc phái cựu học hoặc
với vai trò là biên tập viên tích cực cho tạp chí Nam Phong.Tiến sĩ Phạm
Xuân Thạch trong bài viết Báo chí và quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam (2000) đã đánh giá rất cao về Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến khi tổng
quan về văn học Quốc ngữ trên báo chí ba mươi năm đầu thế kỷ XX. Nhà
nghiên cứu cho rằng Nguyễn Hữu Tiến đã cùng các nhà nho khác như
Nguyễn Văn Ngọc, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Khôi… tiến hành
cuộc tổng duyệt văn chương truyền thống và bảo tồn bằng cách chuyển dịch
sang chữ Quốc ngữ, Phạm Xuân Thạch viết “Tuy nhiên đáng chú ý hơn cả là
hoạt động dịch thuật của Nam Phong tạp chí. Ra đời vào tháng 7/ 1917, xuất
bản mỗi tháng một số bằng hai thứ chữ Quốc ngữ và Hán tự, tờ tạp chí đã có
một chương trình cụ thể trong việc bảo tồn văn chương truyền thống. Dưới sự
lãnh đạo của Phạm Quỳnh Nam Phong tạp chí đã thu hút được sự tham gia
của đông đảo các nhà Nho mà tiên phong phải kể đến Nguyễn Trọng Thuật,
Nguyễn Hữu Tiến… Đồng thời nhiều tác phẩm văn chương Trung Đại đã

2


được dịch sang chữ Quốc ngữ, mà trong đó ngoài thơ còn có cả những tác
phẩm văn xuôi nghệ thuật quan trọng như Thượng kinh ký sự (do Nguyễn
Trọng Thuật dịch năm 1923) hay Vũ Trung tùy bút (do Nguyễn Hữu Tiến dịch
năm 1927). Có thể nói công cuộc bảo tồn vốn cổ được tiến hành trên Nam
phong tạp chí có hệ thống và hiệu quả hơn so với Đông Dương tạp chí. Và
trên phương diện này công lao của tờ tạp chí với Quốc văn không phải là
nhỏ”. [22, 154]. Trong bài viết của mình nhà nghiên cứu đánh giá Nguyễn
Hữu Tiến là nhà dịch thuật và biên khảo xuất sắc.
Trên báo Văn nghệ Hoàng Yên Lưu có bài viết “Nguyễn Hữu Tiến và
việc bảo tồn văn hóa cổ”. Tác giả nhận định “Nguyễn Hữu Tiến được coi là
cây bút uy tín và nhiệt tâm, bền lòng dùng ngòi bút bảo tồn tinh hoa văn học
và văn hóa cũ trước trào lưu văn hóa Tây phương du nhập ào ạt vào đất nước
ta những năm đầu thế kỷ XX”. Trong bài viết của mình Hoàng Yên Lưu ghi
nhận những đóng góp của Nguyễn Hữu Tiến cho công việc biên khảo, dịch
thuật trên Nam Phong và đánh giá Đông Châu đã dành trọn cuộc đời, nhiệt
tình trong việc xây dựng chữ Quốc ngữ và văn học chữ Quốc ngữ.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã viết những dòng chân xác “Ông
là nhà văn cho chúng ta biết về tư tưởng học thuật nước Tàu nhiều hơn cả
những nhà văn lớp cũ. Những bài khảo cứu biên tập và dịch thuật của ông
đăng rất đều trên tạp chí Nam Phong đều là những bài về lịch sử, về phong
tục, về văn minh, luân lý và tôn giáo, văn chương nước Tàu; Ông lại nghiên
cứu và dịch thuật rất công phu riêng về học thuyết Khổng Mạnh và các bực
danh nho Trung Hoa trong các tác phẩm Mạnh Tử quốc văn giải thích, Lịch
sử sự nghiệp Tư Mã Quang, Gương đức dục của Lương Khải Siêu…Những
bài biên tập và dịch thuật của Nguyễn Hữu Tiến thật rất nhiều và rất công
phu; nếu những bài ấy thu gom lại, sẽ là những bộ sách giáo khoa có giá trị về
văn minh học thuật Đông Phương. Trong lúc Hán học tàn cục này những sách

3


của ông lại càng quý lắm, vì chỉ trong vài mươi năm nữa là không có người
làm nổi những việc ông đã làm”.
Trong mục lục phân tích Nam Phong học giả Nguyễn Khắc Xuyên cũng
có cùng nhận xét vai trò quan trọng của Nguyễn Hữu Tiến: “Như các nhà
khảo cứu văn học Việt Nam đã nhận xét về Đông Châu, nếu với nền Pháp văn
thịnh hành ở nước ta, người ta ít chú trọng tới những bài giới thiệu thái tây
của Phạm Quỳnh, thì với nền Hán học suy vong, người ta càng cần đến những
bài dịch thuật và khảo cứu về học thuật và tư tưởng nước Tàu. Phải chăng đó
là khía cạnh có thể trường tồn của Nguyễn Hữu Tiến”. Như vậy nhà nghiên
cứu Nguyễn Khắc Xuyền đã cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của Đông
Châu trên Nam Phong khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ “Điều hòa tân cựu,
thổ nạp Á – Âu” Phạm Quỳnh đã đề ra khi thành lập Nam Phong.
Trong luận văn Sự hình thành và phát triển của một số thể văn xuôi quốc
ngữ trên Nam phong tạp chí của Nguyễn Thị Hồng Nhung thì Đông Châu
được tác giả điểm qua với tư cách là một trong những tác giả nhiệt tình, tích
cực nhất của tờ tạp chí này.
Tóm lại, những nghiên cứu, tìm hiểu của các nhà nghiên cứu về Nguyễn
Hữu Tiến là những phục dựng ban đầu chân dung một trí thức cựu học còn rất
sơ lược. Chính vì thế mà một số đóng góp của ông cho văn học dân tộc vẫn
còn có thể và cần phải tìm hiểu kĩ hơn, đặc biệt là việc tìm hiểu sự nghiệp báo
chí của ông. Chính vì vậy chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Sự nghiệp biên
khảo, trước thuật của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến” nghiên cứu để làm sang
tỏ hơn về nhà báo Đông Châu và những đóng góp của ông cho báo chí và văn
chương giai đoạn giao thời.

4



3. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát toàn bộ sự nghiệp dịch thuật, biên khảo cũng như những sáng
tác văn chương của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến trên Nam Phong tạp chí
người viết muốn hướng tới các mục tiêu sau:
- Tìm hiểu về tiểu sử con người, sự nghiệp và vị trí của Đông Châu trên
Nam Phong.
- Nhìn lại văn nghiệp của Nguyễn Hữu Tiến theo các mảng: dịch thuật,
biên khảo, sáng tác.
- Nghiên cứu kĩ và khẳng định ý nghĩa những sáng tác của ông đã bị bụi
thời gian che lấp.
- Tiến hành so sánh Đông Châu với một số tác giả cùng thời để khẳng
định rõ vai trò, sự nghiệp của ông trên tờ báo Nam Phong.
- Tiến tới nghiên cứu những đóng góp của ông đối với sự phát triển văn
học dân tộc, nhất là văn học Việt Nam trong giai đoạn giao thời.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi tư liệu: Chúng tôi tập chung khảo sát sự nghiệp biên khảo,
trước thuật của Nguyễn Hữu Tiến trên 210 số báo của Nam phong tạp chí trải
dài từ năm 1917 – 1934.
- Phạm vi vấn đề: Qua Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến có thể soi chiếu
những vấn đề rộng lớn hơn là Nam phong tạp chí, đồng thời hiểu được lịch
sử, tiến trình của báo chí Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Hơn nữa từ
sự nghiệp cá nhân của tác giả chúng ta có thể thấy được bối cảnh xã hội
giai đoạn đầu thế kỷ XX, sự thay đổi học thuật, hạn vận của Nho học và sự
lựa chọn các giá trị truyền thống của Việt Nam đầu thế kỷ XX để tồn tại và
phát triển.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn dùng cách tiếp cận văn học sử làm phương pháp bao trùm.
5



- Để cụ thể hóa phương pháp đó các thao tác được sử dụng là: thống kê;
khảo sát; tổng hợp kết hợp phân tích, lý giải để làm nổi bật con người và sự
nghiệp của Nguyễn Hữu Tiến.Thao tác so sánh (đồng đại, lịch đại) cũng là
không thể thiếu, đặc biệt là đối tượng nghiên cứu trong khuôn khổ của Nam
phong tạp chí nói riêng, không khí văn học – báo chí đương thời, đồng thời cố
gắng khu biệt đối tượng để nhận diện những đóng góp riêng cũng như những
hạn chế của tác giả.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có những chương và mục chính
như sau
Chƣơng 1. Đội ngũ tác giả trên Nam Phong tạp chí
1.1. Những tác giả tiêu biểu của phái cựu học
1.2. Những tác giả tiêu biểu của phái tân học
Chƣơng 2. Sự nghiệp văn chƣơng của Nguyễn Hữu Tiến
2.1. Nhà nho Nguyễn Hữu Tiến và nghề báo
2.1.1. Con đường đến với nghề báo
2.2.2. Nguyễn Hữu Tiến với chuyên mục “Tồn cổ lục” trên Nam phong
tạp chí
2.2. Các công trình biên khảo của Nguyễn Hữu Tiến
2.3. Nguyễn Hữu Tiến và công việc dịch thuật
2.4. Sáng tác của Nguyễn Hữu Tiến
Chƣơng 3. Đóng góp của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến cho báo chí và
văn chƣơng đầu thế kỷ XX
3.1. Vai trò của “Nhà báo” Đông Châu
3.2. Đóng góp của Nguyễn Hữu Tiến cho văn chương giai đoạn giao thời

6



NỘI DUNG
Chƣơng 1. ĐỘI NGŨ TÁC GIẢ TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ
1.1. Những tác giả tiêu biểu của phái cựu học
Trong suốt 17 năm tồn tại và phát triển, Nam phong tạp chí đã tập hợp
cho mình một đội ngũ văn nghệ sĩ giàu tài năng và hết sức đa dạng: Tân học
cũng lắm, cựu học cũng nhiều. Đại diện tiêu biểu của phái cựu học là Nguyễn
Hữu Tiến, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn
Mạnh Bổng… Họ là những người bắc chiếc cầu nối liền quá khứ với hiện tại,
bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc.
Đại diện tiêu biểu nhất của phái này có lẽ là Nguyễn Hữu Tiến (biệt hiệu
Đông Châu). Ông làm biên tập cho tạp chí Nam Phong, là người chuyên dịch
thuật các sách chữ Hán ra Việt văn và là người ở lại với Nam Phong đến giờ
phút cuối cùng. Đông Châu cũng là một nhà lí luận phê bình sắc sảo, nhiều
tác phẩm do ông làm công tác biên khảo có giá trị đến tận ngày nay. Ông là
người góp phần lớn vào việc bảo tồn cổ học, điều hòa tân cựu trong gia đoạn
giao thời mưa Âu – gió Á.
Bên cạnh Nguyễn Hữu Tiến phái cựu học còn có sự góp mặt của Nguyễn
Trọng Thuật (biệt hiệu Đồ Nam hay Đồ Nam Tử) – “nhà bỉnh bút của tạp chí
Nam Phong”, tác giả của tiểu thuyết Quả dưa đỏ đã từng gây xôn xao dư luận
một thời. Nói đến Nguyễn Trọng Thuật chúng ta thường nghĩ đến cuốn tiểu
thuyết tiên phong của văn học sử Việt Nam nhưng thực ra sự nghiệp của tác
giả còn vẻ vang hơn thế nhiều, tuy không phong phú bằng Đông Châu. Về
văn học Việt Nam tác giả đã bàn về thơ hay văn ngụ ngôn (Nam Phong, số
116). Chính ông cũng đã soạn một số thơ theo thể đó. Ông cũng nói về
Truyện Kiều, về gia đình, giáo dục… Về vấn đề sử địa ông cũng góp được
nhiều bài như: Cụ Lãn Ông từ số 69, Nguyễn Trường Tộ, danh nhân Hải
Dương từ số 151, Ngũ Hành Sơn… Về tôn giáo ông đã bàn về sách khóa hư
7



(Nam Phong, số 189) và nhất là phật giáo tân luận (từ số 208). Về tác phẩm
dịch người ta phải kể đến Xuân Thu tả truyện (từ số 127). Nguyễn Trọng
Thuật đã bày tỏ ý kiến trong vấn đề tân cựu, mới cũ, cái học xưa và nay.
Chúng ta biết rằng vào năm 1930, bắt đầu đặt vấn đề quốc học. Trong mấy
năm đầu trào lưu mới thắng thế, phái cựu học chịu yên phận để nhường bước.
Nhưng sau một số năm thấy trong đám tân học chưa sáng kiến hay có một
phương pháp tiến thủ khả quan nào cho nên phái cựu học khởi công phản kháng,
đúng hơn lên tiếng cảnh cáo. Trong bài Cùng ai trong ban Tây học (Nam Phong,
số 182) Đồ Nam kết án: “Bất kì Nho học, Tây học, nếu là cái học hủ bại thì đều
đáng trách cả. Cho nên tác giả đã đề nghị một chương trình học mà cho đến nay
chúng ta đọc lại vẫn thấy có giá trị thời sự. Sau cùng có bài nói trắng ra cái học
từ chương khuôn sáo của phái Tây học ngày nay đã được đăng trong số 192, vào
đầu năm 1934. Có lẽ đây là chóp đỉnh cuộc tranh luận Tân Cựu đã ngấm ngầm
hay công khai khởi sự từ vài năm trước. Theo tác giả thì không có hy vọng ở
phái Tây học, bởi vì ngày xưa, học nô lệ thiếu sáng kiến, nhưng được đạo lí, còn
ngày nay có lẽ lại đi vào lối xưa mà kém đạo lí.
Nguyễn Bá Học – “nhà văn đi tiên phong về truyện ngắn lối mới ở nước
ta” (Vũ Ngọc Phan), là nhà cách tân “đại tài” thể truyện ngắn của văn học
truyền thống, xây dựng lên những đoản thiên tiểu thuyết hấp dẫn, mang màu
sắc hiện đại. Nguyễn Bá Học chỉ viết cho Nam Phong trong một thời gian
ngắn nhưng ông đã gây cho mình tên tuổi trong nhóm những tác giả tiêu biểu
của phái cựu học. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, các tác phẩm của
Nguyễn Bá Học lưu tâm nhiều từ nền luân lý cũ đang dần dần tan rã trong
buổi giao thời. Mở đầu truyện cũng như trong khi kể thường xen những câu
ngụ ý răn đời, giảng giải, luận bàn. Nhân vật thường là “con nhà quan” hay
“con nhà có gia thế” gặp cảnh nhà sa sút hoặc được nuông chiều, trở nên hư
đốn hoặc bị gia đình ruồng rẫy mà kiếm kế lập thân. Mặc dù vậy, cũng có một
8



số nét hiện thực, phê phán xã hội đương thời, có cái nhìn xót xa của người
chứng kiến và bất phục tùng. Các tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Bá Học:
Câu chuyện gia đình (Nam Phong, số 10), Chuyện ông Lý Trắm (Số 13), Có
gan làm giàu (23), Câu chuyện nhà sư (số 26), Chuyện cô Chiêu Nhì (Số 43),
Câu chuyện một tối tân hôn (số 46)…
Nguyễn Mạnh Bổng (hiệu Mân Châu) cũng là một trong những cộng tác
viên tích cực của Nam Phong, chuyên đảm trách phần khảo cứu, lược thuật.
Sáng tác của Nguyễn Mạnh Bổng thường thiên về lối phục cổ, đề cao đạo đức
Nho gia. Các tác phẩm chính của Nguyễn Mạnh Bổng: Vì nghĩa quên tình
(1921), Cái giống đa tình (1921), Tây Hồ Phan Chu Trinh (1926), Anh hàng
phở lấy vợ cô đầu (1927), Tiểu sử Tưởng Giới Thạch (1927)…Văn phong của
Nguyễn Mạnh Bổng chau chuốt, bóng bảy, cuốn hút người đọc.
1.2. Những tác giả tiêu biểu của phái tân học
Đại diện tiêu biểu của phái tân học bao gồm: Phạm Quỳnh, Đông Hồ
(Lâm Tấn Phác), Phạm Duy Tốn…
Tác giả đầu tiên phải nhắc đến là Phạm Quỳnh – chủ bút của Nam
Phong.Ông chủ bút họ Phạm là người đóng vai trò quan trọng nhất, vừa là
“con mắt”, vừa là “linh hồn” của tờ tạp chí này. Phạm Quỳnh lấy hiệu là
Thượng Chi và Hồng Nhân, là người viết nhiều nhất trên Nam Phong.Nguyễn
Tiến Lãng đã nói rất đúng về Phạm Quỳnh rằng: “Cho nên trước đây cái tên
Nam Phong gần như lẫn với tên Thượng Chi, đó cũng là đích đáng vậy.” (Nam
Phong, số 199) Địa vị của trong báo Nam Phong và trong văn học sử nước nhà
đều đã được các tác giả công nhận như: Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan,
Thiếu Sơn… và sau này là Chu Đăng Sơn và Trần Việt Sơn trong Luận đề về
nhóm Nam Phong tạp chí (Thăng Long, Sài Gòn,1960)và Nguyễn Duy Diễn
trong Luận đề về Nam Phong tạp chí (Khai Trí, Sài Gòn, 1961). Phạm Quỳnh
đã viết rất nhiều đề tài khác nhau, từ triết học sang văn học, từ chính trị đến xã
9



hội, kinh tế, ngôn ngữ… Như nhiều tác giả đã nhận thấy, giá trị trường cửu của
Thượng Chi không ở những bài giới thiệu, học thuật, tư tưởng Âu Châu, nhất là
Pháp quốc mà ở chính những bài khảo cứu văn học, ngôn ngữ, văn tự nước
nhà. Dĩ nhiên trong khi dịch thuật những tác phẩm nước ngoài, dịch giả đã chịu
tìm tòi những danh từ, ngữ vựng để có thể diễn đạt được trong tiếng mẹ đẻ của
mình, điểm đó chúng ta cũng đã nhận thấy. Sự làm giàu cho Tiếng Việt là một
trong những sự nghiệp văn học của Phạm Quỳnh.Vũ Ngọc Phan cũng nhận xét
Phạm Quỳnh là người chủ trương học thuyết “Đọc sách Tây để thâu thái lấy cái
tư tưởng, lấy tinh hoa văn hóa Âu Tây, để bồi bổ cho nền quốc văn còn khiếm
khuyết, để chọn lấy cái hay của người mà dung hòa cái hay của mình, ngõ hầu
gìn giữ cho cái học của mình không mất bản sắc mà vẫn có cơ tiến hóa được”
Ông là người có kiến thức uyên thâm trên nhiều lĩnh vực, xuất thân Tây học
nhưng ông rất am hiểu văn hóa, văn học truyền thống, vì vậy các bài viết của
ông cũng hết sức phong phú, đa dạng, từ dịch thuật sáng tác đến khảo cứu, lí
luận phê bình… Ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp đáng kể, không
chỉ cho văn học đương thời mà cho cả quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam.Ngay từ số 1 (tháng 7 năm 1917), mục “Văn học Bình luận” đã được thiết
kế với bài bình luận đầu tiên của Phạm Quỳnh: Một bộ tiểu thuyết mới: “Nghĩa
cái chết”, phê bình tiểu thuyết của nhà văn Pháp Paul Bourget. Sau khi phân
tích tác phẩm, tác giả đã hé lộ mục đích của việc bình luận văn học: “Cái mục
đích chúng tôi trong những bài bàn này là muốn giới thiệu những sách văn
chương hay của Âu Châu cho người nước ta biết… Cho hay cái quốc văn ta
mới nở còn non nớt chưa đủ sức mà ra vẫy vùng trong bể ngôn luận. Bởi vậy
mà ta phải luyện cho nó cái tư cách ấy. Bài này cũng tức là một bài luyện tập
như thế”. Liền mấy số tiếp sau là các bài: Nghĩa gia tộc (số 2,tr.89-92), Bình
phẩm sách mới:tập thơ Một tấm lòng của Đoàn Như Khuê (số 2, tr.123125); Bàn về bộ tiểu thuyết Vua bể của Eugène Menchior De Vogue (số
10


3, tr.159-167); Mộng hay mỵ, bình luận về tậpGiấc mộng con của Tản Đà

Nguyễn Khắc Hiếu (số 7, tr.23-25) và Pháp văn tiểu thuyết bình luận: Phục thù
cho cha của Paul Bourget, tất cả cũng đều là của tác giả Phạm Quỳnh. Ông quả
là một chủ bút uyên bác, “có thể bàn luận một cách vững vàng và sáng suốt bất
cứ về một vấn đề gì” [39, 462]. Ngòi bút Phạm Quỳnh thường vượt ra ngoài
phạm vi bình luận tác phẩm cụ thể để hướng tới khái quát các vấn đề của lí
luận văn học, chẳng hạn, nhân Bàn về bộ tiểu thuyết Vua bể, ông đề cập đến
đề tài của một tác phẩm tiểu thuyết: “Cái phạm vi của tiểu thuyết thật là
không có nhất định: có khi rất hẹp, mà có khi rất rộng; có khi chỉ chủ một
người, chỉ khu trong một nhà, một xóm, có khi gồm cả thế giới” (số 3, tr.159);
về bút pháp miêu tả trong tiểu thuyết: “Phàm tiểu thuyết hay phải tả được cái
tình trạng trong xã hội cùng cái tâm lý trong người ta. Muốn tả cái tình trạng
hiển nhiên, phải có nét bút tài hoa, nhời văn xán lạn, mới diễn được hết những
cảnh phiền phức trong đời người, muốn giải cái tâm lý u âm, phải có con mắt
sáng suốt, trí nghĩ thâm trầm mới gỡ được hết những mối phân vân trong tâm
trí. Hai đằng đều phải có tài mới được, nhưng cái tài trên lưu lộ ra ngoài, mà
cái tài dưới uẩn súc ở trong. Lộ ra ngoài thì dễ đẹp, ẩn ở trong mới cảm sâu”.
Những chỉ dẫn này đối với người sáng tác vào thời điểm bấy giờ hẳn có rất
nhiều bổ ích!
Tác giả thứ hai trong phái cựu học chúng tôi muốn điểm tên là Đông Hồ
(Lâm Tấn Phác). Ông là nhà thơ của xứ Nam Kỳ nhưng lại viết rất nhiều bài
rất có giá trị cho Nam Phong – tờ báo của xứ Bắc. Theo tâm sự của Đông Hồ
chính Nam Phong đã đánh thức nơi ông niềm say mê với quốc văn và quốc
ngữ: “Nằm nhà buồn buồn, tôi lấy mấy quyển sách ra xem thì là mấy tập Nam
Phong cũ. Tôi giở từng số, xem qua một lượt. Tôi gặp bài thơ Le Lac của
Lamartine dịch ra quốc ngữ của cô Lê Cẩm Nhung và của ông Nguyễn Văn
Bông. Tôi để ý đọc, chỉ đọc những bài quốc ngữ thôi, vì bài chữ Tây thì tôi đã
11


thuộc lòng (…) thìra quốc văn có thể diễn nổi những cảnh sắc sáng sủa của

thơ Tây, và cũng có thể diễn nổi những ý tứ thâm trầm, những tư tưởng cao
thượng của thơ Tàu. Tôi tỉnh ngộ, thấy rằng nước ta còn có chữ, giống ta còn
có tiếng nói. Quốc văn ta có nghèo hèn, kém cỏi gì đâu. Tôi bỏ Pháp văn,
quay ra chuyên tâm học chữ quốc ngữ. Cái duyên của tôi với Nam Phong
cũng bắt đầu từ đó, mà cái cảm tình của tôi với tiếng nước nhà đằm thắm
mặn mà cũng bắt đầu từ đó.” Từ năm 1923 Đông Hồ đã nổi tiếng trên Nam
Phong với nhiều bài khảo cứu, tùy bút, kí sự như: Thăm đảo Phú Quốc, Linh
Phượng Kí, Phú Đông Hồ, Hà Tiên Mạc thị sử… Với các tác phẩm đó, có thể
nói Đông Hồ đã trở thành sử gia của họ Mạc và linh hồn của đất Hà Tiên. Bài
kí Thăm đảo Phú Quốc với những trang viết về cảnh hành hình nhà yêu nước
Nguyễn Trung Trực đã gây nhiều xúc động trong lòng độc giả. Bên cạnh Giọt
lệ thu của Tương Phố, tác phẩm Linh Phượng kí của ông cũng đã làm thổn
thức một thế hệ thanh niên thời đó. Tác phẩm là bài văn khóc vợ rất bi thiết
mà Phạm Quỳnh đã có mấy lời giới thiệu: “Nước Tàu kia có bài văn khóc
cháu của Hàn Thoái Chi, nước Nam ta há lại không có tập văn khóc vợ của
Lâm Trác Chi đó ư?”Hà Tiên Mạc thị sử, theo như nhận định của nhà phê
bình Vũ Ngọc Phan, lại là một công trình khảo cứu rất công phu về họ Mạc,
dòng họ có công khai phá vùng đất Hà Tiên, Vũ Ngọc Phan cho rằng “Đông
Hồ đã chịu ảnh hưởng về đường tả thực, nhưng ông cũng giữ được cái giọng
thanh tao của lối thơ cũ. Đó cũng là một điều đặc sắc vậy.” [23, 149]
Phạm Duy Tốn, một nhà văn – trí thức tân học khác của Nam Phong mà
tên tuổi luôn được nhiều người nhắc tới như một người tiên phong trong việc
sáng tác các “Đoản thiên tiểu thuyết”, được coi là những tác phẩm đầu tiên
của thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại: Sống chết mặc bay, Con người sở
khanh… Nhà văn đã trở thành một trong những người mở lối cho giai đoạn
thành tựu rực rỡ của nền văn học Việt Nam cách tân giai đoạn sau này. Thay
12


vì viết những tác phẩm văn xuôi theo khuôn khổ truyền thống Scharfer cho

rằng ông đã “Mở cánh cửa sổ đến một thế giới khác, thế giới không chỉ bao
gồm trí thức và các tầng lớp trên, mà cả nông dân và những người kéo xe cần
lao.” Các nhà phê bình thời bấy giờ so sánh Phạm Duy Tốn với Nguyễn Bá
Học, một nhà văn cùng thời cũng viết về các truyện ngắn. Truyện của Nguyễn
Bá Học dù cũng được coi là văn mới, nhưng vẫn được viết theo phong cách
trang trọng và cổ điển. Như Thanh Lãng đã chỉ ra “Nguyễn Bá Học muốn duy
trì những nền nếp đạo đức nho giáo cổ truyền và cổ súy cho điều đó thông qua
những tác phẩm của mình, còn Phạm Duy Tốn muốn cải cách xã hội, nên các
tác phẩm của ông thường có khuynh hướng hòa nhập vào xã hội hiện thực rất
rõ ràng, sâu sắc”.Sống chết mặc bay là truyện ngắn đầu tay và nổi tiếng nhất
của Phạm Duy Tốn, cũng là truyện ngắn đầu tiên của nền văn học mới Việt
Nam, in trên báo Nam Phong tháng 12 năm 1918. Tác phẩm được giới thiệu
ấn tượng với người đọc dưới tiêu đề chữ to MỘT LỐI VĂN MỚI và lời giới
thiệu đặc biệt của Phạm Quỳnh, câu truyện trải dài suốt ba cột báo.
Trong lớp thanh niên Tây học đầu thế kỷ XX, Nguyễn Tiến Lãng nổi
tiếng trẻ tuổi tài cao. Ở tuổi 13 (1922), đã cộng tác với Tạp chí Hữu Thanh
của Ngô Ðức Kế, phụ trách phiên dịch các bản văn Pháp ra tiếng Việt và viết
những bài khảo cứu dựa theo tài liệu tiếng Pháp, dưới bút hiệu Nguyễn Ðảo
Sinh. 17 tuổi viết cho An Nam Tạp Chí của Tản Ðà rồi Nam Phong Tạp
Chí của Phạm Quỳnh... 21 tuổi đã làm cho Phan Khôi "ngự sử văn đàn" nổi
giận (trong An Nam Tạp Chí, số 39, phát hành ngày 30/4/1932, Vân Bằng có
viết bài nhan đề Tôi thất vọng vì Phan Khôi, có ý chỉ trích Phan Khôi đã "thất
lễ" với Nguyễn Tiến Lãng).Phạm Quỳnh đã trao cho ông tờ Nam Phong khi
vào Huế nhận chức thượng thư.Nguyễn Tiến Lãng viết nhiều thể loại: dịch
thuật, truyện ngắn, cổ tích, phê bình, biên khảo... nhưng chính ông cũng nhận

13


thấy rằng "những sáng tác bằng Pháp văn của tôi đã làm lu mờ các sáng tác

bằng Việt văn". Thật vậy, phần Việt văn đăng trên các báo những năm 30-40
ít được in thành sách, trừ tập truyện ngắnTiếng ngày xanh do nhà xuất bản
Hương Sơn, Hà Nội, in năm 1939 (Rừng Trúc tái bản ở Paris, 1979). Tiếng
ngày xanh, ngày nay xem lại văn phong đã có những nét lỗi thời, trong khi
những sáng tác tiếng Pháp vẫn giữ nguyên chất thơ trong sáng, tính hiện đại
và thành thực.Tìm đọc những tác phẩm của Nguyễn Tiến Lãng không dễ
dàng, phần lớn đều đã tuyệt bản, để giúp độc giả có một cái nhìn chung về
phong cách văn chương Nguyễn Tiến Lãng, chúng tôi xin ghi lại một vài nhận
định từ phía những người đã đọc văn ông hoặc nghe tham luận của ông: Cuốn
Amour d'Annam (Hoa Tiên) dịch truyện thơ Hoa Tiên sang tiếng Pháp do Nhà
xuất bản Ðắc Lập, Huế, in năm 1939, là một tác phẩm giá trị, Lucien
Thiollier trong lời phi lộ cuốn La colline des Abricotiers - Mai Lĩnh cho rằng:
dịch giả đã hội tụ được cả âm điệu lẫn hình ảnh trong thơ Hoa Tiên, chuyên
chở những tình cảm cao thượng lẫn tiết tháo của tâm hồn Việt trong bản dịch
tiếng Pháp và làm nổi bật thi tài Nguyễn Tiến Lãng. Bài tham luận Mariage
de la plume et du pinceau - Kết hợp bút văn và bút vẽ đọc tại Ðại học Ðông
Dương, Hà Nội năm 1936 (được cử tọa Pháp thời ấy coi như một áng văn trác
tuyệt), Nguyễn Tiến Lãng đã nói lên quan điểm văn học và tư tưởng của
mình. Dùng nghệ thuật thi ca của một nhà thơ phương Tây giao hòa với nghệ
thuật hội hoạ của một hiền triết phương Ðông để họa nên những bức tranh tư
tưởng mà Ðông Tây hòa hợp, An Nam mở ngỏ trái tim mình, chờ đón những
nhịp đập đồng điệu từ những chân trời khác...Truyện ngắn đầu tiên làm nổi
danh Nguyễn Tiến Lãng trên văn đàn làEurydice, viết tại Yên Bái tháng 12
năm 1931. Eurydice đoạt giải nhất kỳ thi truyện (concours de contes) của báo
Indochine năm 1932, (ông Pujarniscle giáo sư Pháp văn của Nguyễn Tiến
Lãng tại trường Bưởi đoạt giải nhì). Thời ấy danh từtruyện ngắn (nouvelle)
14


hình như chưa mấy thông dụng, người ta thường dùng chữtruyện (conte) để

chỉ những đoản văn mà sau này chúng ta gọi là truyện ngắn.Eurydice được cả
Ðông Hồ lẫn Nguyễn Tiến Lãng dịch ra tiếng Việt dưới tên Tình xưa.
Tiểu kết chƣơng 1
Các nhà nghiên cứu báo chí và văn học đánh giá Nam Phong là một
trong những tạp chí đầu tiên của Việt Nam đúng thể thức, bài bản và giá trị về
tri thức, tư tưởng. Nam Phong thường đăng nhiều bài văn, thơ, truyện ngắn,
phê bình văn học và tài liệu lịch sử bằng chữ Quốc Ngữ. Với ý tưởng Nam
Phong là ngọn gió nước Nam. Ngay từ đầu tôn chỉ của nguyệt san đã nêu rõ:
Diễn đạt truyền bá tư tưởng học thuật đông tây kim cổ; Luyện quốc văn trở
nên hoàn thiện, bồi dưỡng Việt ngữ trở nên phong phú, uyển chuyển, sáng sủa
và gẫy gọn; Lấy đó làm nền tảng dân tộc rồi phát triển thành tinh thần dân tộc.
Dưới sự chỉ đạo mềm dẻo và thâm thúy của Phạm Quỳnh, các tôn chỉ đó được
thể hiện sinh động trên cơ sở các chuyên mục của tạp chí, như: Lý thuyết,
Văn hóa bình luận, Khoa học bình luận, Triết học bình luận, Văn uyển, Tạp
văn, Thời đàm, Tiểu thuyết… Mục đích chính của Nam Phong là dùng chữ
Quốc ngữ để diễn tả, giải thích các tư tưởng, học thuật Âu – Á để mang
những kiến thức này đến cho người không biết tiếng Pháp hoặc chữ Nho đồng
thời truyền bá chữ Quốc ngữ vào Việt Nam, nâng cao trình độ chữ Quốc ngữ
thành một nền ngôn ngữ so sánh được với tiếng Pháp và chữ Nho. Để thực
hiện mục đích trên nhóm biên tập tạp chí đã khảo cứu và viết bài về triết học,
khoa học, văn chương, lịch sử của Á Đông và Âu Tây. Đăng những sáng tác
đương đại: truyện ngắn, du ký, tùy bút… Dịch các tác phẩm triết học, văn học
từ tiếng Pháp hoặc chữ Nho. Sưu tầm và đăng tải thơ văn cổ của Việt Nam kể
cả chữ Nho và chữ Nôm. In lại các sánh cũ của Việt Nam như Lịch triều hiến
chương loại chí.
15


Như chúng ta đã biết Nam Phong tạp chí ra đời và phát triển thu hút
được một đội ngũ tác giả đông đảo và có chất lượng nhất so với các tờ báo

khác cùng thời. Các tác giả xuất thân từ cựu học cũng lắm, từ tân học cũng
nhiều. Tất cả các “nhà báo” cựu phách của Nam Phong đều có vốn Hán học
uyên thâm hoặc là những nhà tân học tài hoa.Họ tỏ ra nhạy bén với thời cuộc,
có ý thức bảo tồn vốn cổ, phát triển ngôn ngữ dân tộc. Họ đã cùng nhau cho
ra đời hàng loạt chuyên mục hấp dẫn của tạp chí đồng thờivới lối viết vừa
uyên thâm, vừa cuốn hút, hiện đại, mới mẻ chính họ đã góp phần quyết định
khiến tạp chí trở nên nổi tiếng nhất trong giai đoạn giao thời, có ảnh hưởng
sâu rộng trên hai phương diện văn tự và học vấn. Về văn tự Nam Phong đã
sáp nhập vào tiếng Việt nhiều danh từ triết học, khoa học mới, và luyện cho
chữ Quốc ngữ có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học,
khoa học mới. Về đường học vấn tạp chí đã cho phổ biến những điều yếu
lược của học thuật Âu Tây, đồng thời diễn đạt những điều đại cương trong các
học thuyết cổ của Á Đông như Nho học, phật học… và bảo tồn những điều
cốt yếu trong văn hóa Việt Nam xưa (văn chương, phong tục, lễ nghi). Dù tờ
tạp chí hiện không còn tồn tại nhưng văn học Việt Nam mãi ghi nhận những
cái tên như Phạm Quỳnh, Đông Hồ Lâm Tấn Phác, Nguyễn Bá Học, Nguyễn
Hữu Tiến, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Duy Tốn, Dương Bá
Trác, Dương Quảng Hàm, Nam Trân…

16


Chƣơng 2. SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG CỦA NGUYỄN HỮU TIẾN
2.1. Nhà nho Nguyễn Hữu Tiến và nghề báo
2.1.1. Con đường đến với nghề báo
Nguyễn Hữu Tiến, bút danh Đông Châu, sinh năm Ất Hợi (1875) tại làng
Đông Ngạc – Từ Liêm, tỉnh Hà Đông nay thuộc làng Đông Ngạc – Từ Liêm –
Hà Nội. Tạ thế năm 1941 tại quê hương. Ông thi hương đậu tú tài nhưng
không theo hoạn lộ mà chuyển sang con đường báo chí và biên khảo. Khi
Nam Phong ra đời ông đã được mời cộng tác và hỗ trợ cho chủ bút Phạm

Quỳnh – một cây bút tân học để tăng thêmgiá trị cho một tờ báo chủ trương
dung hòa Đông Tây. Ông là cộng tác viên đầu tiên và liên tục nhiều năm của
tạp chí Nam Phong. Ông chính là người chứng kiến từng bước trưởng thành
của tờ tạp chí này và cũng là người viết lời cáo chung cho tờ báo khi số báo
cuối cùng 210 được ấn hành.
Ông từng làm phiên dịch cho Nhà xuất bản Đông Kinh ấn quán trước khi
gia nhập làng báo.Gia nhập làng báo, Nguyễn Hữu Tiến đóng góp rất nhiều
bài vở, vừa biên khảo, vừa dịch thuật và sáng tác choNam Phong hơn 17 năm
trời. Điều hậu thế không bao giờ quên là Nguyễn Hữu Tiến đã dành trọn cuộc
đời, nhiệt tình trong việc xây dựng chữ quốc ngữ và nền văn học chữ quốc
ngữ. Phần lớn công trình nghiên cứu của ông đều được công bố trên tạp chí
Nam Phong và sau được in thành sách. Các công trình của ông là những
chuyên luận về phong tục, luân lí, tôn giáo và văn chương Trung Quốc. Ông
có công rất lớn trong việc giúp người Nam hiểu các học thuyết, văn chương,
triết lí, Trung Quốc học qua những bài biên khảo và dịch thuật có giá trị, nhất
là rất công phu. Những bài biên khảo và những tác phẩm của ông góp nhặt là
những bộ sách giáo khoa hiếm có về nền văn minh và học thuật Đông
17


phương. Nguyễn Hữu Tiến còn là một tác giả về các danh nhân, thi sĩ Việt
Nam.Ông là một trong những người Việt Nam đầu tiên sưu tầm, chọn lọc thơ
văn cổ Việt Nam, đăng báo. Có chương giảng về luật làm thơ, đủ các thể, kèm
theo 100 bài mẫu, hợp thành “Cổ súy nguyên âm” (1917). Ông còn giữ mục
“Nam âm thi văn khảo biện”, “Tồn cổ lục”, “Việt Nam tổ quốc túy âm”, bước
đầu nghiên cứu các tác gia Việt Nam: Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Hữu Chỉnh,
Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê (Nam Phong, 1929). Trên
tạp chí Nam Phong Đông Châu giữ chân biên tập đều đặn, chuyên coi mục
dịch thuật “Hán văn”, biên khảo, khảo cứu lịch sử và văn hóa. Ông là cây bút
kì cựu, góp nhiều bài dịch, biên khảo và bài viết cho hai chuyên mục lớn

“Hán văn” và “Việt Hán văn khảo” của tạp chí.
Về sự nghiệp văn học cũng đồng thời là sự nghiệp báo chí, người đọc
nhớ tới ông là nhớ tới các tác phẩm lớn mang đậm dấu ấn của ông. Đầu tiên
chúng ta phải nhắc đến Giai nhân di mặc (1917) lần đầu giới thiệu sự tích và
thơ Hồ Xuân Hương (Nhà xuất bản Đông Kinh ấn quán, Hà Nội), cùng năm
này ông cho xuất bản cuốn Cổ súy nguyên âm: Lối văn thơ Nôm (Nhà xuất
bản Đông Kinh ấn quán, Hà Nội). Bản dịch Vũ Trung tùy bút đăng trên Nam
Phong (1927 – 1928) là một tác phẩm dịch dài hơi của Đông Châu có giá trị
cung cấp nhiều tư liệu về xã hội Việt Nam cuối đời Lê – Trịnh. Bản dịch
Lĩnh Nam dật sử in trên các số báo Nam Phong tạp chí trải dài suốt năm
1921.Việt văn hợp tuyển giảng nghĩa (1925) cùng soạn với Lê Thành Ý là
tác phẩm đầu tiên về loại hợp tuyển.Về lĩnh vực tuồng, vở tuồng Đông A
song phụng (1916) Đề cao Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão qua cuộc tình
duyên giữa nguyên quận chúa và người anh hùng chống giặc ngoại xâm
xuất thân dân dã. Về Nho giáo ông dịch Mạnh Tử quốc văn giải thích (1924
– 1931) và Luận ngữ quốc văn giải thích (1931 – 1933) cùng soạn với
Nguyễn Đôn Phục.
18


Nguyễn Hữu Tiến trong vai trò nhà báo, tỏ ra quan tâm tới những gì nóng
bỏng xảy ra quanh mình. Ông từng viết trên Nam Phong đề cập tới những
thắc mắc chung của độc giả về văn học và xã hội như những bài: Thơ mới và
thơ cũ (Nam Phong, số 193), Một đạo luật bảo vệ tằm tơ (Nam Phong, số
200), Tình trạng sinh hoạt dân quê hiện nay (Nam Phong, số 209).
Nguyễn Hữu Tiến giống như phần nhiều trí thức đầu thế kỉ XX đã nhập
vào công cuộc cải cách văn hóa, canh tân xã hội bằng báo chí. Và ở vị trí
người làm báo ông đã hoạt động không chỉ như một nhà văn, mà còn là nhà
sử học có hiểu biết sâu rộng cả trên phương diện học thuật và văn hóa. Đóng
góp của ông cho nền “quốc văn mới” của Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ 20 là

rất quan trọng.
2.1.2. Nguyễn Hữu Tiến với chuyên mục “Tồn cổ lục” trên Nam Phong
tạp chí
Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến là một nhà Nho có vốn Hán học sâu rộng,
sở trường này của ông được phát huy và thể hiện rõ nét khi ông giữ mục “Tồn
cổ lục” – Chuyên mục chuyên khảo về văn thơ cổtrên Nam Phong tạp
chí.Riêng trong chuyên mục này chúng tôi đã có điều kiện khảo sát, thống kê
từ số báo thứ nhất đến số 210 – số báo cuối cùng của Nam phong. Theo số
liệu thống kê của chúng tôi trong chuyên mục chủ chốt trên của tờ tạp chí số
lượt bài đăng và số trang chiếm lĩnh của từng tác phẩm do Đông Châu dịch và
biên khảo luôn chiếm tỉ lệ lớn.
Có thể thấy trong những chuyên mục này các bài được dịch chủ yếu từ:
Tình sử, Mạnh Tử, Kim cổ kì quan, Tiền Hán thư, Sử kí, Cổ văn... Lựa chọn
những câu chuyện, những áng văn thơ phản ánh những vấn đề bức thiết trong
cuộc sống, Đông Châu đã vừa giữ vững được phương châm “Bảo tồn cổ học”
của tờ báo vừa đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của độc giả đương thời.
Mặt khác những câu chuyện dịch này sẽ đồng thời đảm nhiệm vai trò đưa tri
19


×