Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ vào việc thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn tỉnh Thái Bình : Luận văn ThS. Khoa học Chính trị: 60 31 20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ THỊ HẠNH

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
DÂN CHỦ VÀO VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN TỈNH THÁI BÌNH
(TỪ 1998 ĐẾN 2010)

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ THỊ HẠNH

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
DÂN CHỦ VÀO VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN TỈNH THÁI BÌNH
(TỪ 1998 ĐẾN 2010)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60.31.20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Chí Bảo


Hà Nội - 2012


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ 8
1.1.

Nhận thức chung về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa

8

1.2.

Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh

14

1.3.

Thực hành dân chủ ở nông thôn để đảm bảo phát huy quyền 31
làm chủ của nông dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM 41
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN
TỈNH THÁI BÌNH DƢỚI ÁNH SÁNG TƢ TƢỞNG
DÂN CHỦ HỒ CHÍ MINH.


2.1.

Thực trạng việc thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn tỉnh 41
Thái Bình (Từ năm 1998 đến năm 2010) dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh.

2.2.

Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở 66
nông thôn Thái Bình

2.3.

Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc 71
thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn tỉnh Thái Bình trong
giai đoạn hiện nay.
KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92

PHỤ LỤC

96

1



BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

CTQG

: Chính trị quốc gia

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
HTCT

: Hệ thống chính trị

HĐND


: Hội đồng nhân dân

MTTQ

: Mặt trận tổ quốc

NXB

: Nhà xuất bản

QCDC

: Quy chế dân chủ

PLDCCS

: Pháp lệnh dân chủ cơ sở

UBND

: Ủy ban nhân dân

KT - XH

: Kinh tế - xã hội

HTX

: Hợp tác xã


2


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là xu hướng khách quan của phát triển và tiến bộ xã hội , là khát
vọng ngàn đời của con nguời để vươn tới tự do và làm chủ. Dân chủ không chỉ là
bản chất, mà còn là mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới ở nước ta theo
định hướng XHCN. “Không thể có một CNXH thắng lợi mà lại không thực hiện
dân chủ hoàn toàn” [59, tr.324]. Vì vậy, thực hiện dân chủ XHCN, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề cấp thiết. Chỉ có phát huy quyền làm chủ
thật sự của nhân dân trong quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện các chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước theo phương châm: “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thì mới huy động được sức mạnh tổng hợp
của toàn dân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà mác xít sáng tạo lớn của cách mạng
Việt Nam. Tư tưởng bao trùm của Người thể hiện ở nguyên lý độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, Người đặc biệt
chú trọng tới vấn đề dân chủ, từ cách mạng dân tộc dân chủ tới cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Người không chỉ để lại những kiến giải sâu sắc về dân chủ và thực
hành dân chủ mà Người còn trực tiếp nêu gương về lối ứng xử dân chủ đối với
con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống. Do đó, chúng ta cần vận
dụng tư tưởng dân chủ của Người vào sự nghiệp đổi mới hiện nay, đặc biệt trong
cuộc vận động dân chủ hóa để thực hiện QCDC ở cơ sở.
Đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, những năm qua, Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị định, Chỉ thị quan trọng nhằm phát huy
quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân để phát triển kinh tế, ổn định chính trị,
phát triển xã hội: Chỉ thị 30- CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện

Quy chế dân chủ ở cơ sở; Chỉ thị 22/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
3


việc triển khai thực hiện QCDC ở xã; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP của Chính
phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã,... Đây là một bước tiến lớn thể hiện
sự quyết tâm củng cố, hoàn thiện và phát triển nền dân chủ XHCN của Đảng và
Nhà nước ta, đồng thời cũng là phương thức giải quyết các nhiệm vụ, mục tiêu
chung của đất nước trong công cuộc đổi mới.
Việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về QCDC ở cơ sở trên phạm vi cả nước, thời gian qua, đã thu được nhiều
thành tựu quan trọng, thu hút được sự quan tâm hàng ngày của tất cả các tầng lớp
xã hội. Điều đó chứng tỏ đây là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, đáp ứng
được nhu cầu bức thiết và lợi ích to lớn, trực tiếp của đông đảo quần chúng nhân
dân lao động, được nhân dân đón nhận và tích cực thực hiện.
Tuy nhiên, sau nhiều năm triển khai, trên địa bàn tỉnh Thái Bình, tình hình
thực hiện QCDC ở cơ sở vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm: một số nơi, việc
xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở chưa đạt yêu cầu, quyền làm chủ của nhân
dân còn bị vi phạm; một số cán bộ có trách nhiệm không muốn triển khai thực
hiện QCDC ở cơ sở, hoặc triển khai một cách hình thức, chiếu lệ, nhiều người
chưa nhận thức đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, do đó, tình trạng nhũng
nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân vẫn còn xảy ra; một bộ phận nhân dân mới chỉ
thấy quyền lợi nhiều hơn nghĩa vụ, hiện tượng lợi dụng dân chủ, dân chủ quá trớn
đang là nguy cơ làm suy yếu mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân,
gây không ít khó khăn cho việc phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội,...
Để chủ động phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực
trong quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở cần phải thường xuyên nghiên cứu lý
luận, chú trọng tổng kết thực tiễn, khắc phục những thiếu sót trong quá trình xây
dựng và thực thi chính sách. Đó là việc làm cần thiết. Vì lẽ đó, tác giả lựa chọn
vấn đề : “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ vào việc thực hiện quy


4


chế dân chủ ở nông thôn tỉnh Thái Bình (từ 1998 đến 2010" làm đề tài nghiên
cứu của mình trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ lâu, vấn đề dân chủ đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà hoạt
động chính trị cũng như các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn ở trong nước và trên thế giới. Đặc biệt, từ khi có chỉ thị 30-CT/TW của
Bộ Chính trị (khóa VIII), ngày 18/2/1998, về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ
sở, nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn đã có những công trình nghiên cứu,
tổng kết về vấn đề dân chủ ở cơ sở. Cụ thể như, những nghiên cứu về dân chủ và
dân chủ cơ sở ở nông thôn có : Dân chủ là giải phóng, tác giả Hồ Văn Thông.Tạp
chí cộng sản số 3/1990; Dân chủ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, tác giả Hoàng
Chí Bảo. Tạp chí Thông tin lý luận số 7/1998. Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa, tác giả Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo. Nxb Sự thật, H, 1991. Dân chủ ở
cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ, tác giả Lê Minh Châu, Tạp
chí Quản lý nhà nước , số 1/1999. Những nghiên cứu về tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh có: Dân chủ - Di sản văn hóa Hồ Chí Minh, [tác giả Nguyễn Khắc
Mai]. Nxb Sự thật, H, 1997 ;Về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, [tác giả
Hoàng Trang]. Bác Hồ nói về dân chủ tập trung, tác giả Đặng Đình Phú, Tạp chí
Cộng sản, số 8/1999 ; Những nghiên cứu về thực hiện quy chế dân chủ ở nông
thôn có : Những lực cản đối với quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam - tác giả
Hoàng Chí Bảo. Báo nhân dân ngày 22/4/1998 ; Tổng quan về dân chủ và cơ chế
thực hiện dân chủ: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu, tác giả Hoàng
Chí Bảo. Tạp chí Thông tin lý luận số 9/1992; Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp
xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của GS. TS Dương Xuân Ngọc, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.


5


Ngoài ra còn có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học,
các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và vấn đề
dân chủ, dân chủ hóa ở nước ta (xem danh mục tài liệu tham khảo).
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu
trên đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc thực hiện QCDC
ở cơ sở, đồng thời phân tích, lý giải yêu cầu, cách thức tổ chức, biện pháp... để
thực hiện tốt QCDC ở cơ sở một các khá sâu sắc. Do vậy, những tài liệu nêu trên
sẽ là nguồn tư liệu tham khảo bổ ích đối với tác giả.
Ở nước ta, nông thôn gắn liền với nông nghiệp và nông dân là cả một địa
bàn rộng lớn. Vì lẽ đó, sẽ là cần thiết khi tác giả chọn Thái Bình làm điểm khảo
sát, lấy đó làm điểm khu biệt, giới hạn của đề tài nghiên cứu. Tác giả hy vọng
rằng, thông qua nghiên cứu đề tài này sẽ có được những thu hoạch bổ ích về lý
luận và thực tiễn phục vụ cho việc tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời góp phần làm trong sạch, lành
mạnh hệ thống chính trị ở cơ sở - điều kiện và nội dung hợp thành của sự phát
triển bền vững ở từng địa phương và trên cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn trình bày những nội dung chủ yếu về dân chủ trong tư tưởng Hồ
Chí Minh và sự vận dụng những tư tưởng đó vào việc xây dựng và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt ở nông thôn tỉnh Thái Bình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
- Hệ thống hóa nội dung tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.
- Trình bày quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở của tỉnh Thái Bình từ 1998
đến năm 2010, bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm .

6


- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh vào việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về dân chủ
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Bên
cạnh đó, tác giả cũng kế thừa, chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số nhà
khoa học đã được công bố về vấn đề dân chủ cơ sở.
Cơ sở thực tiễn là quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
Thái Bình trong thời gian qua (1998 đến năm 2010).
Phương pháp nghiên cứu : Từ góc độ chính trị - xã hội tác giả luận văn
vận dụng phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích và
tổng hợp, điều tra xã hội học, so sánh, tổng kết thực tiễn để nghiên cứu và trình
bày kết quả nghiên cứu.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Những quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ và những biện pháp thực
hiện dân chủ thể hiện trong những tác phẩm chủ yếu của Người ở thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
- Khảo sát thực tế tại địa bàn tỉnh Thái Bình để đánh giá hiện trạng và các
vấn đề đặt ra trong việc thực hiện QCDC ở nông thôn từ năm 1998 đến năm 2010.
6. Cái mới về mặt khoa học của luận văn
Góp phần hệ thống hóa và làm rõ những nội dung lý luận về dân chủ
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng đó vào việc xây dựng và thực
hiện quy chế dân chủ ở nông thôn trong thời gian tới, qua thực tiễn Thái Bình.
7. Kết cấu


7


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương và 6 tiết.

Chƣơng 1:
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1.1. Nhận thức chung về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1.1

Dân chủ trong học thuyết Mác - Lênin
Thuật ngữ dân chủ xuất hiện từ thời cổ đại. Người đầu tiên đưa ra khái

niệm dân chủ là nhà sử học, nhà chính trị học người Hy Lạp là Hêrôđốt (484 - 425
trước Công nguyên) khi ông xem xét các thể chế chính trị trong lịch sử. Theo ông,
lịch sử đã xuất hiện ba kiểu thể chế chính trị: quân chủ, quý tộc và dân chủ, trong
đó dân chủ là thể chế chính trị do nhân dân nắm quyền lực thông qua con đường
bầu cử. Để chỉ một hiện thực dân chủ đã được thiết lập trên thực tế, trong ngôn
ngữ đã xuất hiện thuật ngữ democratia, nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân
(democratia là từ ghép của hai từ demos là nhân dân, cratos là quyền lực). Như
vậy, “dân chủ là quyền lực của nhân dân, thuộc về nhân dân”. Nhân dân là chủ thể
của quyền lực, sử dụng quyền lực để tổ chức, quản lý xã hội, phát triển xã hội,
phát triển con người. Với ý nghĩa đó, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển xã hội - nhất là từ khi xã hội có giai cấp, được tổ chức thành nhà
nước.
Nội hàm khái niệm dân chủ, về cơ bản, vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay.
Điểm khác biệt căn bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ đại và thời hiện đại là ở
8



tính chất trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng và ở cách hiểu về
khái niệm nhân dân. Với tính phức tạp như vậy, khi nghiên cứu dân chủ, ta cần
xem xét nó trong sự vận động, phát triển, biến đổi của những điều kiện lịch sử, cụ
thể.
Mác, Ăngghen, Lênin đều nhận thức sâu sắc vai trò của nhân dân trong tiến
trình lịch sử và cho rằng một nền dân chủ thực sự phải gắn liền với sự nghiệp của
nhân dân. Nhân dân trong quan niệm của các ông là “tuyệt đại đa số nhân dân ”
và “dân chủ là sự thống trị của đa số”.
Dân chủ là một hiện tượng lịch sử- xã hội, xuất hiện và phát triển với tư
cách là kết quả trực tiếp của đời sống chính trị và sự vận động chính trị của các
giai cấp nhằm giải quyết vấn đề quyền lực thuộc về giai cấp nào trong xã hội.
Lênin khẳng định, trong xã hội có giai cấp, không có một nền “dân chủ chung
chung”, “dân chủ thuần tuý”. Dân chủ bao giờ cũng có tính giai cấp, phản ánh lợi
ích giai cấp. Người cho rằng khi xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải luôn
luôn đặt câu hỏi: dân chủ cho ai và cho cái gì? tự do đối với ai, vì ai và vì cái gì ?
Lênin nhấn mạnh bản chất giai cấp của dân chủ ngay cả khi dân chủ hàm chứa
những nội dung về tự do, bình đẳng. Người nói dân chủ nghĩa là bình đẳng và
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để giành quyền bình đẳng, thực hiện khẩu hiệu
bình đẳng có ý nghĩa rất lớn, miễn là phải hiểu bình đẳng cho đúng, hiểu theo
nghĩa xoá bỏ giai cấp [62, tr.122].
Từ góc độ chính trị, chế độ dân chủ biểu hiện mình thông qua chế độ nhà
nước, nhưng nhà nước đó mà càng dân chủ bao nhiêu thì càng mau đi đến tiêu
vong bấy nhiêu.Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước sẽ
tiêu vong khi chủ nghĩa cộng sản đã hoàn toàn được xác lập và chiến thắng trên
toàn thế giới. Song cần nhấn mạnh rằng, sự tiêu vong của nhà nước cũng chỉ mất
đi các hình thái biểu hiện quyền lực bằng nhà nước của dân chủ, chứ không làm
mất đi nhu cầu dân chủ của xã hội mà cốt lõi là vấn đề toàn bộ quyền lực thuộc về
9



nhân dân, do nhân dân tự quản lý, tự quyết định mọi vấn đề của chính họ. Nó
cũng không hề làm mất đi giá trị của dân chủ mà trung tâm của giá trị này là tự
do và sáng tạo cho con người. Nhà nước sẽ tự tiêu vong khi chủ nghĩa cộng sản
đưa lại một chế độ dân chủ thực sự hoàn bị. [62, tr.101, 123]
Dân chủ tư sản và dân chủ XHCN là hai chế độ dân chủ tiêu biểu, hai trình
độ phát triển điển hình của dân chủ chính trị. Chủ nghĩa Mác- Lênin khi đánh giá
về chế độ dân chủ tư sản, coi đó là một tiến bộ lớn về mặt lịch sử so với chế độ
quân chủ chuyên chế và khẳng định “phải lợi dụng chế độ dân chủ tư sản”. Quan
điểm này của các nhà kinh điển mác xít có ý nghĩa thực tiễn rất sâu sắc trong tình
hình hiện nay. Nó nhắc nhở chúng ta khi xem xét dân chủ không chỉ căn cứ vào
tính giai cấp mà còn phải đứng trên quan điểm lịch sử và phải có thái độ biện
chứng, khoa học đối với những thành tựu dân chủ của nhân loại với tính cách là
những giá trị liên tục qua các thời đại lịch sử.
Khi Lênin đánh giá dân chủ tư sản là dân chủ giả dối, Người không nói
bản thân dân chủ là giả dối mà nói giai cấp tư sản trong vận dụng dân chủ là giả
dối, lấy dân chủ làm chiêu bài lừa gạt nhân dân. Một số hình thức dân chủ của dân
chủ tư sản như dân chủ nghị viện, quyền lực phân lập, tranh cử, tố tụng…đều là
những hình thức dân chủ xét trên mọi ý nghĩa nào đó là tiến bộ, có thể gợi mở cho
chúng ta tham khảo vào việc xây dựng thể chế dân chủ hiện nay. Chúng ta cần
phân biệt rõ tính chất giả dối của dân chủ tư sản với việc giai cấp tư sản đã sáng
tạo ra những hình thức dân chủ hợp lý. Những hình thức dân chủ này hợp thành
tài sản tinh thần chung của nhân loại và cần được khai thác, kế thừa, phát triển.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đánh giá cao tính ưu việt của dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Chế độ dân chủ vô sản so với bất kỳ chế độ dân chủ tư sản nào cũng “dân
chủ hơn gấp triệu lần”. Xét về mặt lôgíc, chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là sự thay thế hợp quy luật, có trình độ và chất lượng cao hơn chủ nghĩa
tư bản và nền dân chủ tư sản. Nhưng về mặt thực tiễn lịch sử thì chủ nghĩa xã hội
10



và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa ở trình độ thuần thục, còn đang trong quá
trình hình thành và phát triển để trở thành một hiện thực phổ biến. Khi nghiên cứu
quan điểm của các nhà kinh điển, ta cần hiểu đúng tinh thần luận điểm này.
Chủ nghĩa Mác- Lênin còn chỉ rõ sự khác nhau rất cơ bản giữa dân chủ tư
sản và dân chủ vô sản trong kinh tế. Dân chủ tư sản dựa trên chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, thực chất là dân chủ của thiểu số giàu có. Dân chủ XHCN có cơ sở
kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Mác gọi những chiêu bài
mị dân trong kinh tế của dân chủ tư sản là “một nhãn hiệu giả dối”. Lê nin vạch
rõ: khi quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và chính quyền nằm trong tay giai cấp bóc
lột, thì không thể nào có tự do chân chính, bình đẳng chân chính cho những người
bị bóc lột, nghĩa là cho đại đa số nhân dân.
Trong nền dân chủ XHCN, tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản
nhằm bảo đảm việc thực hiện dân chủ. Lênin đòi hỏi cao việc phải bảo đảm tôn
trọng sự thật, thảo luận tập thể, dân chủ công khai, khuyến khích sự tranh luận
thẳng thắn, xây dựng, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân, tăng cường kiểm tra
bằng pháp luật, kỷ luật. Tinh thần ấy thể hiện trong công thức của Lênin về tập
trung và dân chủ “thảo luận thì chung còn trách nhiệm thì riêng, riêng tới từng
người một”.
Thước đo trình độ thực hiện dân chủ ở một chế độ xã hội là ở mức độ và
khả năng thu hút quần chúng tham gia vào công việc của nhà nước và xã hội.
Lênin cho rằng cần phải “phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của
sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn” [62, tr.97].
Chủ nghĩa Mác-Lênin còn cho rằng, dân chủ là thành tựu của nền văn hoá
và văn minh của nhân loại. Mỗi bước tiến của dân chủ và mỗi trình độ phát triển
của dân chủ là những nấc thang khác nhau của tiến bộ xã hội, phản ánh những kết
quả khác nhau theo xu hướng ngày càng cao hơn và hoàn thiện hơn của tổ chức xã
hội, của quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Dân chủ với ý nghĩa là thành tựu văn
11



hoá của nhân loại, là giá trị xã hội biểu hiện sâu sắc ở chủ nghĩa nhân đạo và nhân
văn. Bởi vì dân chủ là thành quả đấu tranh giải phóng con người ra khỏi mọi áp
bức và nô dịch, nó đề cao và tôn trọng giá trị con người. Với tư cách là giá trị, dân
chủ gắn liền với quyền con người (nhân quyền và dân quyền) , quyền sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Dân chủ xét trên quan điểm nhân văn, nó là
môi trường và điều kiện của sự trưởng thành và phát triển nhân cách.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định dân chủ là thước đo về trình độ
giải phóng con người mà loài người đã đạt được trong mỗi thời đại lịch sử. Trong
quá trình chuyển tiếp các phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất có ý nghĩa
quan trọng để đánh giá sự tiến bộ xã hội. Lực lượng sản xuất chỉ phát triển khi các
sức mạnh và năng lực sáng tạo của con người được bộc lộ và phát triển. Chất
lượng dân chủ được đánh giá qua khả năng mà xã hội và nhà nước thông qua các
thể chế và chính sách của mình có thể hướng vào phục vụ con người, nuôi dưỡng,
phát triển và phát huy không ngừng các tiềm năng sáng tạo vô tận của con người.
Các nhà tư tưởng mác xít khẳng định, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là
đỉnh cao trong sự phát triển của loài người và cũng là đỉnh cao của sự phát triển
dân chủ.
Như vậy, dân chủ XHCN là nền dân chủ thống nhất hữu cơ giữa tính chất
giai cấp của giai cấp công nhân với tính dân tộc và tính nhân loại, trong đó tính
chất giai cấp công nhân giữ vị trí chủ đạo. Sự thống nhất của những tính chất này
biểu hiện thành những đặc điểm trong sự hình thành và phát triển của nền dân chủ
XHCN trong từng quốc gia - dân tộc lựa chọn con đường XHCN. Đó là sự kết
hợp giữa khoa học, luật pháp với đạo đức và văn hóa trên nền tảng của sự phát
triển kinh tế và chính trị, trong đó có vai trò giường cột của Nhà nước và pháp luật
. Nói một cách khác, dân chủ XHCN với bản chất và đặc điểm nêu trên là nền dân
chủ thấm nhuần đầy đủ và sâu sắc nhất tính pháp lý và tính nhân văn.
1.1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
12



Nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hình thành và phát triển là cả một quá
trình lịch sử lâu dài. Nó được khởi đầu như một xu hướng với sự ra đời nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, với bản Tuyên ngôn độc lập: "Mọi người sinh ra đều có
quyền bình đẳng, tạo hóa ban cho họ quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc". Nền dân chủ XHCN kế thừa tính ưu việt và kinh nghiệm của các nền
dân chủ có trước nó. Nội dung của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh khái quát: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì
dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân [26, tr. 698].
Như vậy, bản chất của nền dân chủ ở nước ta là chế độ xã hội do nhân dân
làm chủ, với nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nền dân chủ ấy là hình thức cao
của dân chủ vì quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, chiếm đại đa số dân cư. Quyền lực nhà nước này được đảm bảo bằng sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Quyền công dân và quyền con người được bảo vệ nhất quán
trong luật pháp và trong thực tế đời sống. Dân chủ XHCN dành cho đông đảo
nhân dân lao động nên nó mang bản chất tốt đẹp, nhân đạo, tiến bộ. Quyền dân
chủ của nhân dân được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa. Tuy nhiên, nền dân chủ XHCN ở Việt Nam có đặc thù riêng:
- Nền dân chủ XHCN được hình thành không phải từ cuộc cách mạng
XHCN lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa mà từ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
đánh đổ thực dân đế quốc, đánh đổ ách thống trị của giai cấp phong kiến tay sai,
thiết lập chế độ dân chủ nhân dân do nhân dân lao động làm chủ, sau đó đi thẳng
tới CNXH, quá độ bỏ qua chế độ TBCN.
- Trình độ kinh tế - xã hội yếu kém do bị nô dịch và chiến tranh kéo dài,
nhân dân chưa có kinh nghiệm trải qua mô hình dân chủ tư sản, ảnh hưởng của lệ

13



làng, tư tưởng cục bộ, địa phương, tàn dư phong kiến, gia trưởng còn nặng nề.
Người dân quen dùng "lệ" trong quan hệ xã hội hơn là dùng luật.
Những đặc điểm này chi phối rất rõ toàn bộ nền dân chủ XHCN ở Việt
Nam, nó tác động sâu sắc với nhiều mặt tiêu cực đến quá trình thực hiện dân chủ.
Về bản chất, nền dân chủ XHCN có tính ưu việt cao hơn nền dân chủ tư sản,
nhưng do trình độ kinh tế, dân trí, ý thức dân chủ của người dân và một số cán bộ
còn thấp, do đó nền dân chủ XHCN ở Việt Nam chưa phải là nền dân chủ XHCN
ở mức chín muồi, hoàn thiện mà mới chỉ ở giai đoạn đầu, đang phát triển, đang
từng bước hoàn thiện, còn mang tính chất quá độ, có mặt còn hạn chế.
Ngày nay, Đại hội XI của Đảng khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và do nhân dân làm chủ là 2 trong
8 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dung. Xây dựng nền dân chủ
XHCN là 1 trong 8 phương hướng cơ bản cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược
đến giữa thế kỷ XXI và mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên CNXH.
1.2. Dân chủ trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là sự kế thừa có chọn lọc truyền thống
văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, đồng thời kế
thừa và phát triển sáng tạo những tư tưởng dân chủ tiến bộ của các nhà triết học,
nhà tư tưởng lớn trên thế giới, mà trực tiếp nhất là tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Bên cạnh đó, với những phẩm chất chính trị cùng với nhân cách và
trí tuệ thiên tài, Hồ Chí Minh đã xây dựng cho mình một quan điểm toàn diện và
sâu sắc về dân chủ.
1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất của dân chủ
Cội nguồn sâu xa của tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh là truyền thống
trọng dân, nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vai trò, sức mạnh của nhân dân “dân là
14



nước, nước có thể đẩy thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền”. Bởi vậy, Người cho
rằng làm cách mạng phải biết dựa vào sức dân, lực lượng quần chúng, vì dân là
cội nguồn của sức mạnh, là gốc của nước, căn cứ vững chắc của cách mạng “dễ
mười lần, không dân cũng chịu; khó vạn lần, dân liệu cũng xong” [34, tr.212].
Thực tiễn quá trình cách mạng nước ta đã chứng minh “dân chúng đồng lòng, việc
gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không xong ” [34,
tr.213]. Cho nên, Người luôn luôn căn dặn cán bộ đảng viên không ngừng rèn
đức, luyện tài, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, chống tham ô, lãng phí, xây
dựng một thiết chế vững mạnh để thực hành dân chủ. Thực hành dân chủ rộng rãi
là “cái chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn”[33, tr.249].
Tiếp thu, vận dụng những tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin vào
quá trình cách mạng ở Việt Nam, đồng thời kế thừa những yếu tố dân chủ trong
truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo quan điểm dân chủ và
dân chủ xã hội chủ nghĩa, rằng: “dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ”.
Hồ Chí Minh khẳng định: dân chủ nghĩa là: thứ nhất, dân là chủ “nước ta
là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”[30, tr.515]; thứ hai, dân làm
chủ “nước ta là nước dân chủ, nghĩa là Nhà nước do nhân dân làm chủ...”[27,
tr.452]; thứ ba, dân chủ là toàn bộ quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân và
được thực hiện qua các tổ chức quần chúng: Nước ta là một nước dân chủ. Mọi
công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân như
HĐND, MTTQ, Công đoàn, Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc... Những
đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên
lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ [26, tr.66].
Trước hết, Dân chủ là một hình thức tổ chức Nhà nước, thông qua tổ
chức và quản lý của Nhà nước mà nhân dân thực hiện quyền lực của mình đối
với xã hội.

15



Trong mối tương quan với quyền lực nhà nước và chế độ nhà nước, dân
chủ ở đây được hiểu là chế độ dân chủ, là nền dân chủ. Với ý nghĩa này và trong
mối quan hệ giữa chế độ dân chủ với chế độ nhà nước thì dân chủ là một phạm trù
lịch sử. Nói cách khác, dân chủ chỉ là phạm trù lịch sử và chỉ tiêu vong với nghĩa
dân chủ được xây dựng thành chế độ quyền lực và được tổ chức thành chế độ nhà
nước. Như đã nói ở trên, sự tiêu vong của Nhà nước chỉ làm mất đi các hình thái
biểu hiện quyền lực bằng Nhà nước của dân chủ chứ không làm mất đi nhu cầu xã
hội của dân chủ mà thực chất của nhu cầu này là nhân dân trở thành người chủ xã
hội, với nghĩa đầy đủ nhất của nó, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân
dân tự quản lý, tự quyết định mọi vấn đề của chính bản thân họ. Nó cũng không
làm mất đi các giá trị của dân chủ mà trung tâm của các giá trị này là tự do, là
thành quả đấu tranh xã hội để giành lấy tự do cho con người, con người trở thành
tự do, làm chủ và sáng tạo. Nền dân chủ, chế độ dân chủ từng xuất hiện từ thời cổ
đại và sẽ còn tồn tại lâu dài trong lịch sử. Theo dự báo của các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ đến khi chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi hoàn toàn, khi
ấy Nhà nước trở nên thừa, nó sẽ tự tiêu vong, lúc ấy mới có thể đi tới sự tiêu vong
của chế độ dân chủ, với tư cách là một chế độ chính trị, chế độ nhà nước.
Trên thực tế, không có một nền dân chủ nào tồn tại bên ngoài Nhà nước.
Từ khi xuất hiện Nhà nước thì đồng thời cũng xuất hiện nền dân chủ chính trị. Có
thể có Nhà nước không dân chủ (Nhà nước quan liêu chuyên chế, độc tài; nhà
nước phát xít, nhà nước quân sự…), nhưng không có một nền dân chủ nào lại có
thể thiếu nhà nước. Tính pháp lý và nhân văn của dân chủ phải bảo đảm thực hiện
dân chủ trong thực tế phổ biến của đời sống xã hội, cho số đông dân chúng, thông
qua một nhà nước mạnh, có thực lực và thực quyền, đó là nhà nước pháp quyền,
dân chủ pháp quyền.
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân
chủ, thể chế chính trị và thể chế Nhà nước dân chủ trong đó có thể chế dân chủ
16



của Đảng, nhất là khi Đảng cầm quyền. Người nói: "Chế độ ta là chế độ dân chủ,
tức là nhân dân làm chủ" [28, 499]. Xây dựng thể chế thì trước hết phải xây dựng
chính quyền Nhà nước mà chính quyền đó phải là chính quyền dân chủ, người chủ
thực sự không ai khác chính là nhân dân. "Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính
quyền do người dân làm chủ" [27, 365]. Đây không chỉ là khẳng định một quan
điểm, một tư tưởng chính trị mà nó còn phải thể chế hóa thành luật, bằng luật,
trước hết là Hiến pháp - bộ luật cơ bản, tối cao của Nhà nước. Hồ Chí Minh không
chỉ đề cập tới vai trò của Nhà nước nói chung mà còn đặc biệt nhấn mạnh vai trò
của Chính phủ, cơ quan hành pháp của Nhà nước. Với chức năng hành pháp,
Chính phủ điều hành, thực hiện chức năng quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Một Chính phủ tốt phải là Chính phủ do dân cử ra, mỗi thành viên trong
Chính phủ phải do dân trực tiếp lựa chọn: "Chính quyền từ xã đến Chính phủ
Trung ương do dân cử ra" [26, 698]. Để xứng đáng với sự ủy thác, tin cậy của dân
chúng thì Chính phủ phải hành động vì lợi ích của dân "nhiệm vụ của Chính phủ
là phải làm người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân" [28, 361-362]. "Nhân
dân có quyền đôn đốc và phê bình chính phủ" [28, 368]. "Nếu chính phủ làm hại
dân thì dân có quyền đuổi chính phủ" [26, 60].
Thứ hai, Dân chủ không chỉ được xét với nghĩa là chế độ dân chủ gắn liền
với một Nhà nước tương ứng mà dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội.
Giá trị xã hội của dân chủ không tự nhiên mà có. Nó là kết quả của một
quá trình lịch sử mà con người và các cộng đồng người đạt được thông qua hoạt
động lao động, đấu tranh và sáng tạo để tự biểu hiện vai trò và sức mạnh của
mình, để tự khẳng định vị thế của mình trong đời sống hiện thực, trong việc chiếm
lĩnh và làm chủ thế giới đối tượng, nhờ đó đạt được một trình độ phát triển và tiến
bộ ngày càng cao hơn. Kết tinh các giá trị xã hội này của dân chủ là ở chỗ, các
cuộc đấu tranh để giành lấy dân chủ đều dẫn đến những khả năng giải phóng con
người, nâng cao vị trí con người trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con
17



người ý thức và năng lực dân chủ, làm chủ xã hội. Dân chủ với ý nghĩa đó, nó
được xác định như một lý tưởng nhân đạo, một giá trị nhân văn, thể hiện khát
vọng tự do, nhu cầu giải phóng, vươn tới trình độ phát triển, sáng tạo và làm chủ
của con người, của cộng đồng, giá trị này tồn tại mãi mãi. Mặt nhân văn này của
dân chủ thuộc về phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị xã hội đích thực của dân chủ là giành về cho đại đa số nhân dân lao
động những quyền lực của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới. Đó là quyền dân chủ, quyền tự do, công bằng, bình đẳng thực sự
của quần chúng nhân dân. Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động chính trị của
mình, từ khi ý thức được nỗi nhục mất nước, ra đi tìm đường cứu nước đến khi
phải từ giã cõi đời, Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm
cho nước nhà được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành. Người đã làm tất cả để thực hiện Độc lập - Tự do Hạnh phúc cho Tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Người đã rút ra một chân lý vĩnh
hằng không chỉ cho dân tộc mà còn cho cả nhân loại "Không có gì quý hơn độc
lập tự do". Trong "Tuyên ngôn độc lập" khai sinh ra chế độ dân chủ cộng hòa
ngày 2-9-1945, Người đã thể hiện ý chí và quyết tâm của cả dân tộc trong cuộc
đấu tranh vì độc lập tự do: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thật đã thành một nước độc lập. Toàn dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy" [25, 56].
Đó chính là tuyên ngôn về dân chủ gắn liền với tự do, bình đẳng và công bằng xã
hội. Nó thể hiện khát vọng chính đáng về quyền dân chủ và làm chủ của nhân dân
Việt Nam, khẳng định thành quả vĩ đại trong cuộc đấu tranh vì dân chủ mà nhân
dân Việt Nam đã giành được với một ý chí quyết tâm không gì lay chuyển nổi
cùng tinh thần đoàn kết muôn người như một của dân tộc Việt Nam để giữ vững
nguồn của cải vô giá đó của nhân dân. Nhưng "nếu nước độc lập mà dân không
được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" [25, 56].
18



Vì vậy, tiêu ngữ "Việt Nam dân chủ cộng hòa, Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc" có một ý nghĩa lịch sử thiêng liêng. Nó là mục tiêu phấn đấu của cả dân tộc
Việt Nam thể hiện đầy đủ, toàn diện nội dung nhân quyền và dân quyền mà bất cứ
quốc gia văn minh nào cũng phải hướng tới. Giải phóng con người, thực hiện tự
do và hạnh phúc của con người, đó là mục tiêu phấn đấu cao nhất, thường xuyên
chi phối mọi suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh.. Khi đặt câu hỏi: "Mục
đích của CNXH là gì? Người đã trả lời: Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là:
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là
nhân dân lao động" [30, 271].
Bao giờ Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh phải chăm lo đến con người, tạo
điều kiện cho con người có những khả năng và điều kiện tốt nhất để phát triển,
phải chăm lo tới cuộc sống của con người, thấu hiểu tâm trạng, nguyện vọng của
quần chúng, tôn trọng nhân cách của từng người. Đó là chiều sâu giá trị nhân văn
của dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ ba, dân chủ còn được xét với ý nghĩa là điều kiện để hình thành và
phát triển nhân cách.
Ở đây nổi bật lên là tác dụng của dân chủ đối với sự phát triển các năng
lực trí tuệ và hình thành các chuẩn mực đạo đức con người. Với ý nghĩa đó, dân
chủ không chỉ là phạm trù chính trị mà còn là phạm trù đạo đức.
Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi người cách mạng phải rèn luyện theo những
chuẩn mực đạo đức nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Làm kiểu mẫu "cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư" [27, 90]. Những phẩm chất đó của con người mới, xa lạ
với những cái xấu, cái ác: Tham ô, lãng phí, quan liêu. Nó là con đẻ của chủ nghĩa
cá nhân và là kẻ thù của nhân dân. Chủ nghĩa cá nhân nó rất dễ dàng kéo người ta
xuống dốc, mà xuống dốc thì dễ hơn lên dốc như Hồ Chí Minh đã nhiều lần căn
dặn chúng ta. Người đặc biệt chú trọng việc giáo dục và rèn luyện đạo đức cách
mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Nhân cách trung thực và sáng tạo nêu
19



trên chỉ có thể được hình thành trong một môi trường xã hội dân chủ mà trước hết
là dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong chính trị và dân chủ trong đời sống văn hóa
tinh thần.
Nhờ có dân chủ mà những tiềm năng sáng tạo, những sáng kiến của nhân
dân được khai thác và phát huy. Hồ Chí Minh mượn câu nói mộc mạc trong dân
gian để thể hiện quan điểm và niềm tin của mình về sức mạnh làm chủ của nhân
dân: "Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong". Bí
quyết để động viên và phát huy sức mạnh của nhân dân đó là dân chủ: "Phải tin
tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vô cùng vô tận. Tuyên truyền, giáo dục,
đoàn kết, tổ chức được trí tuệ và lực lượng đó thì việc gì khó mấy cũng làm được"
[29, 506]. Đồng thời "phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân", "phải
mở rộng dân chủ", "phải thực hành dân chủ rộng rãi"... để thực hiện và phát huy
dân chủ.
1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh vê vai trò, ý nghĩa của dân chủ.
Dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của đời sống con người. Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội, điều này
đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin bàn tới rất nhiều.
Đối với chúng ta, thực hiện và phát huy dân chủ của quần chúng nhân dân
là điều hệ trọng đối với sự thành bại của chế độ, của thể chế. Dân chủ vừa biểu
hiện là giá trị xã hội mà con người và loài người đạt được trong tiến trình đấu
tranh để tự giải phóng mình, từng bước vươn tới tự do và làm chủ lại vừa là hình
thức và tính chất tổ chức thể chế Nhà nước. Dân chủ vừa mang tính nhân loại vừa
mang tính giai cấp. Trình độ dân chủ đi đôi với trình độ văn minh và tiến bộ xã
hội. Nội dung và hình thức của các thể chế dân chủ biểu hiện những trình độ phát
triển khác nhau của các thể chế chính trị - xã hội. Vấn đề là ở chỗ, giai cấp cầm
quyền có ý thức được vai trò của dân, có thực hiện được sự ủy thác quyền lực của

20



dân hay không? Đó còn là sự tự ý thức được vai trò làm chủ xã hội của dân đến
đâu để dân chủ có điều kiện thể hiện đầy đủ vai trò của nó trên thực tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, suốt cuộc đời mình luôn đấu tranh cho nhân dân
Việt Nam có được một cuộc sống độc lập, dân chủ và giàu mạnh, bởi theo Người:
“Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”. Là một nhà Mác - xít sáng tạo lớn,
con người của những lý tưởng cao cả về dân chủ, Người là biểu tượng kiệt xuất
của cuộc đấu tranh vì độc lập - tự do - hạnh phúc như những giá trị cao nhất của
dân chủ và văn hóa dân chủ, những giá trị bản chất của CNXH . Người định nghĩa
về bản chất và vai trò của dân chủ ngắn gọn, hàm xúc nhất mà lại đầy đủ, thực
chất nhất, dung dị và sâu sắc nhất. Đó là:
Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ. Dân có quyền làm chủ đồng thời
cũng phải có nghĩa vụ của người chủ. Dân chủ là động lực của tiến bộ và phát
triển. Người nói: Thực hành dân chủ rộng rãi là chiếc chìa khóa vạn năng để giải
quyết mọi khó khăn.
Là một nhà lý luận và thực hành dân chủ tiêu biểu của thế kỷ XX ở nước
ta - Người đã nhìn thấy rõ sức mạnh của dân "Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"
[27, 276]. Người đã huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh tự giải
phóng mình, góp phần to lớn đưa dân tộc Việt Nam từ nô lệ tới độc lập tự do, đưa
nhân dân ta lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Người luôn tìm mọi cách
để "làm cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của
mình, dám nói, dám làm" [31, 223]. Việc giáo dục dân tự ý thức được vai trò làm
chủ xã hội của mình đối với một dân tộc hàng ngàn năm bị phong kiến phương
Bắc đô hộ, hàng trăm năm bị chủ nghĩa thực dân thống trị và trình độ dân trí thấp
như nước ta, điều đó làm Người luôn phải trăn trở, dồn hết tâm lực để tranh đấu
thực hiện. Với Hồ Chí Minh, "dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân" [29,
279], và thực hành dân chủ rộng rãi là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó
21



khăn. Người ý thức sâu sắc rằng, dân chủ không chỉ là "dân là chủ" mà còn là
"dân làm chủ". Dân có thực sự làm chủ thì mới tiếp tục bắt tay vào "xây dựng một
nước Việt Nam dân chủ mới" [27, 15], "thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều
kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội" [27, 174]. Hơn ai hết, Người thấy rõ dân chủ là
động lực, là sức mạnh để xây dựng một xã hội ấm no, hạnh phúc, tự do và bình
đẳng. Chính vì vậy Người luôn nhắc nhở những người lãnh đạo rằng: "Có phát
huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân,
đưa cách mạng tiến lên".
Như vậy, dân chủ không chỉ là quyền lực thuộc về nhân dân, làm cách
mạng không chỉ là trao quyền làm chủ cho nhân dân lao động là đủ, quan trọng
hơn là bằng phương pháp quản lý dân chủ mà làm cho nhân dân biết hưởng quyền
dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về điều kiện để thực hiện dân chủ .
Thể chế dân chủ tuy là vấn đề cơ bản, quan trọng nhất nhưng việc thực
hành dân chủ lại là điều cốt tử. Theo Hồ Chí Minh, phải làm sao cho nhân dân biết
hưởng và biết dùng quyền dân chủ. Chỉ có thực hành dân chủ mới có thể biến các
quan niệm dân chủ trong các lời tuyên bố thành dân chủ thực tế. V.I. Lênin cũng
cho rằng,mọi điều tốt đẹp về dân chủ thì các học giả tư sản đều nói cả rồi, cái ưu
việt của chế độ dân chủ chúng ta so với dân chủ tư sản ở chỗ hiện thực hóa những
điều tốt đẹp ấy.
Theo Hồ Chí Minh, để thực hành dân chủ cần phải có những điều kiện sau
đây:
Thứ nhất, phải có đủ những văn bản luật phù hợp với thực tiễn và được
lòng dân. Nhưng văn bản luật nào cũng đều là luật thực định, nghĩa là do giai cấp
cầm quyền định ra thông qua cơ quan đại diện của dân soạn thảo và ban bố. Vậy,
thực hành dân chủ mấu chốt là ở vấn đề bầu cử và ứng cử. Người nói: “Trong
cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra
22



ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử….hễ là công dân Việt Nam thì
đều có hai quyền đó” [25, 133]. Nhìn vào luật bầu cử và ứng cử, quy trình thực
hiện, cách thức tiến hành và thái độ của dân chúng, người ta sẽ nhận ra chất lượng
của điểm xuất phát, cái cơ bản nhất của chế độ dân chủ ở mỗi nước, đó là thể chế
luật pháp.
Thứ hai, tổ chức bộ máy nhà nước thực thi luật pháp là công cụ đảm bảo
thực hành dân chủ. Hồ Chí Minh khẳng định bộ máy nhà nước phải gọn nhẹ,
trong sạch, đủ năng lực và bản lĩnh để chấp hành pháp luật. Con người trong bộ
máy nhà nước phải được lựa chọn theo những tiêu chí cụ thể và công khai, phải có
uy tín trong dân chúng, có năng lực và liêm, chính. Những người được Quốc hội
cử ra thành lập Chính phủ mới, theo Hồ Chí Minh phải tuyên thệ về tư cách của
bản thân và tư cách của từng thành viên Chính phủ. Tại phiên họp ngày
31/10/1946, kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa I, sau khi được Quốc hội nhất trí giao
trách nhiệm thành lập Chính phủ mới, Hồ Chí Minh đã tuyên bố như sau: “Chính
phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không
đảng phái….Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết….Chính phủ
sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc” [25, 427].
Thứ ba, phải có chính sách dùng người cho đúng, tạo cơ hội như nhau cho
bất cứ ai, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, sang hèn, giàu nghèo….hễ là công
dân Việt Nam đều có thể thi tuyển vào cơ quan nhà nước, được giao những nhiệm
vụ tương xứng với tài năng và đức độ của họ. Người được tuyển lựa làm cán bộ,
công chức phải cam kết trung thành với nhà nước và dân tộc Việt Nam, phải hoàn
thành công vụ, không tham nhũng, lãng phí của công, không sách nhiễu dân; được
thăng tiến, đãi ngộ về vật chất tương xứng nhưng cũng sẽ bị trừng phạt, thậm chí
truy tố trước tòa án nếu có lỗi. Một xã hội thực sự dân chủ và pháp quyền khi cơ
quan nhà nước tận tụy phục vụ nhân dân, làm việc cho dân và làm tốt. Nhà nước
ấy phải có đội ngũ công chức, viên chức là công bộc của dân, thạo chính trị, giỏi
23



×