Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Tư duy nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 01 20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ THƯ

TƯ DUY NGHỆ THUẬT
TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lí luận Văn học

Hà Nội, 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ THƯ

TƯ DUY NGHỆ THUẬT
TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Lí luận Văn học
Mã số: 60 22 01 20

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đoàn Đức Phương

Hà Nội, 2013




Lời cảm ơn!
Sau một thời gian nghiên cứu lí luận và thực tiễn, cho đến nay tôi đã hoàn
thành Luận văn thạc sỹ: “Tư duy nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh”.
Có được thành công này lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả các
thầy cô, những nhà nghiên cứu đã hợp tác và giúp đỡ tôi rất nhiệt tình trong suốt
quá trình nghiên cứu để tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc nhất tới PGS.TS Đoàn
Đức Phương đã giúp đỡ tôi không chỉ trong phương pháp khoa học mà cả những tri
thức rất thiết thực trong cuộc sống
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè và những người
đã luôn ở bên, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm !
Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Học viên
Trần Thị Thư


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………...1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề…………………………………………………5
3. Phạm vi nghiên cứu.. ………………………………………………………5
4. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………….6
5.Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………...6
6. Đóng góp của luận văn……………………………………………………..7
7. Cấu trúc luận văn …………………………………………………………..7
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 8
Chương 1. VẤN ĐỀ DÂN GIAN - DÂN TỘC TRONG NHỮNG THẬP

NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ CON NGƯỜI TRÚC KHÊ NGÔ VĂN
TRIỆN .............................................................................................................. 8
1.1. Không khí thời đại và sự phát triển văn học nửa đầu thế kỷ XX .............. 8
1.1.1. Không khí thời đại ................................................................................... 8
1.1.2. Đôi nét về sự phát triển của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ........ 11
1.2. Vấn đề dân gian, dân tộc trong văn học giai đoạn mất chủ quyền .......... 22
1.2.1. Vấn đề yếu tố dân gian - dân tộc .......................................................... 22
1.2.2. Dân gian-dân tộc trong văn học giai đoạn mất chủ quyền .................. 28
1.3. Con người Trúc Khê Ngô Văn Triện và đường văn đã chọn................... 35
1.3.1. Đôi nét chính về thân thế - sự nghiệp ................................................... 35
1.3.2.Con người Trúc Khê Ngô Văn Triện qua những trang nhật ký còn lưu 43
Chương 2: YẾU TỐ DÂN GIAN - DÂN TỘC TRONG SÁNG TÁC CỦA
TRÚC KHÊ NGÔ VĂN TRIỆN .................................................................. 52
2.1.Yếu tố dân gian - dân tộc trong thơ Trúc Khê Ngô Văn Triện: ............... 52
2.1.1. Yếu tố dân gian - dân tộc trong thơ thế sự............................................ 52
2.1.2. Yếu tố dân gian - dân tộc trong thơ trữ tình ........................................ 58


2. 2. Yếu tố dân gian - dân tộc trong văn xuôi Trúc Khê Ngô Văn Triện: ..... 67
2.2.1. Yếu tố dân gian - dân tộc trong tiểu thuyết lịch sử ............................... 67
2.2.2. Yếu tố dân gian - dân tộc trong tiểu thuyết tâm lý ................................ 77
Chương 3. YẾU TỐ DÂN GIAN - DÂN TỘC TRONG BIÊN KHẢO,
DỊCH THUẬT CỦA TRÚC KHÊ NGÔ VĂN TRIỆN ............................. 90
3.1. Yếu tố dân gian - dân tộc trong các tác phẩm biên khảo ......................... 90
3.2. Yếu tố dân gian - dân tộc trong các tác phẩm dịch thuật ......................... 95
3.2.1. Yếu tố dân gian - dân tộc trong các tác phẩm dịch thơ ........................ 95
3.2.2 Yếu tố dân gian - dân tộc trong các tác phẩm dịch văn xuôi ................ 97
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 107
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 113



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
12 năm trước, nhân Hội nhà văn Việt Nam kết hợp với Hội Liên hiệp
Văn học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức Lễ Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà
văn Trúc Khê Ngô Văn Triện (Năm 2001), GS. Vũ Khiêu đã có đôi câu đối
tưởng nhớ ông Trúc Khê:
Trúc đủ ngàn cây ghi khí tiết
Khê dài muôn dặm thả văn chương
Đôi câu đối ghi nhận khái quát về nhân cách và văn tài của Trúc Khê.
Song thực sự là khí tiết và văn chương của nhà văn dồi dào và tha thiết như thế
nào thì điều này vẫn còn ít người tường tận. Sau lớp nhà Nho tiên phong trong
cuộc bảo tồn vốn dân tộc trong nếp nho học là Phan Kế Bính, Nguyễn Hữu Tiến,
Nguyễn Đôn Phục, Trần Trọng Kim…là đến Ngô Tất Tố, Hoàng Thúc Trâm,
Nguyễn Văn Tố…và Trúc Khê Ngô Văn Triện. Không phải ai trong các danh sĩ
trên đều được biết đến và biết đến một cách rõ ràng.
Trong chương trình văn học ở nhà trường phổ thông hiện nay có các bài
học môn Ngữ văn là dịch phẩm của Trúc Khê, có những thông tin về các tác giả
được đưa vào phần tiểu dẫn trước tác phẩm là câu chuyện lịch sử, là tư liệu khảo
cứu, phát hiện của Trúc Khê. Thế nhưng, với nhiều người quan tâm đến văn học
trong mức độ hạn chế, hai tiếng Trúc Khê vẫn chỉ nghe quen mà chưa biết.
Với những người hiểu sâu về văn học nước nhà, một trong những điều
khiến Trúc Khê có vị trí trong hình dung của họ là tinh thần dân tộc. Bởi lẽ
ông viết rất nhiều về các danh nhân lịch sử, dịch nhiều văn thơ chữ Hán của
các anh hùng dân tộc, các danh sĩ nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Dữ (có
người gọi là Nguyễn Dư), Cao Bá Quát,... Mặt khác, ngôn ngữ trong những
tác phẩm dịch như Truyền kỳ mạn lục, Tang thương ngẫu lục và lối suy luận,

1



cách diễn đạt, trong nhiều sáng tác của ông mang đậm nếp nghĩ dân gian đầu
thế kỷ XX.
Trước tiên, chúng tôi xin được giải thích về tên đề tài của mình. Khi
cộng đồng người khi phát triển đến trình độ dân tộc cũng là lúc ở họ hình
thành nhà nước. Ngay từ những buổi đầu ấy, văn hóa dân tộc bao gồm hai
dòng dân gian và dòng bác học (tinh anh). Văn hóa dân gian là văn hóa do dân
sáng tạo, lưu truyền và hưởng thụ. Văn hóa dân gian là nền tảng của văn hóa
bác học. Cả dân gian và bác học tạo thành dân tộc. Nói đến dân gian là nói
đến ngôn ngữ, cách cảm xúc, các suy nghĩ, phong tục tập quán của người dân.
Nói đến dân tộc là nói đến lòng yêu nước, lịch sử dân tộc, bản sắc văn hóa dân
tộc, trong đó văn hóa dân gian chiếm một vị trí quan trọng, mặc dù trong một
số trường hợp nó chưa đạt được chiều sâu như văn hóa tinh anh. Chính vì thế,
chúng tôi bàn về yếu tố dân gian - dân tộc (với dấu nối liên kết không tách
rời) khi tìm hiểu văn nghiệp của một nhà văn sống và sáng tác trong nửa đầu
thế kỷ XX. Trong luận văn này chúng tôi không chia dân gian và dân tộc làm
hai mảng tách riêng để đi vào nghiên cứu. Chúng tôi để một ranh giới mềm,
cũng có khi là hòa kết giữa hai yếu tố đó, giao thoa khăng khít.
Mỗi nhà văn đều sống và viết từ một mạch nguồn văn hóa chủ lưu và từ
lưu vực dòng chảy thời đại. Trong đó, tình yêu dành cho cộng đồng dân tộc,
miền văn hóa đã nuôi nấng tâm hồn người sáng tạo là vô cùng quan trọng.
Dòng sông văn hóa sống đã chảy rất tự nhiên vào tâm trí người viết văn và
đọng lại trong mỗi thể loại, mỗi tác phẩm bằng dấu ấn nhất định. Dù dấu ấn có
thể hiển hiện hoặc ẩn sâu. Đặc biệt vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, sống
trong cảnh nước mất nhà tan, chịu sự kiểm duyệt gắt gao của chế độ thực dân,
thì việc giữ và truyền văn hóa dân gian - dân tộc cũng là biểu hiện vô cùng
đáng quý của lòng yêu nước:
Non sông bốn mặt mưa hòa gió
Giời bể muôn trùng nước lẫn mây

2


Tổ Quốc dễ âu còn khí sắc
Nam nhi chớ để thẹn râu mày
(Lên đài thiên văn ngắm cảnh – Trúc Khê)
Niềm tin vào tương lai của dân tộc và ý thức trách nhiệm với giang sơn
khi được truyền vào mỗi tác phẩm thì sẽ lan thấm sang người đọc. Lịch sử có
những giai đoạn như “lửa thử vàng” với văn nhân. Không chỉ thử văn tài mà
còn là đo nghị lực, tâm ý từ bước chọn đường.
Lớp người chuyển giao thế hệ sáng tạo văn chương mới bao gồm các
nhà văn sinh vào khoảng cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX (nếu
khoảng sau đó mươi năm thì lại khác). Khi ở tuổi thiếu niên (trước năm 1915),
họ được gia đình nuôi học chữ Hán để hướng đến khoa cử. Nhờ vậy, họ có
gốc kiến thức Hán học sâu vững hơn đa số các tác giả sinh sau thời kỳ nhà
cầm quyền thực dân bỏ khoa thi năm 1915. Vì sau khoa thi Hán học cuối
cùng, việc học Hán ngữ bị mai một khá nhanh.
Liền sau với Tản Đà – người được mệnh danh là gạch nối giữa hai thời
đại thi ca, Trúc Khê cùng một số gương mặt cùng thời tạo lập một sự kết nối
chuyển dòng tới thế hệ sau. Trúc Khê sinh năm 1901, sớm hơn một thập niên
so với các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng giai đoạn 1930-1945. Vì hầu hết, các cây
bút này được sinh sau năm 1910. Họ thuộc thế hệ trẻ hơn nhà văn Trúc Khê,
họ là những người mới hơn. Nhưng có thể khẳng định rằng không có sự làm
nền của một thế hệ nối đệm thì khó có “cuộc hòa nhạc tân kỳ” (Hoài Thanh)
liền sau hoặc cùng vang vọng. Trong dàn nhạc ấy, Trúc Khê là một cây đàn
thuộc bè trầm, có lúc như nhẹ êm, nhưng đã làm tăng sức hấp dẫn của nhiều
điệu đàn vút cao. Khúc trầm ấy của văn chương Trúc Khê không nổi lên trong
những cao trào nhưng bền bỉ và ấm vững thanh âm.
Chúng tôi cũng xin đề cập đến tính cần thiết của đề tài khi thế hệ Vàng
đã trong bụi thời gian. Như GS.TS. Trần Ngọc Vương luôn có những băn

khoăn khi giảng bài cho các thế hệ học trò của ông: “Trong lịch sử văn học
đầu thế kỷ XX, trước năm 1945, có giai đoạn không được tái hiện đầy đủ các
3


gương mặt của một thời. Những gì có được vẫn rất thiếu khuyết. Chúng ta
cần phải khắc phục sự đứt gẫy văn hóa.” Đó phải chăng là tiến trình vận động
trước và trong cùng một thế hệ các tác giả. Bên cạnh đó, cũng không loại trừ
ngay cả bước tập dượt tìm đường ở chính mỗi cây bút. Bởi vì, chúng ta cùng
hiểu rằng không thể từ chữ nghĩa khoa cử thời đầu thế kỷ XX mà sang ngay
được phong trào Thơ mới cũng như văn xuôi Tự Lực Văn Đoàn.
Đáng trân quý là trong số đó có không nhiều lắm những người đã làm
chủ tình hình bằng lấy xưa tặng sau. Vốn Hán học không phải để cũ nhàu
trong rương hòm hay hoài cổ trong tâm trí, mà được văn sĩ dùng làm phương
tiện chuyển dịch tác phẩm sang thành chữ quốc ngữ, và truyền bá tri thức cổ
bằng cách thật thức thời. Giữa thời “mưa Âu gió Mỹ”, nhà văn vươn lên năng
động với những sáng tác, dịch thuật để nuôi gia đình và nuôi văn tài bằng từ
cội gốc cũ, đó cũng chính là cách đến với cái mới. Trúc Khê Ngô Văn Triện
viết biên khảo Hùng Vương diễn nghĩa, dịch Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi,
dịch thơ Cao Bá Quát… Ông là một trong những người biến mình thành phiên
- dịch - viên - của - thời - đại.
Hiện tại cũng đã là muộn màng, nhưng việc thực hiện những tìm hiểu
khảo sát này vẫn còn khả thi. Nếu như chậm quan tâm đến các tác giả của một
thời đã xa và đang tiếp tục xa nữa thì việc khôi phục sẽ rất khó khăn từ người
nghiên cứu đến “nếp” tiếp nhận của công chúng. Các tàng thư đang nát, việc
số hoá của cấp quản lý nhà nước với các tác phẩm đầu thế kỷ XX còn rất lâu
mới quán xuyến hết được. Đó là chưa kể “định kiến” chỉ trọng đỉnh cao, như
thể trong ngọn núi văn chương cái bộ phận là nền, là sườn ít được quan tâm.
Cho dù cái đỉnh nào cũng cần đứng trên nền, tựa trên sườn trụ đỡ, chuyển tiếp.
Nền đất, sườn non đó là những Nguyễn Đôn Phục, Hoa Bằng, Nguyễn Văn

Tố… và Trúc Khê Ngô Văn Triện.
Thiết nghĩ, chúng ta còn đang thiếu sót khi chưa có những tìm hiểu sâu
kỹ và chưa có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về lớp người như thế hệ

4


Vàng đang bị phủ bụi thời gian dày đặc này, cho dù sự phôi phai đang mỗi
ngày một đáng quan ngại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tính đến nay, tuy đã có khá nhiều bài viết đánh giá về con người và văn
nghiệp của Trúc Khê song chủ yếu lại là những bài báo, bài nghiên cứu, bài
tựa sách in tác phẩm của nhà văn, chứ chưa có công trình nào nghiên cứu kỹ
càng, bài bản. Chưa có nghiên cứu nào có dung lượng hơn 5000 từ được in ấn,
xuất bản về thân thế cũng như sự nghiệp của Trúc Khê. Trong quá trình tìm
hiểu, chúng tôi tìm đến một số bài viết của những người bạn văn tưởng nhớ
Trúc Khê trong các dịp Hội Nhà văn Hà Nội kỷ niệm 90, 100 năm ngày sinh
của ông. Ngoài ra, là các bài được công bố trên các báo nhân dịp sinh nhật
ông, hay kỷ niệm ngày giải phóng Thủ đô, ông được chọn viết với tư cách là
danh nhân Hà Nội. Đó là các bài viết của các GS.Vũ Khiêu, nhà văn Tô Hoài,
các nhà thơ Vũ Quần Phương, Lữ Huy Nguyên, Nguyễn Bao, tác giả Hoàng
Lại Giang,…
Trước đây, tác phẩm của Trúc Khê được in tại Trúc Khê thư cục do ông
lập nên, tại một số nhà in như Kim Đức Giang ấn quán, Vĩnh Thịnh, Thực
Nghiệp… và báo chí đương thời. Sau này, con trai trưởng của ông là Ngô Văn
Trưng lập nên Trúc Khê thư xã để xuất bản sách của cha mình. Năm 1997,
nhà xuất bản Văn học in hai tập Thơ văn Trúc Khê Ngô Văn Triện tuyển chọn
một số tác phẩm đã in, đã đăng báo của ông để giới thiệu đến bạn đọc. Và
cách đây 10 năm, Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện do Nhà xuất bản Vǎn
hóa thông tin, ấn hành năm 2003 (với dung lượng 1157 trang) đã ra mắt độc

giả.
3. Phạm vi nghiên cứu
Sống trong thời kỳ “chuyển giao”, nhà văn Trúc Khê đã làm việc hết
mình và để lại một sự nghiệp khá đồ sộ. Trong cuộc đời cầm bút khoảng 20
năm của ông, Trúc Khê đã để lại khoảng 60 cuốn sách. Khái niệm văn nghiệp
mà chúng tôi nêu ở đề tài luận văn này không thể bao quát hết tất cả những tác
5


của phẩm Trúc Khê Ngô Văn Triện. Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ,
chúng tôi chỉ xin được chọn một số tác phẩm tiêu biểu của mỗi thể loại trong
sáng tác, biên khảo và dịch thuật (từ Hán ngữ) của Trúc Khê, để từ đó có thể
tìm hiểu yếu tố dân gian - dân tộc trong văn nghiệp của ông. Người thực hiện
luận văn sẽ chọn lọc đi vào phân tích một số trang nhật ký ghi lại những năm
tháng sống và sáng tác của Trúc Khê Ngô Văn Triện, trong khoảng thời gian
nửa đầu thế kỷ XX (1901 - 1947), với dấu ấn của những chuyển đổi thế thời.
Đó là hành trình của một nhà văn trong giai đoạn nhiều thử thách với “nghị
lực văn chương”, thử thách tài năng và lòng thành với nước, với đời.
Đề tài theo hướng tìm hiểu và phân tích yếu tố dân gian - dân tộc trong
thơ văn sáng tác, biên khảo và dịch thuật của Trúc Khê nên sẽ là một khối
lượng công việc rất lớn. Ngay cả chỉ mong đọc đủ số lượng tác phẩm của nhà
văn đã cần một sự cố gắng và lắng tâm rất nhiều. Và cũng chỉ dám gọi là sơ
khởi bình luận về đời văn của một người uyên thâm, tài hoa, sống trong bão
táp chính trị và đa sắc văn hóa của một thời đại đặc biệt, là rất khó. Với khả
năng hạn hẹp về kiến thức, lại xa về thế hệ, nên việc nghiên cứu đề tài này,
với chúng tôi, là thử thách rất lớn. Thực tế, phạm vi ngỡ rất rõ nhưng cũng rất
khó bao quát. Đó là yếu tố dân gian - dân tộc từ những nét chính trong đời
người và đời văn của Trúc Khê Ngô Văn Triện.
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn trình bày và phân tích yếu tố dân gian - dân tộc trong sáng tác

và biên khảo, dịch thuật của Trúc Khê Ngô Văn Triện, qua đó giúp người đọc
nhận diện sâu hơn và kỹ hơn về một nhà văn còn chưa được tìm hiểu nhiều.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã:
+ Sưu tầm, tập hợp các tác phẩm sáng tác, biên khảo, dịch thuật của nhà văn
Trúc Khê. Các tư liệu khác như mảng báo chí và nhật ký của nhà văn cũng
được chú ý để nhằm có cái nhìn đầy đủ về ông.

6


+ Sử dụng phương pháp nghiên cứu văn học ở phân tích tác phẩm, liên hệ với
tiểu sử tác giả, với những sự kiện văn hóa, lịch sử đương thời.
+ Phỏng vấn những người thân của nhà văn và GS. Hà Minh Đức, vị giáo sư
cao niên để hiểu thêm bối cảnh báo chí và văn học thời Trúc Khê cầm bút.
+ Đi thực địa về quê hương nhà văn, thăm gia đình các con của tác giả cũng
như thăm tư gia và mộ phần một nhà văn cùng thời với Trúc Khê.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu dày dặn đầu tiên, nghiên cứu một
cách có hệ thống về văn nghiệp của Trúc Khê Ngô Văn Triện, làm rõ phẩm
chất dân gian – dân tộc trong sáng tác, dịch thuật và biên khảo của ông.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có ba chương chính:
Chương 1. VẤN ĐỀ DÂN GIAN - DÂN TỘC TRONG NHỮNG THẬP
NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ CON NGƯỜI TRÚC KHÊ NGÔ VĂN TRIỆN
Chương 2. YẾU TỐ DÂN GIAN - DÂN TỘC TRONG SÁNG TÁC CỦA
TRÚC KHÊ NGÔ VĂN TRIỆN
Chương 3. YẾU TỐ DÂN GIAN - DÂN TỘC TRONG BIÊN KHẢO, DỊCH
THUẬT CỦA TRÚC KHÊ NGÔ VĂN TRIỆN.


7


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. VẤN ĐỀ DÂN GIAN - DÂN TỘC NHỮNG THẬP NIÊN
ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ CON NGƯỜI TRÚC KHÊ NGÔ VĂN TRIỆN
1.1. Không khí thời đại và sự phát triển văn học nửa đầu thế kỷ XX
1.1.1. Không khí thời đại
Sau mười thế kỷ chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, đầu thế kỷ
XX văn học Việt Nam bước vào quá trình hiện đại hóa văn học, một xu hướng
tất yếu. Tuy nhiên, văn học Việt Nam không đi thẳng từ truyền thống đến hiện
đại mà phải trải qua một giai đoạn giao thời. Xuất phát từ truyền thống, trước
khi đạt tới giai đoạn phát triển hiện đại, văn học trải qua nhiều thử nghiệm, đôi
khi cần cả những cống hiến, hy sinh lặng thầm.
Sau khi đã thiết lập xong chính quyền thuộc địa và bước vào những
cuộc khai thác lớn, thực dân Pháp đã ra sức gieo rắc tư tưởng nô lệ, vong
quốc. Các nhà Nho yêu nước nhanh chóng nhận ra điều đó và đã đấu tranh gìn
giữ tinh thần và bản sắc dân tộc. Theo “Mấy nhời nói đầu” trên Nam phong
tạp chí số 1 tháng 7 năm 1917, người Pháp vẫn thường kẻ cả: “Thiên chức
của nước đại Pháp xưa nay vẫn là đi dạy cho dân các nước biết phát triển cái
quốc túy của mình, khiến cho mỗi dân mỗi nước biết mình có một cái nhân
cách riêng mà sống theo nhân cách ấy”. Song mọi việc làm của thực dân Pháp
lại trái ngược với lời nói. Trọng trách làm cho dân mình biết chúng ta cũng có
quốc túy để tự hào lại đặt trên vai các bậc trí thức đầu thế kỷ, những nhà Nho
tiến bộ, duy tân. Có thể thấy đó là bước “Đến hiện đại từ truyền thống” (tên
một tác phẩm của PGS. Trần Đình Hượu), vì các nhà Nho tiến bộ đã là nhịp
cầu chứ không phải là bước cản làm chậm lại tiến độ của cái mới, như những
ai đó chưa thấu hiểu sai. Trong giáo trình viết về nhà yêu nước Phan Châu
Trinh, tác giả tập thơ “Xăng-tê thi tập”, TS. Trần Hải Yến đã nhận định: “Sự
xuất hiện dày đặc thành ngữ, tục ngữ trong một tập thi tù mà lại là thi tù hải

ngoại trên thực tế đã hàm rất nhiều ý nghĩa. Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh

8


khía cạnh: với việc làm đó, Phan Châu Trinh dường như đã làm một cuộc
tổng duyệt lại các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc nhờ sự tiếp nhận
những tư tưởng thời đại.” [36; 228].
Chứng kiến sự thất bại của thế hệ cha anh khi đấu tranh vũ trang trong
điều kiện quá chênh lệch về vũ khí và kỹ thuật tác chiến, các nhà Nho yêu
nước và duy tân đã tìm đến một con đường khác, mà bước khởi hành là “khai
dân trí, hưng dân trí”. Ý thức được sự tất yếu của quá trình hiện đại hóa văn
học, ý thức được sự thắng thế tất yếu của văn học mới, các nhà Nho yêu nước
lớp trước đã thu góp và tôn vinh giá trị tinh thần cả nghìn năm như thể để trao
lại thế hệ mới. Phan Kế Bính, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, Trần
Trọng Kim… thuộc thế hệ nhà Nho lớp trước đi đầu bảo tồn “cái hương hỏa
Nho học”. Ngô Tất Tố, Nguyễn Văn Tố, Trúc Khê Ngô Văn Triện, Hoàng
Thúc Trâm… thuộc lớp học giả tiếp nối sự nghiệp tôn giữ văn hóa dân tộc đó.
Họ đã sớm nhận ra nhiệm vụ của mình sau khi bao người con ưu tú của dân
tộc đã ngã xuống, bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ, mỗi tấc đất quê hương
đều mang hồn dân tộc với linh khí tổ tiên, của những nỗi đau đời, của những
khát vọng,…tất cả tạo thành truyền thống dân tộc. Nhiều cây bút viết văn, viết
báo chân chính đầu thế kỷ XX muốn khơi gợi lòng yêu nước, lòng tự hào dân
tộc của người dân Việt. Trúc Khê là một trong những tác giả tiêu biểu cho
những người vừa làm văn, vừa làm báo, chuyển đổi từ mô hình nhà Nho sang
kiểu người trí thức hiện đại. Ông không còn là nhà Nho thuần túy song cũng
không phải là con người hoàn toàn thuộc về hiện đại. Đời văn của ông chính
là quá trình nỗ lực vượt qua cái cũ, đến với cái mới mang theo biệt sắc của
riêng mình. Nét biệt sắc (từ dùng của GS.TS. Trần Ngọc Vương khi nhận xét
về trường hợp củaTrúc Khê) chính là tinh thần dân tộc. Tìm hiểu Trúc Khê và

lớp nhà văn như ông cũng là để thấy rõ vị trí và đóng góp của họ trong quá
trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.
Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của điều kiện xã hội, điều này ai
cũng rõ và có thể mở rộng, đi sâu với những minh chứng đầy thuyết phục
9


nhưng điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là một văn nhân khi cầm bút
chắc chắn đã hòa cái chủ quan của mình trong dòng chảy thời đại. Các yếu tố
thường được xem xét khi nghiên cứu một tác giả văn học thường là mối liên
hệ giữa người đó với cuộc sống, với môi trường tự nhiên xã hội, với thời đại,
với bối cảnh văn học văn hóa, cả về mặt đồng đại và lịch đại, làm cơ sở cho
hoạt động sáng tạo của tác giả này. Có những câu thơ, áng văn chỉ được viết
trong thời của nó mới có được khí thế hay nỗi đau đó, thậm chí, mới có những
hạn chế đó. Một thời gió bão văn hóa giữa cũ và mới, trong và ngoài, dân
gian- dân tộc và ngoại lai như những thập niên đầu thế kỷ XX vừa là thách
thức, vừa là cơ hội thử thách tài năng và bản lĩnh của người cầm bút.
Trước thế kỷ XX, suốt hàng mấy thế kỷ sự sáng tạo văn chương ở ta có
một bộ phận đáng kể bị khuôn trong phạm vi khuôn khổ hướng tới thi cử và sự
thành danh sau khoa thi. Nhà nho, nhất là các bậc danh nho, vẫn làm thơ viết
văn nhưng thường chỉ xem đó là một cách nói chí mình ( ngôn chí ), trong lòng
có hứng thì viết ra (mạn hứng). Họ sáng tác là để phần nào tu dưỡng tính tình,
đôi khi là tự tiêu khiển. Xét về hiệu quả, tác phẩm viết ra không để cho ai khác
đọc ngoài chính mình, bè bạn mình, hoặc người sẽ chấm bài thi của mình. Đó là
khi văn tự (kể cả chữ Hán lẫn chữ Nôm) không thể phổ cập tới đám đông.
Không có những công cụ xã hội như báo chí, xuất bản để thường xuyên đăng
tải. Phương tiện thông tin giao tiếp quá đơn sơ, tốc độ chậm chạp, người ta sống
với làng thôn nhiều hơn sống với tầm nhìn rộng, mặc dù vẫn luôn luôn nghĩ đến
đất nước. Trong hoàn cảnh ấy, một tác phẩm văn chương sau khi ra đời thường
chỉ được biết tới trong phạm vi một vùng đất nhỏ.

Theo nhiều tài liệu đã tiếp nhận và suy ngẫm, chúng tôi xin mạnh dạn
nêu ra hai xu hướng khởi phát của nghề văn đầu thế kỷ với hình dung hạn hẹp
của mình. Một là, người cầm bút coi nghề văn là thiêng liêng, trân quý và tạo
nghiệp cẩn trọng. Hai là, người viết lách nhận thấy nghề văn có thể là một
nghề kiếm sống mà lại mang đến cả ít nhiều danh tiếng nên họ đã chọn như
một công việc kiếm tiền. Nhưng dù mục đích ban đầu là lập thân hay nuôi
10


thân thì rồi trong thực tế chắc chắn nhà văn đã có lúc “thăng giáng” theo các
hướng không chủ định. Vì thực chất khi gánh nặng cơm áo thúc bách cũng
khiến văn tài liên tục được phát tiết tinh hoa. Với người tài khi viết nhiều rồi
họ sẽ tự cuốn theo dòng chảy sáng tạo của chính mình để hợp lưu với các tác
giả cùng thời, sáng tạo này làm nảy sinh sáng tạo khác mà nên nghiệp, sáng
danh. Nhưng cũng có trường hợp bản lĩnh và tài năng chưa thật vững và rõ, lại
chạy ào ào theo tiền tài, danh vọng mà thất thân, lạc mộng. Những người này
đã rơi rụng tên tuổi, mờ phai văn nghiệp. Những người còn lại với chúng ta
hôm nay, sau đến khoảng 70 năm là những nhà văn đáng trân trọng và tìm
hiểu sâu kỹ.
Khi nói đến văn chương của một thời “nở rộ” cả về số lượng và chất
lượng, một giai đoạn tạo thành bước ngoặt, thành đà cho văn học Việt Nam,
chúng ta nên tìm hiểu về môi trường văn học, chủ thể văn học, sự tiếp nhận
ảnh hưởng nước ngoài “cân đối” với sự nối tiếp di sản ông cha trong yêu cầu
hiện đại hóa văn học.
1.1.2. Đôi nét về sự phát triển của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Bước sang thế kỷ XX, cùng với những đổi thay của tình hình xã hội,
sinh hoạt văn chương trở nên dần thay đổi, rồi trở thành khác hẳn. Bối cảnh
văn học của những thập niên đầu thế kỷ XX mang sự chuyển đổi quỹ đạo và
hệ hình văn học. Trong thời trung đại, “văn học việt Nam vừa là một một nền
văn học mang tính quốc gia - dân tộc, vừa vận động trong quỹ đạo của vùng

văn học châu Á, lấy văn học Trung Quốc là “cổ mẫu”, làm nền văn học kiến
tạo vùng [36; 63]. Như vậy có thể hiểu rằng hệ hình văn học trung đại vẫn tiếp
nối và kéo vệt đuôi dài với cả nét đẹp và cả ít nhiều sự lạc hậu sang đầu thế kỷ
XX. Sở dĩ, chúng tôi gọi là lạc hậu là vì văn học Nho gia dù sao cũng không
rộng mở. Những năm cuối của thế kỷ XIX và sang thập niên đầu của thế kỷ
XX, chưa có nghề văn cho dù nhiều người viết, chưa có cả lực lượng bạn đọc
đông đảo bởi hạn chế khó phổ cập của chữ Hán, chữ Nôm. Bộ phận văn học
bằng chữ quốc ngữ ở Nam bộ đã có những thành công như của Trương Vĩnh
11


Ký, Huỳnh Tịnh Paulus Của… nhưng vẫn chưa thể coi là rất phổ biến, phổ
cập trên toàn quốc. Vì thế, nói chung người viết dù có ý thức lưu danh thì
cũng không tiên liệu được bề rộng khắp để xác định được mục tiêu dùng văn
chương kiến tạo cấu trúc tư tưởng. Theo GS.TS.Trần Ngọc Vương: “Văn học
bác học truyền thống chưa bao giờ là nền văn học có tính phổ cập rộng rãi” và
“ cho tới cuối thế kỷ XIX vẫn bảo lưu rất đậm tính chất vùng, miền. Các bậc
„danh sĩ‟ chủ yếu là „danh sĩ‟ của một xứ, một địa phương cụ thể nào đó” [36;
65]. Nhưng khi văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng phương Tây (chủ yếu là
Pháp) thì tình hình khác hẳn. Sự hiện đại hóa tràn vào như luồng gió mới kích
thích sự phát triển của văn học. Nhưng cũng phải thấy những quay cuồng nhất
định đã diễn ra. Trong không gian văn hóa truyền thống là của khu vực nông
nghiệp thuần túy, lại ảnh hưởng nho giáo lâu đời bỗng ngập tràn mưa gió mới,
bão lốc văn hóa, văn học ảnh hưởng từ phương Tây, tạo ra những khủng
hoảng và gây “sốc văn hóa” nhất định cho người đương thời. Đặc biệt là trong
bối cảnh xã hội thực dân. Thực tế. như đã thành quy luật, thời kỳ nào có sự
khủng hoảng văn hóa thì lại có hành trình tìm lại các giá trị. Thời đầu thế kỷ
XX, các học giả, chí sĩ, nhà văn, nhà báo tiến bộ cũng đã tìm lại “nguồn
dưỡng chất trần gian”. Bên cạnh đó, lại có sự cộng hưởng với các phong trào
cách mạng, hầu hết theo hướng đại chúng hóa. Ở một cách hiểu bao quát đại

chúng và dân gian có sự tương đồng. Đây cũng chính là thời kỳ chuyển hệ
hình văn học. Đội ngũ sáng tác của hệ hình văn chương truyền thống mà
thành phần nòng cốt là nhà Nho “lần lượt rời bỏ vũ đài lịch sử mà cũng từng
bước rời bỏ văn đàn, sau khi đã trao lại cho hậu thế những đóng góp cuối
cùng” [36; 298] và theo GS.TS. Trần Ngọc Vương: “Tản Đà là văn nhân của
hệ hình văn học cũ, nhịp cầu nối hai hệ hình văn học”. [36; 306]. Xét theo thời
gian sống, Tản Đà (1889 – 1939) là lớp người đi trước Trúc Khê đến hơn một
thập niên. Trước khi ra trình làng làm báo, viết văn, Tản Đà là bậc văn nhân
có những tác phẩm khiến Trúc Khê đã đọc mê say. Trúc Khê không là tác giả
văn học cùng tạo dấu nối chuyển hệ hình như Tản Đà, mà có thể ông ở trong
12


nhóm những người mở đầu hệ hình mới sau đó. Tuy rằng, văn chương Trúc
Khê còn nhiều luyến lưu và có liên quan khó dứt hẳn với hệ hình cũ. Có thể
thấy, trong đội ngũ các nhà thơ, nhà văn hiện đại là chủ nhân thực sự của hệ
hình văn học thứ hai chủ yếu “ra đời trong khoảng những năm 1910-1920”
[36; 302] thì với thời điểm được sinh vào năm 1901, Trúc Khê nằm ở chính
giữa của chuyển nối từ Tản Đà sang các tác giả hiện đại về sau. Văn tài không
theo tuổi, nhưng các nhà văn sống ở giữa đoạn giao thời đang hiện đại hóa với
tốc độ lớn, thì việc chênh nhau một thập niên sinh thành rất quan trọng.
Trong lòng các đô thị mới xuất hiện, một lớp công chức mới hình thành.
Báo chí sách vở cũng là một bộ phận không thể thiếu trong xã hội. Sau báo
chí tiếng Pháp, các loại báo chí viết bằng chữ quốc ngữ và các hiệu sách (tiền
thân của các nhà xuất bản), lần lượt xuất hiện. Hoạt động báo chí cần định kỳ
nên tất yếu đòi hỏi cần có những người thường xuyên cung cấp bài vở. Một
guồng máy sản xuất và tiêu thụ văn chương cứ thế hình thành và mở rộng.
Như vậy, văn chương lúc này thật đã thoát khỏi tình trạng “tự phát”, “tự cung
tự cấp” trong giới nho sĩ xưa, để trở thành một ngành hoạt động xã hội. Sở dĩ
chúng tôi bàn về báo chí và xuất bản thời kỳ 1932 – 1945 là vì nhà văn Trúc

Khê Ngô Văn Triện cũng giống các văn sĩ, ký giả cùng thời vì đã làm văn và
viết báo “hai trong một”. Trong đó, cũng giống với nhiều bạn cầm bút của
mình, ông có được sự năng động của người làm nghề báo và sự sâu sắc của
người viết văn. Thời đó, cái cách tự trào của các nhà Nho đã giúp chính họ và
những người tiếp nối bước vào việc hiện đại hóa văn thơ mình bằng nét cười
nhập cuộc, bớt gượng gạo. Đặc biệt, họ không hề “hủ nho” như đã có những ý
kiến chê bai thiếu thiện chí. Vì thế mà thơ văn trào phúng đã là bộ phận xuất
sắc nhất, chín nhất của văn học ba thập niên đầu thế kỷ XX. Nó được viết ra
từ chính mấy nhà Nho. Ấy là khi Nho gia sang thời mới có nhu cầu cười chính
mình. Tú Xương cười nhiều nhất đến mức người ta như lãng đi mất ông là nhà
thơ trữ tình. Tản Đà thì mặc dù vẫn làm thơ trữ tình là chính song ông cũng có
phen tự cười:
13


Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng.
Xuất thân trong gia đình nhà Nho, Nguyễn Công Hoan có cách sắp xếp
giải quyết riêng cụ thể: ông coi con người chân thật của ông là con người thơ.
Còn cái người viết văn xuôi là phần bỏ đi… Thế là mỗi người mỗi cách, dù có
thừa nhận hay lảng tránh nhưng đều tránh nếp quen cũ, đi tìm mình trong một
bến bờ mới. Thực tế tính tổ chức vốn không phải là mặt mạnh của xã hội bấy
giờ, càng không phải mặt mạnh của văn học Việt Nam. Bởi trừ nhóm Tự lực
văn đoàn thì hầu như không có một sự chung lòng đồng thời với nhau hoặc
“bàn giao” để người sau tiếp, song trong sáng tác vẫn như là người này có sự
hưởng ứng người kia. Như thể tự nhìn nhau mà chuyển đổi, mỗi nhà văn đều
phải tự giác nhận tác động của đồng nghiệp và điều chỉnh mình. Trúc Khê
Ngô Văn Triện hướng theo các thơ văn của các Nho gia suốt thời trẻ trai của
mình. Đến giữa những năm 20 của thế kỷ trước, ông mới nhận ra việc mình
phải có bước tiếp nối, phát triển, chứ không thể chỉ hoài cổ. Và ông đã trăn

trở:
Trời bắt sinh ra kiếp học trò
Học trò sinh phải bước đa lo
Lo nhà, lo nước, lo thân thế,
Nhà khó, thân hèn, nước rủi ro.
Nhà khó, thân hèn, nước rủi ro,
Lòng ta trăm mối rối như vò.
Kiếp sau thôi chớ làm người nữa,
Làm kiếp chim bằng ta tự do.
(Kiếp học trò)
Có thể thấy, điều cần chú ý là nhiều nhà Nho đầu thế kỷ ngỡ “cũ” lại đi
về phía mới trong xu hướng đi đến dân tộc. Trúc Khê là một nhà Nho thức
thời. Ông không coi viết văn kiếm sống là có gì không tốt, vì nhà Nho xưa

14


thường không tham gia vào việc kiếm tiền, thậm chí khinh bỉ việc kiếm tiền là
“trục lợi”. Nhưng Trúc Khê chăm chỉ và năng động dùng ngòi bút kiếm tiền
nuôi cả gia đình. Ông thích sự tài tử và tài văn của Tản Đà nhưng ông lại sống
theo cách khác. Trúc Khê là người chồng, người cha lo cho cả một gia đình
với vợ ốm, con đông. Đến mức khi ông mất, thì cả gia đình ông khốn đốn. Vì
ngoài nỗi đau về tình cảm, cả nhà còn không biết phải lấy gì để sinh sống.
Sinh thời, để kiếm tiền, ông viết sách, viết báo, dịch thuật rất nhiều. Nhưng
điều có thể thấy ngay là tất cả những gì ông viết ra đều hướng về tinh thần dân
tộc. Trúc Khê cũng giống các nhà Nho tiến bộ đương thời quan niệm về tinh
thần dân tộc là lòng yêu nước và ý thức góp công vào phát triển, mở mang văn
hóa dân tộc. Ông cũng không bị “hủ nho” mà ông sẵn sang ca ngợi cái hay, sự
tiến bộ đến từ bên ngoài. Trong bài “Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900-1930”, PGS.Trần Đình Hượu nhận định rất thấm thía: “Ta cũng chứng

kiến việc một số nhà Nho ra thành phố sinh nhai bằng nghề viết văn. Sống ở
thành thị và với những người thành thị, bản thân họ cũng thành thị hóa. Họ
đưa vào văn học cũ những xúc cảm cá nhân, những cảnh vật, không khí thành
thị và vì nghề nghiệp viết văn bán cho công chúng họ đã ra công khai thác tất
cả những kinh nghiệm sáng tác trong ca dao dân ca và các truyện Nôm của
các nhà nho tài tử thế kỷ trước, tìm những cái gì thích hợp để nói về cuộc sống
mới, con người mới ở thành thị. Họ cũng mang vào lịch sử văn học dân tộc
những cách tân đáng kể về nội dung, nghệ thuật và quan niệm văn học” [7;
437]. Trúc Khê Ngô Văn Triện là một trong những trường hợp có thể hội tụ
thành nhận xét trên của nhà nghiên cứu. Song ở Trúc Khê cũng có những nét
riêng biệt có thể đi sâu tìm hiểu thêm.
Xin được trở lại với nhóm Tự lực văn đoàn. Nhóm này hoạt động văn
học một cách chuyên nghiệp và rất thành công. Trong đó phải kể đến đóng
góp của Nhất Linh. Lịch sử văn hóa Nhật Bản xác nhận là người Nhật cũ mê
văn hoá Trung quốc quá thường cử người sang tận nơi để học, học lấy bằng,
tức biết làm đúng như người Trung Quốc rồi mới về làm theo cách của
15


mình. Chúng ta cũng không quên rằng trước khi qua Pháp, Nhất Linh đã viết
cho Nam Phong và đã có Người quay tơ, Nho phong. Cái khác của một
tờ Nam Phong so với báo chí đương thời ở chỗ đây là loại tạp chí, không đi
vào tin tức thời sự mà đi sâu vào biên khảo. Vậy là, Nhất Linh là một trong số
ít người làm việc một cách có ý thức: ý thức từ bỏ (tức là dù đã có một sự
nghiệp rồi vẫn bỏ sự nghiệp đó mà đi) và ý thức tiếp nhận nên đã sang Pháp.
Cứ như vậy, cái mới và tính chuyên nghiệp tràn vào. Có thể thấy văn học thời
kỳ này chuyển đổi rõ nhất là ở thơ. Chưa bao giờ ở Việt Nam, văn học được
“xã hội hoá” rộng rãi như vậy. Trong lĩnh vực tiểu thuyết, không có một
phong trào rầm rộ. Người ta cứ lặng lẽ làm. Nhưng thỉnh thoảng, họ vẫn nói
với nhau một vài câu chuyện nghề nghiệp. Các nhà văn thời Trúc Khê rất

trọng nhau và thường sẻ chia theo cách của mỗi người nhưng vì đó là buổi
bình minh khi thơ văn thành nghiệp nên điểm chung khiến mọi người cùng rất
dễ tiến bộ là ai cũng trọng nghề văn và coi viết và sáng tạo “khơi những
nguồn chưa ai khơi” là những điều thiêng quý. Trúc Khê cũng vậy, đọc ông,
chúng ta thấy rõ ý thức trách nhiệm của con người với cuộc đời. Cho dù, thời
đó chưa có tổ chức nghề nghiệp, chưa có Hội Nhà văn nhưng ai có tâm với
nghề đều gần như có ý thức “hội viên” hội sáng tạo văn chương giúp đời. Đã
từng có nhiều nhận định được tán đồng về người Việt quen và giỏi tính việc
trước mắt là hơn tính chuyện lâu dài, thích thiết thực và trọng thực hành
hơn lí thuyết. Nhận xét ấy có lẽ cũng đúng ở lĩnh vực văn chương. Như vậy,
sản phẩm văn học của thời đầu thế kỷ XX là những gì mà người đương thời
thấy có thể viết, có thể truyền bá là làm. Những trăn trở của nhà văn Hộ trong
“Đời thừa” của Nam Cao về việc không thể cho ra đời thứ văn chương “quấy
loãng” và điều nhức nhối rằng cẩu thả trong văn chương là “khốn nạn” phản
ánh ý thức của người cầm bút lúc đó. Cách tự răn như thế khiến các nhà văn
thời đầu thế kỷ XX thật đáng trân trọng. Trúc Khê Ngô Văn Triện cũng cần
kiếm tiền nuôi gia đình nhưng ông đã chọn cho mình hướng đi riêng, cách
sáng tạo riêng. Ông không lý thuyết cao đàm khoát luận mà âm thầm theo
16


đường văn với hành trang là tinh thần dân tộc và quý trọng những nét đẹp đã
qua thử thách của thời gian. Thế nên dù có thể bị chê là chưa đổi mới mạnh
mẽ, nhưng ở tác giả này tuyệt đối không có bước đi quá rồi lùi lại. Xin được
nhớ lại rằng, khi tổng kết phong trào Thơ mới, Hoài Thanh đã nhận xét là chỉ
sau một ít có vẻ như xa lánh, khinh rẻ, các nhà thơ mới lại nhanh chóng quay
về với truyền thống thơ Đường, và nếu được bổ sung thì phải nói có cả truyền
thống dân gian. Sự kiên định và “biết mình biết người” của Trúc Khê là một
điều rất rõ.
Khi tìm hiểu về Trúc Khê, chúng ta cần quan tâm đến quan hệ của văn

chương và báo chí đương thời. Trúc Khê là một nhà báo với số lượng bài viết
rất lớn. Đã làm báo thì thời nào cũng cần sự năng động. Và việc kết nối được
người viết văn với làm báo vừa ngỡ là đương nhiên, vừa như thử thách. Thông
thường nhiều tác giả nếu say viết tác phẩm dài thì biếng viết từng bài báo nhỏ
hơn, và ngược lại. Nhưng trong suốt hành trình của mình, Trúc Khê đã viết
báo nhiều và đều trên mọi nẻo đường sáng tạo thơ văn, cũng như dịch thuật,
biên khảo. Đấy là ở thời kỳ có thể thấy mối quan hệ giữa văn và báo thật lạ
kỳ, cho dù báo chí chưa hẳn là văn chương, văn chương không phải là báo chí.
Nhưng có thể nói trên thế giới, từ khi có báo chí đến nay, đặc biệt là càng về
sau, báo chí và văn chương càng gắn bó, có duyên nợ với nhau như hai người
bà con gần gũi nhất. Báo chí nhờ sức mạnh của văn chương để lôi cuốn người
đọc. Văn chương nhờ báo chí mà thêm điều kiện phát triển, nhất là ở buổi đầu
hình thành nền văn học Việt Nam hiện đại. Ở buổi đầu này, báo chí là nơi làm
giàu kho tàng ngôn ngữ và tạo giúp cho văn chương dễ dàng hơn trong việc
chuyển ngôn ngữ từ phạm trù trung đại nhiều chất bác học, ước lệ sang phạm
trù hiện đại lấy ngôn ngữ toàn dân, ngôn ngữ đời thường làm chất liệu chủ
yếu. Báo chí là nơi các nhà văn luyện bút, bởi phần lớn các tác phẩm ra đời
trong thời kỳ đầu của nền văn học hiện đại này được báo chí công bố trước
khi in thành sách ở nhà xuất bản. Đúng là báo chí không phải là văn chương
nhưng văn chương cũng là một thành tố không thể thiếu của báo chí. Có văn
17


chương, báo chí có thêm sức mạnh. Duyên nợ giữa báo chí và văn chương sẽ
ngày càng trở nên gắn bó và sẽ là duyên nợ truyền kiếp.
Nhờ con đường tỏa khắp và giao diện rộng của báo chí, văn chương có
sức tác động lớn đến cách sống, cách nghĩ của bạn đọc đương thời. Ở vào thời
điểm đó, trong tình hình đó, nhà văn và nhà báo dường như là một. Nhà văn
làm cho những bài báo hấp dẫn hơn và việc phải viết cho báo định kỳ đã khiến
họ chăm chỉ một cách đều đặn hơn, khẩn trương hơn. Không ít tác phẩm lớn

có được khi xâu nối các kỳ truyện được viết ra mặt báo. Những tờ báo ra đời
trước 1932, ít nhiều có liên quan nhiều đến văn học, bao gồm: Đông Dương
tạp chí, Nam Phong tạp chí, Phụ nữ tân văn, An Nam tạp chí v.v… Các tờ báo
này thường có mục văn uyển giới thiệu thơ văn mới sáng tác cũng như thơ văn
truyền tụng đã lâu, nay được sưu tầm, ngoài ra, còn có phần văn dịch. Trong
việc hình thành nền quốc văn mới, báo chí có gì đó giống như nơi người ta tập
tành, để chuẩn bị cho những bước đi dài rộng hơn sau này. Nghề báo mới chỉ
du nhập vào xã hội Việt Nam từ những thập kỷ cuối của thế kỷ XIX, sau đó
trở thành một hoạt động quen thuộc trong xã hội từ nửa đầu thế kỷ XX. Báo
chí đồng hành cùng với văn học hiện đại. Dẫu rằng nghề làm báo vốn từ Tây
phương truyền sang, song một số người đứng ra viết báo đầu tiên lại ở xứ
ta (rõ nhất là ở Hà Nội ) lại là các cụ đồ nho biết chữ Hán (mà người xưa quen
gọi là chữ nho). Các cụ đã có một vốn văn hoá căn bản và chữ quốc ngữ lại dễ
học với mọi người. Các cụ tìm thấy trong việc làm báo một điều kiện tốt để
thực hiện cái chí đã hấp thụ từ đạo thánh hiền “nhất ngôn khả dĩ hưng bang”,
nói nôm na như con người ngày nay tức là báo chí có thể là một công cụ tốt
để đóng góp cho xã hội và trước tiên là giáo dục quần chúng. Báo chí lại càng
dễ lẫn với văn học là vì thế.
Sự thực thì những nhà báo nổi bật trong thời kỳ mới có báo, phần lớn
lại là những nhà văn. Trong một số sách lịch sử văn học, Tự lực văn đoàn
thường được miêu tả như một nhóm nhà văn đại diện cho chủ nghĩa lãng mạn,
xa rời đời sống. Song công bằng mà nói, chính trong tôn chỉ của mình, Tự lực
18


văn đoàn đã đặt vấn đề “ca ngợi những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính
cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân”
[57].
Như các nhà nghiên cứu thường nhận xét, nhìn chung văn học Việt
Nam từ khoảng 1920 trở đi có tốc độ biến chuyển rất mau lẹ. Sở dĩ vậy vì chỉ

trong có đâu vài chục năm, nền văn học ấy đã diễn lại những bước đi của các
nền văn học Âu châu trong một thời gian dài từ thế kỷ XIX về trước, tức là đi
qua cả mấy giai đoạn: Chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa khai sáng, chủ nghĩa lãng
mạn, rồi bộc lộ một cách đầy đủ hơn ở chủ nghĩa hiện thực.
Có thể nói tình yêu tiếng Việt và khát vọng xây dựng một nền văn
chương hiện đại bằng tiếng Việt đã là một trong những nhân tố chính yếu làm
nên giá trị của nhiều cây bút cũng như làm nên sự thống nhất của các nhà văn
vốn thuộc về các tầng lớp xã hội khác nhau, và tồn tại ở những thời điểm khác
nhau. Ở đây có một điều khá thú vị là có một cuộc chạy tiếp sức. Một thế hệ
ra đời thường tự khẳng định bằng cách phê phán thế hệ đi trước, qua đó, tìm
ra cách đóng góp riêng của thế hệ mình để thúc đẩy công cuộc xây dựng tiếng
Việt và văn học dân tộc đi thêm một bước mới. Tự Lực văn đoàn là một bước
tiến so với Hoàng Ngọc Phách và Hoàng Tích Chu, thì sau đó, một số nhà văn
thuộc nhóm Tân Dân, như Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Nam Cao, Tô Hoài...lại là
một bước đi khác Tự Lực văn đoàn. Ngay từ 1957, một nhóm các nhà nghiên
cứu, khi viết Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, đã nhận xét: “Chỉ cần năm
mươi năm cũng đủ cho văn xuôi Việt Nam từ những bước lững chững mò
mẫm thời Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của tiến lên thành một công cụ diễn
đạt được cái cảm kích thâm trầm của Thạch Lam, cái duyên dáng đãi bôi của
Đoàn Phú Tứ” [57].
Viết văn bằng tiếng Việt là một điều ngày nay ai cũng coi là hiển nhiên,
nhưng hồi đầu thế kỷ lại bị đặt thành câu hỏi, vì thực tế trên nửa thiên niên kỷ
trước đó, cả văn chương bằng chữ Hán và văn chương bằng chữ Nôm cùng
tồn tại, và tới đầu thế kỷ XX, thì khả năng xây dựng một nền văn chương viết
19


bằng chữ Pháp, tuy thấp nhưng không phải là không có. Vậy là ngay trên “sân
nhà”, tiếng Việt vẫn phải giành giật lấy vị thế của mình, và chỉ tới những năm
40 của thế kỷ XX, chiến thắng của nó mới được coi là hoàn toàn. Có thể cắt

nghĩa sự toàn thắng ấy bằng xu thế thời đại.
Một mặt, từ thời kì này, có những tờ báo chuyên về văn chương, hoặc
chủ yếu là văn chương có khuynh hướng riêng, lực lượng viết ổn định, để lại
dấu ấn trong đời sống văn học như Phong hoá, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ bẩy,
Tao đàn, Thanh Nghị, Tri Tân. Mặt khác, các nhà xuất bản tương đối bề thế
làm ăn có quy củ cũng bắt đầu hình thành, để lần lượt công bố những ấn phẩm
nổi tiếng, trong đó có một số sẽ còn mãi với lịch sử văn học. Đó là các nhà
xuất bản Đời Nay, Tân Dân, Mai Lĩnh, Tân Việt v.v...
PGS.TS Đoàn Đức Phương trong bài “Tiếp nhận văn học từ góc nhìn
văn hóa” đã viết: “Hướng tiếp nhận văn học từ quan điểm văn hóa ưu tiên cho
việc phục nguyên không gian văn hóa trong đó tác phẩm văn học ra đời” [13].
Hướng tiếp nhận này thiên về giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nét
thời đại của tác phẩm. Quan niệm về con người gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ
thể. Hình tượng con người trong văn học mang những phẩm chất gắn với một
nền văn hóa nhất định là quan niệm đúng đắn. Và nhà nghiên cứu cũng đưa ra
nguyên tắc của tiếp nhận văn học từ góc nhìn văn hóa là “đi tìm ảnh hưởng
không chỉ của văn hóa đương thời đối với văn học mà còn truy nguyên đến
các truyền thống văn hóa của cộng đồng” [13; 52]. Vì những lẽ đó khi hiểu
thời đại mà tác giả đang sống cũng như truyền thống văn hóa thấm sâu trong
lối sống của một cộng đồng dân tộc là đúng đắn. Vậy nên khi đọc thơ Trúc
Khê, người đọc hiểu những vần thơ đó cất lên từ một cuộc thâm nhập mà cũ
đang hòa vào mới, đọc văn Trúc Khê cũng biết về một giai đoạn mộng yêu
đương tự do đã lấp lánh nhưng gần như còn tách rời mục tiêu hiện thực hóa
mộng trong đời. Là một nhà nho ngỡ thất vận thành một trí thức dân tộc, Trúc
Khê có những nét riêng - chung khá tiêu biểu cho một lớp người của một thế
thời. Người ưa “bứt phá” khi đọc văn của ông có thể như chưa thấy thật thỏa
20



×