Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - cái phổ biến và cái đặc thù : Luận văn ThS. Triết học: 60 22 80

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.59 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THANH NHẠN

NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM- CÁI PHỔ BIẾN VÀ CÁI ĐẶC THÙ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội-2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THANH NHẠN

NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM- CÁI PHỔ BIẾN VÀ CÁI ĐẶC THÙ

Luận văn Thạc sĩ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 602280

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Ngọc Long



Hà Nội-2013

2


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 5
1.Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 6
2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................. 9
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ................................................... 13
4. Đóng góp của luận văn......................................................................... 14
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu ......................................... 14
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ......................................... 14
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................ 14
CHƢƠNG 1. NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA –
CÁI PHỔ BIẾN VÀ CÁI ĐẶC THÙ ..................................................... 15
1.1. Bản chất và hình thức nhà nƣớc- cái phổ biến và cái đặc thù. ..... 15
1.1.1 Cái phổ biến và cái đặc thù.............................................................. 15
1.1.2. Bản chất nhà nước với tư cách là cái phổ biến. ............................ 20
1.1.3. Hình thức nhà nước với tư cách là cái đặc thù. ............................ 22
1.1.4. Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước. ................................. 25
1.2. Nhà nƣớc pháp quyền với việc thực hiện dân chủ. ........................ 28
1.2.2. Nhà nước pháp quyền là một hình thức thực hiện dân chủ......... 28
1.2.2.1 Lược sử tư tưởng nhà nước pháp quyền ........................................ 28
1.2.1.2 Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền .................................. 38
1.2.2 Nền dân chủ tư sản và nhà nước pháp quyền tư sản. .................... 40
1.3 Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa với tính cách là cái đặc thù
của nhà nƣớc pháp quyền........................................................................ 43
1.3.1 Nhà nước xã hội chủ nghĩa tất yếu là nhà nước pháp quyền. ...... 43

1.3.2 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa- lí luận và thực tiễn. ...... 45
1.3.2.1 Tư tưởng của chủ nghĩa Mác về nhà nước xã hội chủ nghĩa. ....... 45
1.3.2.2 Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ................. 49
CHƢƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CÁI ĐẶC THÙ CỦA NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ............... 53
2.1 Những nhân tố quy định tính đặc thù của nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt nam. ........................................................................... 53
2.1.1 Nhân tố truyền thống văn hóa. ...................................................... 53
3


2.1.1.1 Truyền thống văn hóa xã hội.......................................................... 54
2.1.1.2 Truyền thống chính trị Việt Nam.................................................... 57
2.1.2 Nhân tố chính trị . ........................................................................... 61
2.1.2.1 Đường lối cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. .......... 61
2.1.2.2 Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam. ............ 65
2.1.3 Nhân tố kinh tế ................................................................................ 66
2.1.3.1 Đặc điểm cơ bản của nền kinh tế Việt Nam hiện nay .................... 66
2.1.3.2 Xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam hiện nay.............................................................................................. 68
2.1.3.3 Vai trò lãnh đạo, tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước pháp
quyền XHCN VN......................................................................................... 69
2.2 Quá trình nhận thức và thực tiễn xây dựng nhà nƣớc pháp quyền
XHCN Việt Nam ....................................................................................... 73
2.2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam
về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. ............................................. 73
2.2.1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
.................................................................................................................... 73
2.2.1.2 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. ........................................................................................ 75

2.2.2 Đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. ............... 80
2.3 Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái phổ biến và cái đặc thù
góp phần giải quyết một số vấn đề về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền
XHCN Việt Nam hiện nay. ...................................................................... 81
2.3.1 Vấn đề một đảng lãnh đạo. .............................................................. 81
2.3.2 Vấn đề phân công quyền lực nhà nước. ......................................... 84
2.3.3 Vấn đề chống bệnh quan liêu trong bộ máy nhà nước. ................. 87
KẾT LUẬN ............................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 96

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

XHCN :

Xã hội chủ nghĩa

NNPQ :

Nhà nước pháp quyền

CNTB :

Chủ nghĩa tư bản

5



PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta hiện nay với đường lối
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước giữ vai trò hết sức quan trọng trong điều tiết vĩ mô. Vì vậy việc xây
dựng và củng cố Nhà nước pháp quyền - Nhà nước của dân, do dân và vì
dân như Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001 đã quy định là một trong những
nhiệm vụ bức xúc, vô cùng quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những
nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế- xã hội 2011 - 2020. Sự xác định mục tiêu xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN trong Báo cáo chính trị của Đại hội XI không chỉ là
khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách
tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp
chế mà còn là sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây
dựng nhà nước kiểu mới - một nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước ta ra đời từ Cách mạng tháng 8/1945 được rèn luyện và
trưởng thành qua hai cuộc cách mạng: Cách mạng Dân tộc dân chủ và cách
mạng xã hội chủ nghĩa, được thử thách qua hai cuộc kháng chiến và xây
dựng trong hòa bình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhà nước đã có
những đóng góp to lớn trong quá trình cách mạng, là công cụ đắc lực của
nhân dân trong đấu tranh cách mạng và xây dựng xã hội mới.
Quá trình đổi mới kinh tế - xã hội đang diễn ra sôi động. Nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, ngày càng thiết
lập và củng cố quan hệ đa phương, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, nhu
6



cầu dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội đòi hỏi phải xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền, đổi mới từ cơ chế, pháp luật, chính sách đến
mô hình tổ chức, phương thức hoạt động cho phù hợp và thúc đẩy trở lại
quá trình phát triển kinh tế -xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là khâu trọng yếu trong đổi mới hệ
thống chính trị, quan hệ mật thiết và tác động qua lại với chỉnh đốn Đảng,
nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng. Đổi mới nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện phát huy vai trò của Nhà nước pháp
quyền. Ngược lại, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát huy hiệu lực quản
lý Nhà nước là nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, làm cho đường lối
của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên trong xã hội hiện nay vẫn còn tồn tại nhận thức mơ hồ,
không chính xác, thậm chí sai lệch về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Thực tiễn đặt ra các câu hỏi như:
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa có phải là nhà nước pháp quyền hay nhà
nước pháp quyền duy nhất là nhà nước Tư sản?
Ở nhà nước pháp quyền, vấn đề phân chia quyền lực là vấn đề có
tính nguyên tắc. Ở nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nguyên
tắc này như thế nào? Tam quyền phân lập hay không ? Nếu không thực
hiện tam quyền phân lập liệu có đi ngược lại bản chất của nhà nước pháp
quyền?
Thông thường đa Đảng được hiểu như một biểu hiện của dân chủ,
nước ta một đảng lãnh đạo liệu có trái với nguyên tắc của nhà nước pháp
quyền hay không?
Hiện nay tồn tại tình trạng quan liêu hóa bộ máy nhà nước gây
nhiều hậu quả nghiêm trọng. Đó có phải là hệ quả của việc quyền lực
thống nhất và một đảng lãnh đạo?

7



Những câu hỏi đó đòi hỏi các nhà khoa học phải tìm ra các câu tra
lời thỏa đáng. Điều này có ý nghĩa quan trọng : Thứ nhất trang bị những
kiến thức khoa học, chính xác về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
cho nhân dân. Những tri thức này rất hữu ích cho công cuộc xây dựng hoàn
thiện Nhà nước ta trong điều kiện hiên nay.Thứ hai vô hiệu hóa những luận
điệu cố tình xuyên tạc, bôi nhọ danh dự của Đảng và Nhà nước ta nhằm
làm mất lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước; Lợi dụng tưởng sính
ngoại, sùng ngoại (ở đây là Chủ ngĩa tư bản) trong nhân dân, đặc biệt là trí
thức và giới trẻ, gây hoang mang, nhiễu loạn về tư tưởng xã hội.
Trong hoàn cảnh đó chúng tôi xác định đề tài “Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam – cái phổ biến và cái đặc thù” nhằm làm rõ tính
phổ biến của nhà nước pháp quyền và biểu hiện của nó trong tính đặc thù
của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Và sự thống nhất giũa cái phổ
biến và cái đặc thù như thế nào? Trên cơ sở đó làm rõ bản chất Nhà nước
pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng, phát hiện ra những biểu hiện sai
lệch với bản chất đó và đề xuất các biện pháp giải quyết, khắc phục .
Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, xác định quan điểm cơ bản,
phương hướng, chủ trương của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền,
khắc phục nhận thức mơ hồ, quan điểm lệch lạc là yêu cầu cấp thiết để
thống nhất tư tưởng, định hướng đúng cho việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong công cuộc đổi mới.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không có nghĩa là
quay lưng lại với quá khứ, xây dựng lại từ đầu một Nhà nước theo hướng
khác mà là xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, phát
huy thành tựụ và ưu điểm của Nhà nước ta trong hơn nửa thế kỷ qua, triệt
để khắc phục khuyết điểm - đây là sự kế thừa, vận dụng, phát huy học
thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật
trong điều kiện mới của quốc gia, thời đại, phục vụ công cuộc đổi mới.
8



2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một lĩnh vực
nghiên cứu liên ngành. Nó thu hút các nhà chính trị học, sử học, luật học,
triết học, văn hóa học theo nhiều chiều cạnh khác nhau. Đã xuất hiện những
ý kiến khác nhau, đa dạng, đôi khi trái ngược nhau. Nhưng chúng thống
nhất với nhau ở mục đích là : đóng góp các đề xuất, kế sách, để sao cho
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của chúng ta trở nên tối ưu, hợp
lý, đáp ứng được lòng dân, ý Đảng. Liên quan đến vấn đề này có rất nhiều
các công trình nghiên cứu, có thể tạm thời chia thành hai nhóm sau:
Nhóm 1,Các công trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền gồm có:
(1) “Triết học pháp quyền của Hêghen”: Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ
Minh Hợp.. H.: CTQG, 2002.
(2)Thuyết "Tam quyền phân lập" và bộ máy nhà nước tư sản hiện
đại”, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện thông tin khoa học xã hội, Hà
Nội năm1992.
(3)“Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy
nhà nước ở một số nước”, TS Nguyễn Thị Hồi Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005
(4) “ Hình thức của các nhà nước đương đại ”, Nguyễn Đăng Dung,
Nxb Thế giới, Hà Nội, 2004.
(5) “ Nhà nước pháp quyền”, Nguyễn Sĩ Dũng, Tạp chí lý luận chính
trị, 2007
(6) “ Tinh thần pháp luật” Mông-tél-xki-ơ, Nxb Giáo dục, Hà
Nội,1996 Nghĩa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999
(7) “ Hệ thống chính trị của các nước tư bản phát triển hiện nay”, Hồ
Văn THông, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội , 1999
(8) “ Những vấn đề cơ bản về nhà nước pháp luật ”, Đào Trí Úc,
NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995


9


(9) “Nhận diện Nhà nước pháp quyền”, Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, 2004.
(10) “Nhà nước pháp quyền”, Konrad-Adenaer-Sfiftung, Josef
Thesing, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 2002.
Nhóm 2, các công trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
(1)“Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” Trần Hữu Tiến, Tạp chí Triết học, 5/2002
(2)“Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng”, LS
Nguyễn Văn Thảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2006
(3)“Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,
GS.TS Đào Trí Úc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2006
(4)“Đổi mới phương thức lãnh đạo đối với nhà nước trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Thị Tâm
(2002), Luận văn thạc sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
(5)“Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, TS Trần Hậu Thành,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2005
(6)”Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dưng nhà nước pháp
quyền Việt Nam”, Đào Ngọc Tuấn, luận án tiến sĩ triết học, học viện chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2002.
(7) “Mô hình tổ chức hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam”, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007
(8) “ Về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”, Nguyễn Văn
Thảo, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội, 1997
(9) “Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”

Nguyễn Trọng Thóc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005
10


(10) “Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới”
Đào Trí Úc, Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội, 1997
(11) “Vận dụng học thuyết Mác để xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam”, Nguyễn Tĩnh Gia, Mai Đình Chiến, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2006
(12)“Nhà nước pháp quyền với việc thực hiện quyền lực chính trị
của nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay”, Phạm Ngọc Hà (2002), Luận
văn thạc sĩ Chính trị học.
Tổng quan các tài liệu cho thấy đa số các tác giả thống nhất ở các
quan điểm về các vấn đề sau. Thứ nhất, nhà nước pháp quyền là khái niệm
có tính lịch sử. Thứ hai nhà nước pháp quyền là hình thức của thể chế dân
chủ, vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù. Trên thực tế tùy thuộc vào
đặc điểm riêng mà nhà nước pháp quyền của các quốc gia khác nhau mà có
những hình thức tổ chức khác nhau. Thứ ba, việc xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam là tất yếu .
Bên cạnh đó vẫn tồn tại một số quan điểm còn nhiều tranh cãi như:
Liệu nhà nước mà chúng ta đang xây dựng có phải là nhà nước pháp quyền
không? Trên thực tế những vấn đề nảy sinh trong xã hội như dân chủ hình
thức, quan liêu, quyền lực nhà nước thống nhất,.. có nguyên nhân từ đâu?
Liệu đó có phải là bản chất của nhà nước ta hay chỉ là hiện tượng?...
Đặc biệt ở luận án “ Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam” đã phần nào giải đáp được những câu hỏi
trên một cách khoa học, hệ thống. Tuy nhiên luận án chỉ dừng lại ở việc
luận giải tính phổ biến và tính đặc thù trên bình diện “xây dựng nhà nước”,
tức là luận giải con đường xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam trong
thời kì quá độ lên CNXH. Luận án chưa đi sâu vào nghiên cứu nhà nước

pháp quyền như một thực thể đang tồn tại với bản chất và hình thức của nó,
những vấn đề xã hội xung quanh nó trong điều kiện hiện nay. Mặt khác,
11


luận án được hoàn thành cách đây hơn một thập kỉ, đến nay thực tiễn xã hội
có nhiều thay đổi, những vấn đề trong luận án đưa ra phần nào đã được giải
quyết đồng thời cũng nảy sinh những vấn đề mới, đòi hỏi được giải quyết.
Hơn nữa từ đó đến nay nhận thức của Đảng ta có sự đổi mới. Đại hội XI
(tháng 1/2011) đã làm sâu sắc thêm nhận thức về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và khẳng định “tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nhà nước ta
thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, thực
hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội, giải quyết đúng mối
quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với
nhân dân, với thị trường”. Báo cáo chính trị đã xác định một trong
những phương hướng quan trọng của việc xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các
thể chế và cơ chế, vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, và nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nâng cao vai
trò và hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế
và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phù hợp với tình hình
mới. Đặc biệt xu thế hội nhập, toàn cầu hóa với sự phát triển của các quốc
gia đi theo con đường XHCN và sự thích ứng của nhà nước pháp quyền tư
sản trong điều kiện hiện nay đã cho chúng ta thêm những kinh nghiệm xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Cũng trong hoàn cảnh đó nhà nước ta
bộc lộ những ưu điểm cũng như các nhược điểm, nảy sinh các vấn đề xã
hội nhức nhối, gây bức xúc trong dư luận.
12


Luận án “Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam” và các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
“Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam- cái phố biến và cái đặc thù” một
mặt có những nhân tố hợp lý, khoa học để tác giả kế thừa, mặt khác luận
văn sẽ đóng góp cái nhìn khoa học về bản chất và hình thức của nhà nước
mà toàn Đảng, toàn dân ta đang xây dựng và hoàn thiện trong giai đoạn
hiện nay. Liên quan đến các điều kiện đặc thù của Việt Nam trong việc tiếp
biến các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, cũng còn nhiều điều
đáng để bàn luận. Chính vì vậy, ở một chừng mực nhất định, luận văn cũng
mong muốn đóng góp một phần công sức vào khía cạnh mới mẻ này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ cái phổ biến và cái đặc thù của nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó chỉ ra những
vấn đề bất cập, han chế của nhà nước ta hiện nay và giải pháp điều
chỉnh,khắc phục.
Xuất phát từ mục đích như vậy, luận văn đặt ra nhiệm vụ là:
- Khái lược lịch sử lý luận nhà nước pháp quyền để làm rõ lôgíc phát
triển của nó (mạch dẫn từ tư tưởng này sang tư tưởng khác trong lịch sử
học thuyết nhà nước pháp quyền) để tìm ra những tiêu chí phổ biến của nhà
nước pháp quyền.
- Luận chứng cái phổ biến, cái đặc thù của nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam
- Vận dụng phương pháp luận biện chứng chỉ ra mối liên hệ cái phổ
biến và cái đặc thù trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam để nhận

thức và giải quyết một số vấn đề nảy sinh trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay

13


4. Đóng góp của luận văn
Góp phần tìm hiểu sâu thêm nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam.
Nêu một số đề xuất, kiến nghị và bằng cách đó thể hiện nguyện vọng
góp phần vào hoạt động cụ thể hóa định hướng xây dựng nhà nước ta hiện
nay.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn xác định cơ sở lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng về
phạm trù cái phổ biến và cái đặc thù, lý luận về nhà nước,...,quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền XHCN
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó
có các phương pháp cơ bản: Phương pháp quy nạp, diễn dịch, phân tích,
tổng hợp.
Luận văn sử dụng các nguyên tắc của phương pháp biện chứng, đặc
biệt là nguyên tắc lịch sử, nguyên tắc thống nhất giữa lôgíc và lịch sử... vào
việc tập hợp và xử lý các tài liệu. Luận văn quán triệt tư tưởng chỉ đạo của
quan điểm duy vật về lịch sử, theo cách là: đối xử với đối tượng nghiên
cứu như một hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng. Luận văn cũng coi
những chỉ đạo mang tính định hướng của Đảng, trong các văn kiện hữu
quan, là nguyên tắc để tiến hành triển khai nghiên cứu đối tượng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với những kết quả bước đầu người thực hiện hy vọng rằng, luận văn
có thể được dùng như một tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến
lĩnh vực nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 2 chương, 6 tiết

14


CHƢƠNG 1. NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA –
CÁI PHỔ BIẾN VÀ CÁI ĐẶC THÙ

1.1

Bản chất và hình thức nhà nƣớc- cái phổ biến và cái đặc

thù.
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển
và tiêu vong. Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều
kiện của xã hội loài người. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển đến
một mức độ nhất định và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự
tồn tại của nó mất đi. Vì thế một nhà nước vừa mang những giá trị phổ biến
để nó là nó và thể hiện nó trong thực tiễn thành những giá trị đặc thù.
1.1.1 Cái phổ biến và cái đặc thù.
Trong tư duy triết học mác-xít, mỗi sự vật, hiện tượng đều là thể
thống nhất giữa cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến. Các phạm trù này
luôn gắn liền với cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Biện chứng giữa
chúng biểu thị biện chứng của quá trình vận động, phát triển của hiện thực.
Phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng biệt. Cái riêng là một chỉnh thể có tính toàn vẹn, tính độc
lập tương đối. Mỗi cái riêng đều là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm
nhiều mặt, nhiều yếu tố, nhiều thuộc tính cấu thành nên. Những yếu tố tạo
nên cái riêng có mức độ phổ biến khác nhau: Có những yếu tố riêng có của

nó, không có sự lặp lại ở những đối tượng khác; có những yếu tố có sự lặp
lại nhiều lần ở một số đối tượng tương tự với nó; có những yếu tố lặp đi lặp
lại ở tất cả các đối tượng. Cái xuất hiện một lần, ở một sự vật duy nhất nào
đó và không có sự lặp lại được gọi là cái đơn nhất (theo nghĩa: cái đơn nhất
là cái không lặp lại thì mỗi cái riêng đồng thời là cái đơn nhất). Cái có sự
lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau được gọi là cái chung. Cái
chung có mặt xuất hiện ở một số sự vật, nhưng không xuất hiện ở những sự
15


vật khác được gọi là cái đặc thù. Cái chung có mặt ở mọi sự vật được gọi là
cái chung nhất hay cái phổ biến.
Cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến chỉ là một mặt, một bộ phận
của cái riêng cho nên chúng chỉ tồn tại trong cái riêng, tồn tại thông qua cái
riêng. Trong mỗi cái riêng đều chứa đựng những cái đơn nhất, riêng có của
nó; chứa đựng cái đặc thù, có mặt ở một số đối tượng giống nhau nào đó; và
chứa đựng những cái phổ biến của cả một lớp đối tượng rộng lớn hoặc của
tất cả các đối tượng. Tùy thuộc vào từng phạm vi xem xét, từng quan hệ cụ
thể để xác định đâu là cái đặc thù, đâu là cái phổ biến. Cái phổ biến trong
phạm vi này, trong quan hệ cụ thể này có thể chỉ là cái đặc thù ở một phạm
vi khác, trong một quan hệ khác.
Trong mỗi cái riêng đều chứa đựng cái chung, cái phổ biến. Quá
trình vận động, phát triển của cái riêng bao giờ cũng chịu sự chi phối bởi
những quy luật chung, quy luật phổ biến. Tuy nhiên, cái riêng không gia
nhập hết vào cái chung. Mỗi cái riêng còn chứa đựng cái đặc thù, đơn nhất.
Quá trình phát triển của mỗi cái riêng còn chịu sự tác động bởi những quy
luật đặc thù, riêng có của nó do nó còn chịu ảnh hưởng bởi những hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của mình. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn, con người cần biết vận dụng cái chung, cái phổ biến vào từng trường
hợp cụ thể nhưng đồng thời phải biết cá biệt hóa chúng, tránh thái độ trừu

tượng, chung chung hay dập khuôn, máy móc, giáo điều. Cái là đúng đắn,
phù hợp với giai đoạn cụ thể này, ở thời điểm cụ thể này có thể không còn
đúng đắn, phù hợp với một giai đoạn khác, ở một thời điểm khác và ngược
lại. Cho nên không được phép áp đặt một cách tùy tiện, chủ quan cái của sự
vật hiện tượng này cho một sự vật, hiện tượng khác.
Vạch rõ mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, cái phổ
biến và cái đặc thù, Lênin viết: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa
đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng.
16


Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là một
bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất của cái riêng. Bất cứ cái chung
nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái
riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung v…v…” [34, tr 381].
Trong quá trình vận động, phát triển của hiện thực, cái phổ biến và
cái đặc thù luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau. Thông qua cái đặc thù để cái
đơn nhất chuyển hóa dần dần thành cái phổ biến và ngược lại, cũng thông
qua cái đặc thù mà cái phổ biến có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất. Sự
chuyển hóa này gắn với quá trình hình thành cái mới và quá trình cái cũ
mất đi. Cái mới khi mới xuất hiện lần đầu thì nó chỉ là cái đơn nhất. Và nó
là cái tích cực, cái tiến bộ cho nên nó sẽ được khẳng định dần dần để trở
thành cái chung, cái phổ biến. Còn cái cũ, khi mất đi cũng phải thông qua
quá trình chuyển biến dần dần thành cái đặc thù, cái đơn nhất rồi mới mất
hẳn. Trong xã hội, quá trình chuyển hóa cái mới từ đơn nhất thành đặc thù,
phổ biến là cả một quá trình phức tạp, lâu dài; phải thông qua nhiều bước
quá độ, trung gian, nhiều khi phải chấp nhận cả những thất bại, những bước
thụt lùi tạm thời.
Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa “cái chung” và “cái riêng”, “cái
phổ biến” và “cái đặc thù”, các bài học đã được tổng kết dưới đây có ý

nghĩa hết sức quan trọng. Nó được coi là “kim chỉ nam” trong hành động
thực tiễn khi giải quyết bất cứ mối quan hệ nào giữa “cái chung” và “cái
riêng”, “cái phổ biến” và “cái đặc thù” [24, tr. 244]
Bài học thứ nhất, vì “cái chung” chỉ tồn tại trong “cái riêng”, thông
qua “cái riêng” nên chỉ có thể tìm “cái chung” trong “cái riêng” chứ không
thể ở ngoài “cái riêng”. Để phát hiện “cái chung” cần xuất phát từ những
“cái riêng”, từ những sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ cụ thể chứ
không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.

17


Bài học thứ hai, vì “cái chung” chỉ tồn tại trong “cái riêng” như một
bộ phận của “cái riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với những bộ phận,
những yếu tố còn lại của “cái riêng” – những cái không gia nhập vào “cái
chung” – nên bất cứ “cái chung” nào cũng tồn tại trong “cái riêng” dưới
dạng đã bị cải biến. Từ đó, một kết luận được rút ra là bất cứ “cái chung”
nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hóa. Nếu
không chú ý tới sự cá biệt hóa đó, đem áp dụng nguyên xi “cái chung”,
tuyệt đối hóa “cái chung”, thì sẽ rơi vào sai lầm của những người tả
khuynh, giáo điều. Ngược lại, nếu xem thường “cái chung”, chỉ chú ý tới
“cái đơn nhất”, tuyệt đối hóa “cái đơn nhất” thì sẽ rơi vào sai lầm của
những người hữu khuynh, xét lại.
Bài học thứ ba, vì “cái riêng” gắn bó chặt chẽ với “cái chung”,
không tồn tại ở bên ngoài mối liên hệ dẫn tới “cái chung”, cho nên để giải
quyết những vấn đề riêng một cách có hiệu quả thì không thể lảng tránh
được việc giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề lý luận liên quan
với các vấn đề riêng đó. Nếu không thể giải quyết những vấn đề lý luận
chung thì sẽ không tránh khỏi sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện, kinh
nghiệm chủ nghĩa. Lênin từng dạy chúng ta rằng: Người nào bắt tay vào

những vấn đề riêng trước khi giải quyết những vấn đề chung, thì kẻ đó,
trên mỗi bước đi sẽ không tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề chung một
cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng
trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có
những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc.
Bài học thứ tư, vì trong quá trình phát triển của sự vật, trong những
điều kiện, hoàn cảnh nhất định, “cái đơn nhất”, “cái đặc thù” có thể trở
thành “cái chung”, “cái phổ biến”; ngược lại, “cái chung”, “cái phổ biến”
có thể trở thành “cái đơn nhất”, “cái đặc thù”. Trong hoạt động thực tiễn,
sự vật mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay lập tức, bao giờ nó cũng
18


nảy sinh từ những yếu tố mới như là những cái đơn nhất. Nếu yếu tố ấy phù
hợp với quy luật phát triển khách quan thì chúng sẽ mở rộng dần phạm vi
tồn tại, tức là cái mà lúc đầu chỉ là đơn nhất sẽ từng bước chuyển hóa thành
“cái chung”, “cái phổ biến”…làm cho sự vật cũ thay đổi từ bản chất bên
trong đưa đến sự ra đời của sự vật mới. Chính vì cái đơn nhất có ý nghĩa
quan trọng như vậy nên trong quá trình nhận thức và hành động, người ta
không những phải nắm vững cái mới, mặc dù nó chỉ là cái đơn nhất, mà
còn phải nắm vững cả những điều kiện đáp ứng cho nhu cầu tồn tại và phát
triển của những cái mới, để chủ động tạo ra những điều kiện đó nhằm thúc
đẩy sự hình thành cái mới nhanh chóng hơn và ngược lại.
Bài học thứ năm, như đã đề cập, “cái đơn nhất” là phạm trù phản ánh
những nét đặc trưng riêng có của một sự vật, quy định tính chất cụ thể của
sự vật đó. Không nắm vững những nét đặc trưng đó thì chủ thể nhận thức
không thể hiểu đối tượng một cách đầy đủ như một chỉnh thể hiện thực.
Chính vì vậy, để nhận thức sâu sắc, thấu đáo một đối tượng nào đó, người
ta không thể thỏa mãn và dừng lại ở những mặt hay thuộc tính chung , cho
dù những mặt hay thuộc tính đó quy định bản chất của đối tượng, trái lại

còn cần phải nắm vững cả những nét đặc trưng riêng có như là yếu tố “đơn
nhất”. Chẳng hạn, để hiểu sâu sắc về CNTB Nhật Bản thì không thể dừng
lại ở những thuộc tính chung của CNTB hiện đại mà phải hiểu cả những
yếu tố riêng có của CNTB Nhật Bản.
Một số khái niệm, nội dung chủ yếu và những bài học đã được tổng
kết nêu trên về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái
đặc thù và cái đơn nhất là những nền tảng quan trọng trong phương pháp
tiếp cận của đề tài. Nó chính là công cụ, là phương tiện để giúp cho việc
thực hiện đề tài này.
Từ những khái niệm và mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù
đã nêu ở trên, có thể hiểu cái phổ biến của nhà nước là tất cả những
19


phương diện quy định sự tồn tại và phát triển của nhà nước,thể hiện trên hai
bình diện giai cấp và xã hội.Còn cái đặc thù là cách thức tổ chức quyền lực
nhà nước và những phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước trên ba
phương diện chính thể, cấu trúc nhà nước, chế độ chính trị.
1.1.2 Bản chất nhà nước với tư cách là cái phổ biến.
Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Nhà nước không đồng nghĩa với
xã hội, không phải xã hội loài người hình thành là đã có nhà nước. Lịch sử
xã hội đã có một thời kỳ chưa có nhà nước - thời kỳ xã hội cộng sản
nguyên thuỷ; chỉ đến khi xã hội phân chia thành giai cấp nhà nước mới ra
đời.
Chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia thành những giai cấp đối
kháng - chủ nô và nô lệ. Mâu thuẫn giữa các giai cấp, cuộc đấu tranh giữa
giai cấp đó không ngừng diễn ra và ngày càng quyết liệt không thể điều hoà
được. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau
mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội, tạo ra một tình trạng loạn lạc hỗn độn. Xã
hội lúc này đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt cuộc xung đột

công khai giữa các giai cấp ấy, hoặc cùng lắm là để làm cho cuộc đấu tranh
giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp
và để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời
và đó chính là nhà nước
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, tiếp đó
là nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản đều xuất hiện từ mâu thuẫn đối
kháng giai cấp vốn có của mỗi xã hội đó. Như vậy, nhà nước là sản phẩm
và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Ở đâu
có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà thì ở đó nhà nước xuất hiện. Nhà
nước ra đời tựa hồ đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật
tự nhất định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống
trị về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ
20


có nhà nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị,
và do đó có thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp
khác. Vì thế, về bản chất Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một
giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác, là bộ máy dùng để duy trì
sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là cơ quan quyền lực
của một giai cấp đối với toàn xã hội, là công cụ chuyên chính của một giai
cấp. Mặt khác nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự
tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư
nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Căn cứ vào đó có thể thấy bản chất nhà
nước được thể hiện ở hai mặt, đó là tính giai cấp và tính xã hội của nhà
nước.
Thứ nhất là tính giai cấp của Nhà nước: thể hiện ở chỗ nhà nước là
công cụ thống trị trong xã hội để thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền,
củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản
chất của nhà nước chỉ rõ nhà nước đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và

lãnh đạo, phục vụ lợi ích của giai cấp nào?
Trong xã hội bóc lột (xã hội chiếm hữu nô lê, xã hội phong kiến, xã
hội tư sản) nhà nước đều có bản chất chung là thiết chế bộ máy để thực
hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột trên 3 mặt: Kinh tế, chính trị và
tư tưởng.Vì vậy, nhà nước tồn tại với hai tư cách:Một là bộ máy duy trì sự
thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác. Hai là tổ chức quyền lực
công – tức là nhà nước vừa là người bảo vệ pháp luật vừa là người bảo đảm
các quyền của công dân được thực thi.
Thứ hai là tính xã hội của Nhà nước.
Trong nhà nước, giai cấp thống trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ với
các tầng lớp giai cấp khác, do vậy ngoài tư cách là công cụ duy trì sự thống
trị, nhà nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, đó là
chức năng xã hội của nhà nước.
21


Ví dụ: Nhà nước giải quyểt các vấn đề nảy sinh từ đời sống xã hội
như: đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh, các vấn đề về môi trường, phòng
chống thiên tai, địch hoạ, về dân tộc, tôn giáo và các chính sách xã hội
khác.v.v…Bảo đảm trật tự chung- bảo đảm các giá trị chung của xã hội để
tồn tại và phát triển.
Như vậy, chức năng xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của
Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện cụ thể và thực hiện vai trò đó
không giống nhau giữa các nhà nước khác nhau. Vai trò và phạm vi hoạt
động của nhà nước phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cũng như đặc
điểm của mỗi nhà nước, song phải luôn tính đến hiệu quả hoạt động của
nhà nước.
Tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước là hai mặt đối lập của cùng
một chủ thể. Chúng thống nhất trong sự đấu tranh lẫn nhau. Bản chất giai
cấp của Nhà nước giữ vai trò định hướng, chi phối chức năng xã hội. Đến

lượt nó, chức năng xã hội là điều kiện, là cơ sở xã hội để thực hiện chức
năng thống trị giai cấp.
Tuy nhiên mức độ thể hiện tính giai cấp và tính xã hội là khác nhau
trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, tùy thuộc vào nhiều yếu tố, như
lịch sử truyền thống dân tộc, quan điểm chính trị của nhà cầm quyền, mối
tương quan giai cấp trong xã hội, bối cảnh quốc tế,...
1.1.3 Hình thức nhà nước với tư cách là cái đặc thù.
Hình thức của Nhà nước là cách thức tổ chức và phương pháp thực
hiện quyền lực nhà nước.Hình thức của Nhà nước được xác định thông qua
chính thể, cấu trúc và chế độ chính trị.Trong các giai đoạn lịch sử khác
nhau, ở những điều kiện tự nhiên và xã hội khác nhau, ở những quốc gia
dân tộc có truyền thống văn hóa, lịch sử khác nhau,... sẽ xuất hiện những
hình thức nhà nước khác nhau.
Thực tiễn trong lịch sử nhân loại có các loại hình thức nhà nước như:
22


Hình thức chính thể
Dựa vào cách tổ chức và trình tự thành lập các cơ quan Nhà nước, có
các hình thức Nhà nước quân chủ hay cộng hòa:
*Nhà nước quân chủ:
Ở Nhà nước quân chủ tuyệt đối: đây là hình thức Nhà nước mà
quyền lực tối cao của Nhà nước tập trung hoàn toàn trong tay nguyên thủ
quốc gia theo nguyên tắc thế tập (truyền ngôi).
Ở Nhà nước quân chủ hạn chế: còn gọi là Nhà nước quân chủ lập
hiến hay quân chủ đại nghị, là hình thức Nhà nước mà một bộ phận quyền
lực tối cao của Nhà nước nằm trong tay nguyên thủ quốc gia, còn một bộ
phận còn lại nằm trong tay một cơ quan Nhà nước cao cấp khác.
*Nhà nước cộng hòa: Ở Nhà nước cộng hòa quý tộc: đây là hình
thức Nhà nước trong đó các cơ quan đại diện là do tầng lớp quý tộc bầu ra.

Ở Nhà nước cộng hòa dân chủ: đây là hình thức Nhà nước trong đó các cơ
quan đại diện là do nhân dân bầu ra. Hình thức này lại chia làm 3 loại dưới
đây.
+ Nhà nước cộng hòa đại nghị: Trong Nhà nước hình thức này, nghị
viện có quyền lực rất lớn và nguyên thủ quốc gia là do nghị viện bầu ra,
Chính phủ do đảng nắm đa số ghế trong nghị viện thành lập và chịu trách
nhiệm trước nghị viện, nghị viện có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với
Chính phủ.
+ Nhà nước cộng hòa tổng thống: Trong Nhà nước hình thức này,
nguyên thủ quốc gia (tổng thống) có vai trò cực kỳ quan trọng. Tổng thống
do nhân dân bầu ra, hoặc bằng hình thức trực tiếp hoặc bằng hình thức gián
tiếp (thông qua đại cử tri). Các thành viên Chính phủ do Tổng thống bổ
nhiệm và chịu trách nhiệm trước Tổng thống.

23


+ Nhà nước cộng hòa lưỡng tính (bán tổng thống): Nhà nước hình
thức này mang đặc trưng của cả cộng hòa nghị viện lẫn cộng hòa tổng
thống.
Hình thức cấu trúc
* Nhà nước đơn nhất: Trong Nhà nước hình thức này, hệ thống cơ
quan Nhà nước được tổ chức thống nhất từ trung ương tới địa phương, hệ
thống pháp luật thống nhất, các chính quyền địa phương hoạt động trên cơ
sở các quy định của chính quyền trung ương và thường được xem là cấp
dưới của chính quyền trung ương.
* Nhà nước liên bang: trong Nhà nước hình thức này, ngoài hệ thống
pháp luật chung của toàn quốc, mỗi địa phương có thể có pháp luật riêng;
ngoài hệ thống cơ quan Nhà nước chung, mỗi địa phương có thể có hệ
thống cơ quan Nhà nước riêng. Quan hệ giữa chính quyền trung ương và

chính quyền địa phương là quan hệ đối đẳng.
Hình thức Nhà nước theo chế độ chính trị, xã hội Chế độ chính trị
thể hiện: Tình trạng dân chủ hay phi dân chủ của một chế độ xã hội. Trong
lịch sử tồn tại hai loại chế độ chính trị chủ yếu: Chế độ dân chủ (dân chủ
quý tộc, dân chủ tư sản, dân chủ XHCN), chế độ chuyên chế hay độc tài
(chuyên chế chủ nô, chuyên chế phong kiến, chế độ phát xít ...); Quyền tự
do, dân chủ của công dân, mức độ tham gia của công dân vào quá trình
thiết lập các cơ quan chính quyền nhà nước và thực hiện các chính sách nhà
nước; Yếu tố quan trọng nhất: phương pháp cai trị và quản lý xã hội của
giai cấp cầm quyền.
Hình thức Nhà nước theo hình thức cai trị:
* Nhà nước thần quyền;
* Nhà nước vương quyền;
* Nhà nước pháp quyền.

24


Như vậy, hình thức nhà nước là sự hợp nhất của ba yếu tố: hình thức
chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị, ba yếu tố này có
mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại chặt chẽ với nhau, thực
hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, phản ánh bản chất của nhà
nước.
1.1.4 Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước.
Trong lịch sử loài người, dân chủ vừa là chế độ xã hội, một vấn đề
chính trị mang bản chất giai cấp; vừa là một trong những giá trị xã hội
mang tính phổ biến, tính nhân loại to lớn. Chính nội hàm đa nghĩa, đa chiều
này đã làm dân chủ trở thành vấn đề thời sự thu hút mối quan tâm to lớn cả
về phương diện lý luận và thực tiễn. Quá trình phát triển của lịch sử chính
trị nhân loại theo xu hướng tiến bộ cũng chính là quá trình phát triển của

các nền dân chủ. Xã hội càng phát triển thì các nhu cầu về dân chủ và
quyền con người càng trở thành đòi hỏi bức xúc.
Dân chủ, trước hết được xem xét với tư cách là một hình thức tổ
chức nhà nước, là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa
cộng đồng dân cư với nhà nước, theo đó cộng đồng là chủ thể gốc và có
quyền năng áp đặt ý chí lên nhà nước. Khác với các hình thức khác của
thiết chế nhà nước, trong thiết chế dân chủ, quyền của đa số, quyền bình
đẳng của mọi công dân, tính tối cao của pháp luật được chính thức thừa
nhận; những cơ quan quyền lực của nhà nước do dân bầu cử mà ra. Dân
chủ được thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản: dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp.
Dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội. Các cuộc đấu tranh
giành dân chủ đều dẫn đến khả năng giải phóng con người, nâng cao vị trí
con người trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con người ý thức và
năng lực làm chủ xã hội. Dân chủ với ý nghĩa đó được xác định như một lý
tưởng nhân đạo, một giá trị nhân văn.
25


×