Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Đổi mới việc thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. Triết học : 60 22 85

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ



TRẦN THỊ TUYẾT

ĐỔI MỚI VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



TRẦN THỊ TUYẾT

ĐỔI MỚI VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:

60 22 85


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGÔ HỮU THẢO

HÀ NỘI – 2012


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................

Chƣơng 1. TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ
QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA

ĐẢNG, NHÀ NƢỚC TA HIỆN NAY .....................................................

1.1. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam .....................................................................
1.1.1. Một số khái niệm ...............................................................................
1.1.2. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
về tôn giáo .........................................................................................
1.1.3. Tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay...............................................
1.2. Quan điểm chính sách đối với tôn giáo của Đảng và
Nhà nước Việt Nam hiện nay ...........................................................
1.2.1. Các văn kiện của Đảng và văn bản pháp quy
của Nhà nước về tôn giáo và chính sách tôn
giáo ..................................................................................................
1.2.2. Quan điểm chính sách đối với tôn giáo của
Đảng ta .............................................................................................
1.2.3. Chính sách tôn giáo được thể chế hóa từ
phương diện Nhà nước .....................................................................
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC TA
HIỆN NAY ........................................................................................

2.1. Chủ thể, khách thể và nhiệm vụ của công tác tôn giáo ................................
2.1.1. Quan niệm về “công tác tôn giáo” ....................................................
2.1.2. Chủ thể và khách thể công tác tôn giáo hệ
thống chính trị ..................................................................................
2.1.3. Nhiệm vụ công tác tôn giáo của hệ thống chính
trị......................................................................................................


2.2. Quá trình thực hiện chính sách tôn giáo - những
thành tựu, hạn chế và nguyên nhân ...................................................
2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân của quá trình thực
hiện chính sách tôn giáo ...................................................................
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của quá trình thực
hiện chính sách tôn giáo ...................................................................
2.3. Những vấn đề đặt ra từ việc thực hiện chính sách Tôn
giáo ..................................................................................................
2.3.1. Thực hiện chính sách tôn giáo, phải có quan
điểm toàn diện trong việc phát huy vai trò,
quyền lực của tất cả các cơ quan nhà nước .......................................
2.3.2. Vấn đề tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân
vẫn phải được chú trọng hơn ............................................................
2.3.3. Phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt
đẹp của các tôn giáo, để đồng bào tôn giáo
sống “tốt đời đẹp đạo” ......................................................................
2.3.4. Tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo
sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của mình

và đúng quy định của pháp luật ........................................................
2.3.5. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm
của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước ......................................
2.3.6. Chủ động phòng ngừa với những hành vi lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ,
phá hoại khối đoàn kết dân tộc .........................................................
Chƣơng 3. XU HƢỚNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN
NGHỊ NHẰM ĐỔI MỚI VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH ĐỐI VỚI TÔN GIÁO .................................................................. 5

3.1. Xu hướng tôn giáo ở Việt Nam ...................................................................


3.1.1. Xu hướng phát triển và xáo trộn tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam ................................................................................
3.1.2. Xu hướng thế tục hóa và hiện đại hóa tôn giáo .................................
3.1.3. Xu hướng vận động đa chiều của tôn giáo ........................................
3.1.4. Cùng với xu hướng “trở về nguồn” có cả xu
hướng phủ nhận tín ngưỡng truyền thống và
văn hóa dân tộc ................................................................................
3.1.5. Xu hướng lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc
vì mục đích chính trị - kinh tế ...........................................................
3.2. Kiến nghị nhằm đổi mới việc thực hiên chính sách đối
với tôn giáo ........................................................................................
3.2.1. Kiến nghị đối với công tác tôn giáo của Đảng ..................................
3.2.2. Kiến nghị đối với công tác tôn giáo của Nhà
nước .................................................................................................
3.2.3. Kiến nghị đối với công tác tôn giáo của Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
của nhân dân ....................................................................................
KẾT LUẬN .........................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................
PHỤ LỤC
.......................................................................................................


BẢNG QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT

BCH

:

Ban chấp hành

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

CTQG

:

Chính trị quốc gia

XHCN


:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tính cách là một hiện tượng xã hội, tôn giáo xuất hiện cách đây
hàng nghìn năm, với nhiều ảnh hưởng, cả tích cực và tiêu cực, trong xã hội
loài người. Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo có liên quan
mật thiết đến các hình thái xã hội khác, như: triết học, chính trị, pháp quyền,
đạo đức, văn học nghệ thuật… Theo quan điểm mácxít, tôn giáo là sự phản
ánh tồn tại xã hội, ra đời từ các nguồn gốc kinh tế, văn hóa - xã hội và chính
trị (khi xã hội có chính trị). Trong tính độc lập tương đối của mình, tôn giáo
đã tác động trở lại đối với cơ sở sản sinh ra nó theo các chiều kích khác nhau.
Trong lịch sử Châu Âu phong kiến, tôn giáo đã từng đứng trên, thống trị đời
sống tinh thần cũng như kiến trúc thượng tầng xã hội, trong đó có cả khoa học
và chính trị. Theo đó, Châu Âu trong vài thế kỷ bị chìm vào “đêm trường
Trung cổ” và may mắn - tất yếu, sau đó đã xuất hiện các phong trào Phục
hưng Văn hóa Hy - La cổ đại và Khai sáng mà lực lượng khởi xướng là giai
cấp tư sản đang lên.
Ở thế giới đương đại, tôn giáo vẫn luôn chi phối mạnh mẽ tới cuộc
sống nhiều mặt của con người. Nó vừa là nhân tố liên kết con người thành
một khối vững chắc, song cũng có thể đẩy con người tới chỗ kì thị nhau, có
khi rất sâu sắc. Bởi vậy nhiều người cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng xã
hội phức tạp và là vấn đề nhạy cảm nên đã thu hút được sự quan tâm đông
đảo, không chỉ của giới nghiên cứu khoa học, mà còn của giới quản lý, lãnh
đạo xã hội.
Khi nghiên cứu về tôn giáo, nhiều người đã giành quan tâm đặc biệt
đến mối quan hệ của nó với chính trị. Thành công từ phương diện nghiên cứu

này là rất đáng trân trọng, nhưng dẫu sao theo hướng này, vẫn để lại trong
nhận thức của xã hội một cái nhìn có phần nặng nề, mặc cảm đối với tôn giáo,
thậm chí không ít trường hợp đồng nhất tôn giáo với chính trị. Song cũng lại
1


có không ít người nghiên cứu về tôn giáo từ phương diện là một hiện tượng
xã hội đa giá trị. Từ phương diện nghiên cứu này, tôn giáo được biết đến như
là hiện tượng xã hội hiền lành, tốt đẹp, thúc đẩy người ta tìm tòi, phát huy
nhằm tạo điều kiện để nó đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển xã hội.
Nhưng, nghiên cứu tôn giáo dù ở phương diện nào thì vẫn có một điểm
khá chung được đặt ra là, xã hội hiện đại cần phải có chính sách đối với tôn
giáo. Điều này xuất phát từ yêu cầu của cả hai phía: tôn giáo và xã hội. Chính
sách tôn giáo trước hết được xem là một yếu tố cấu thành của hoạt động chính
trị, làm tiền đề và cơ sở cho hoạt động thực tiễn, và sẽ là tiến bộ, nếu nó được
xuất phát từ thực tiễn, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, có cả tôn giáo nội sinh cũng như
ngoại nhập. Do có nhận thức đúng về vai trò của tôn giáo, Đảng ta luôn quan
tâm đến việc xây dựng quan điểm, hoạch định chính sách tôn giáo, rồi từ khi có
Nhà nước, đã rất quan tâm đến quản lí nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Có
thể quan điểm, chính sách tôn giáo còn có lúc tả khuynh hoặc hữu khuynh; việc
tổ chức thực hiện chính sách có lúc khắt khe, có khi lại buông lỏng, nhưng
quan điểm xuyên xuốt và nhất quán trong chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước Việt Nam luôn là: tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời kiên quyết đấu
tranh chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
Công cuộc đổi mới đất nước ta gần 30 năm qua đã đạt được những thành
tựu to lớn. Theo đó, chính sách và việc thực hiện chính sách tôn giáo cũng
được đổi mới về căn bản, đáp nhu cầu tinh thần của người dân có đạo. Hoạt
động tôn giáo diễn ra tương đối bình thường, ổn định theo hướng tuân thủ pháp

luật Nhà nước và đúng với hiến chương, điều lệ của giáo hội. Đồng bào các tôn
giáo ngày càng tin tưởng vào Đảng và Nhà nước, hăng hái tham gia phát triển
quê hương, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước.

2


Tuy nhiên trong việc thực hiện chính sách, pháp luật tôn giáo của hệ
thống chính trị các cấp đã bộc lộ không ít những biểu hiện bất cập trước sự
biến động của thực tiễn nên không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Một
bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng cho đến nay vẫn chưa vượt qua được nếp
tư duy cũ về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo, nên tỏ ra thiếu trách nhiệm,
dẫn đến hành vi ứng xử chưa phù hợp với các hoạt động tôn giáo.
Trong khi đó, một bộ phận tín đồ, chức sắc tôn giáo có biểu hiện nghi
ngờ chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Điều đó cho
thấy, chính sách tôn giáo nếu chỉ dừng lại ở văn bản thì vẫn chỉ thuộc về
phạm trù nhận thức mà thôi. Quan trọng hơn, nó phải được tổ chức thực hiện
trong đời sống xã hội, thông qua chủ thể công tác tôn giáo của hệ thống chính
trị; cùng với sự đồng tình, tự giác chấp hành của người dân có và không có
tôn giáo.
Vậy, nghiên cứu việc thực hiện chính sách tôn giáo, từ đó rút ra những
kiến nghị nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo hiện nay, là có ý
nghĩa cấp bách cả về lí luận và thực tiễn. Với lý do đó, em chọn đề tài: “Đổi
mới việc thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn
tốt nghiệp cao học, với mong muốn đáp ứng về tính cấp bách đó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, trực tiếp
hoặc liên quan, về vấn đề chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, như:
“Chính sách đối với tôn giáo và Nhà nước quản lý tôn giáo hiện nay - những

bài học kinh nghiệm và kiến nghị” của PGS. TS Nguyễn Đức Lữ (Chủ nhiệm
đề tài năm 2002); “Qúa trình hoàn thiện chủ trương, chính sách về tôn giáo
của Đảng và nhà nước ta trong 60 năm (1945- 2005) của PGS. TS Nguyễn
Đức Lữ, Tạp chí công tác Tôn giáo, số 3 tháng 11/2005; “Lý luận về tôn giáo
và tình hình tôn giáo ở Việt Nam”, GS. Đặng Nghiêm Vạn, Nxb CTQG, Hà
Nội, 2001; “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam - lý luận và thực
tiễn”, GS. TS Đỗ Quang Hưng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005; “Tư tưởng Hồ Chí

3


Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo”GS,TS Lê Hữu Nghĩa và PGS. TS
Nguyễn Đức Lữ (đồng chủ biên), Nxb Tôn giáo, 2003…
Ngoài các công trình nghiên cứu nêu trên, cũng có nhiều quan điểm
khác của các tác giả quan tâm tới vấn đề tôn giáo, chính sách và việc thực
hiện chính sách tôn giáo đã được đăng tải trên các tạp chí. Đó là: “Tôn giáo
và hiện thực - Một số vấn đề đặt ra hiện nay”, PGS.TS.Nguyễn Chí Mỳ, Tạp
chí Triết học, 6- 1988; “Từ chính sách của Đảng và Bác Hồ với tôn giáo, suy
nghĩ về vấn đề tôn giáo hiện nay” ;PGS. Phong Hiền, Tạp chí Triết học, số 4,
12- 1990; “Tôn giáo và đạo đức - nhìn từ mặt triết học”; GS.TS. Nguyễn Hữu
Vui, Tạp chí Triết học, 4 - 1993; “Về chính sách tự do tôn giáo ở Việt Nam”,
GS. Đặng Nghiêm Vạn, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 - 2000; “Thực
hiện tốt chính sách tôn giáo trong thời kỳ mới”, TS.Nguyễn văn Sáu, Tạp chí
Lý luận chính trị, số 4/2001; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình
cải cách - đổi mới trong các tôn giáo Phương Đông”, TS. Nguyễn Văn Dũng,
Tạp chí Triết học, số 2, tháng 2 - 2003; “Chính sách tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của Đảng, nhà nước và sự phát triển của phật giáo”; “Việt Nam coi
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”, tác giả Hoàng Đình
Thành (Báo Đại Đoàn kết); “Việt Nam bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của người dân”, Trường Bách - Web Ban Tôn giáo Chính phủ; “Vấn đề

tôn giáo và công tác tôn giáo trong văn kiện Đại hội X của Đảng”, PGS.TS.
Nguyễn Đức Lữ, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 9/2006; Công tác tôn giáo ở
nước ta hiện nay - một số vấn đề đặt ra từ hệ thống chính trị, PGS.TS. Ngô
Hữu Thảo, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 1 - 2005; Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vận động quần chúng tín đồ tôn giáo và một số yêu cầu đặt ra đối với công
tác tôn giáo, PGS.TS. Ngô Hữu Thảo, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 5 - 2008;
Đồng thuận tôn giáo, dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay - Một số
vấn đề đặt ra đối với hệ thống chính trị, PGS.TS. Ngô Hữu Thảo, Tạp chí
Mặt trận, số 12/2009…

4


Các công trình trên đã đi sâu tìm hiểu về tình hình chính sách và việc
thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ lịch
sử, có giá trị tổng kết thực tiễn rất lớn, với tính lịch sử cụ thể.
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện chính sách tôn giáo ở nhiều
địa phương vẫn chưa được nghiên cứu và tổng kết có hệ thống, chuyên sâu,
mà thường dừng lại ở từng chính sách tôn giáo cụ thể. Bên cạnh đó, do yêu
cầu của xã hội hiện nay, việc nghiên cứu, đánh giá quá trình thực hiện chính
sách tôn giáo ở Việt Nam đang rất cần được thực hiện chuyên biệt và đồng
bộ. Vì vậy, theo hướng nghiên cứu của đề tài, tác giả sẽ kế thừa những giá trị
của các công trình trước đó trong việc hoàn thiện đề tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài, trên cơ sở nghiên cứu chính sách và tình hình thực hiện chính
sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta thời kỳ đất nước đổi mới, từ
đó đề xuất kiến nghị mang tính giải pháp, trên cả phương diện lý luận và thực
tiễn, nhằm hoàn thiện quan điểm, chính sách tôn giáo cũng như đổi mới việc
thực hiện nó hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu nội dung bản chất của chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước ta, trọng tâm là thời kỳ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới.
- Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách tôn giáo trong những năm
gần đây, qua đó rút ra những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách tôn giáo và nâng cao
hiệu quả việc thực hiện chính sách tôn giáo hiện nay.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào phương diện công tác tôn giáo của hệ thống chính
trị trong việc hiện thực hóa chính sách, pháp luật đối với tôn giáo ở nước ta.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1990 (khi có Nghị quyết 24 của Bộ chính trị: Về
tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình phát triển mới) đến nay.
5


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là những nguyên lý, quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng,
Nhà nước về tôn giáo, chính sách tôn giáo và việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
- Về phương pháp nghiên cứu, tác giả vận dụng những nguyên tắc
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử; phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học và
phương pháp nghiên cứu liên ngành của các khoa học như: tôn giáo học, sử
học, xã hội học, chính trị học…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài kiến nghị làm rõ hơn một số nội dung cụ thể cần bổ sung nhằm
hoàn thiện quan điểm, chính sách, cũng như cơ chế, quy trình hiện thực hóa
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác tôn
giáo của hệ thống chính trị và công tác nghiên cứu, giảng dạy Chủ nghĩa xã

hội khoa học hiện nay.
- Luận văn góp phần phát huy những giá trị tích cực, hạn chế những
tiêu cực trong hoạt động tôn giáo và chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của các
thế lực thù địch.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu chủ yếu gồm 3 chương, 7 tiết:
Chƣơng 1: Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và quan điểm, chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
Chƣơng 2: Thực trạng việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng,
Nhà nước ta hiện nay.
Chƣơng 3: Xu hướng tôn giáo ở Việt Nam và kiến nghị nhằm đổi mới
việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo.

6


Chƣơng 1
TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ QUAN ĐIỂM,
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC TA HIỆN NAY
1.1. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam

1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, tín ngưỡng là lòng tin và sự
ngưỡng mộ một tôn giáo hay một chủ nghĩa.
Thông thường tín ngưỡng được hiểu theo các nghĩa:
Nghĩa rộng, để chỉ niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người về một lực
lượng, một chủ thuyết, nhưng thường được hiểu là tin vào lực lượng siêu
nhiên có khả năng chi phối, thậm chí quyết định cả số phận của con người,

theo đó họ luôn phải tôn thờ, sùng bái.
Nghĩa hẹp, tín ngưỡng là chỉ một niềm tin - yếu tố quan trọng bậc nhất
cấu thành của ý thức tôn giáo; hoặc là các hình thức khác với tôn giáo, như
người Việt thường gọi “tín ngưỡng dân gian”, hay “các hình thức tín ngưỡng”
(như: thờ cúng tổ tiên, thờ thành hoàng, thờ mẫu, thờ các dạng thần như thần
bếp, thần thổ công…).
Vậy là, tín ngưỡng được hiểu ở các phạm vi rộng, hẹp khác nhau: tín
ngưỡng rộng hơn tôn giáo, tín ngưỡng đồng nghĩa với tôn giáo và tín ngưỡng
là một bộ phận cấu thành của tôn giáo. Song có một điểm chung ở đây là, tín
ngưỡng là những hình thức và hành vi biểu thị niềm tin của con người vào các
hiện tượng và sức mạnh siêu nhiên, nằm ngoài giới hạn khách quan trong sự
hiểu biết của con người, rằng con người có thể thông quan với thế giới siêu
nhiên đó, nhằm thỏa mẵn những nhu cầu và ước vọng trần thế của mình.
1.1.1.2. Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo (Religare), đó là sự nối liền với cái tột cùng, như sự gắn bó
với Chúa, với Thượng đế; là sự phản ánh mối quan hệ giữa con người với
7


thần thánh; giữa thế giới vô hình với thế giới hữu hình; giữa cái thiêng liêng
với cái tục.
Theo quan điểm mác-xít, tôn giáo vừa là một hình thái ý thức xã hội,
vừa là một thực thể xã hội. Là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo có kết cấu
gồm: Tâm lý, tình cảm, niềm tin, hệ tư tưởng. Là một hiện tượng xã hội, tôn
giáo thông thường có kết cấu gồm: ý thức, nghi lễ, luật lệ và tổ chức.
Vậy, tôn giáo là tín ngưỡng của con người vào các vị thánh thần cụ thể,
có kết cấu là một hệ thống các giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức. Các hình
thức tôn giáo cụ thể có thể kể ra là: đạo Phật, đạo Hồi, đạo Công giáo và Tin
lành... Tuy nhiên cũng có nhà nghiên cứu không đưa vào định nghĩa - nội
hàm, khái niệm tôn giáo dấu hiệu như “tổ chức” và khi bớt đi dấu hiệu đó thì

đương nhiên ngoại diên của khái niệm này đã được mở rộng rất nhiều.
1.1.1.3. Khái niệm mê tín dị đoan
Mê tín dị đoan, đó là tình trạng người ta quá tin vào lực lượng siêu
nhiên, đến mất lý trí, mê muội, tốn tiền của và huỷ hoại sức khoẻ, thậm chí cả
sinh mạng, vậy nên “Hoạt động mê tín phải bị phê phán và loại bỏ”.
Để phân biệt mê tín dị đoan với các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo,
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: “Mê tín nói ở đây căn cứ vào trình độ và lợi
ích của xã hội, lấy đó là mặt bằng xã hội để xác định. Những gì trái với lợi ích
của xã hội, gây thiệt hại cho chính những người tin theo mê muội và không
phù hợp với trình độ tiến bộ chung được cả xã hội nhìn nhận là mê tín” [6].
Chẳng hạn, theo tập quán của người Ấn Độ, khi một người đàn bà gặp
phải khó khăn lúc lâm bồn thì chỉ cần uống một chén nước đã được mẹ chồng
nhúng ngón chân cái vào sẽ có… thể sinh nở dễ dàng và nhanh chóng. Còn
như ở Việt Nam, người ta tin: Các yếu tố ngày, giờ và năm sinh của mỗi
người có ảnh hưởng quyết định đến tương lai, sự nghiệp, tình cảnh gia đình
và cả tuổi thọ của người đó. Đặc biệt là quan niệm nếu hai người nam, nữ sinh
ra vào những năm “kỵ” nhau mà kết hôn với nhau thì sẽ không có hạnh phúc,
thậm chí trong những trường hợp nghiêm trọng một trong hai người còn có
8


thể chết sớm. Dễ thấy hơn là trong các đám tang, các lễ cúng, người ta đốt
vàng mã với những hình tượng quần áo, giày dép, tiền bạc, ngựa xe, nhà cửa,
v.v. làm bằng chất liệu giấy để gửi cho những người đã chết ở cõi khác sử
dụng… Tất cả những điều này nói chung được gọi là mê tín [47].
Các khái niệm trên đây, chúng tôi rút ra từ khá nhiều quan niệm của các
nhà tôn giáo học ở trong và ngoài nước, song vẫn không hy vọng đó đã là
nhận thức có sự thống nhất cao nhất. Trong giới nghiên cứu, nó cũng chỉ là
tương đối mà thôi, vì thế việc bổ sung, phát triển các khái niệm này vẫn luôn
được đặt ra hiện nay.


1.1.2. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo
Tôn giáo, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, trên cơ sở tồn tại
xã hội, phản ánh hư ảo hiện thực khách quan, vì thế, so với các hình thái ý
thức xã hội khác, như chính trị, đạo đức, pháp quyền, nghệ thuật... nó được
xem là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Còn với tính cách là một hiện
tượng xã hội (thực thể), tôn giáo là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng
xã hội, nên trong mối quan hệ với cơ sở hạ tầng, nó chỉ là yếu tố bị quyết
định, là tính thứ hai mà thôi. Tôn giáo thường được xem là một yếu tố mang
tính bảo thủ của thượng tầng kiến trúc, ngay cả khi tồn tại xã hội đã có những
thay đổi căn bản, bởi nó đã ăn sâu vào tình cảm, tư tưởng, trở thành thói quen,
tập quán, truyền thống của con người qua các thế hệ.
Qua sự phản ánh của tôn giáo, những lực lượng tự phát của tự nhiên và
xã hội lại trở thành “sức mạnh siêu nhiên”, có quyền uy tối thượng và vô hình
tác động đến một cộng đồng, một nhóm xã hội có tổ chức. Đấy chính là bản
chất của tôn giáo, bởi vì, "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh
hư ảo - vào đầu óc của con người ta - của những lực lượng ở bên ngoài chi
phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh mà trong đó những lực
lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế" [2, tr.437].

9


Như thế, nội dung phản ánh trong tôn giáo đã tách khỏi hiện thực, bồng
bềnh và được nâng lên, gán cho nó là những lực lượng siêu nhiên, được thần
thánh hoá, trở thành ý thức tôn giáo, thực thể tôn giáo.
Vậy, bản chất, nguồn gốc của tôn giáo, sâu xa và trực tiếp, đều được quy
định bởi những yếu tố tự nhiên và xã hội, trong đó lĩnh vực kinh tế - xã hội là
cơ bản nhất. Chỉ có điều, dường như không cưỡng được, rằng tôn giáo xuất
hiện, tồn tại và phát triển không phải từ và do thần linh, thượng đế, mà là ngay

trong cuộc sống hiện thực của con người, nhưng rồi, khi chính con người sáng
tạo ra nó, thì ngay lập tức, lại rơi vào tình cảnh bị lệ thuộc bởi sản phẩm do
chính mình tạo ra. Do đó, khi xem xét sự hình thành, tồn tại, phát triển và bản
chất của tôn giáo, đòi hỏi phải tìm hiểu những nhân tố quy định nên nó, đó là
tồn tại xã hội, với phương thức sản xuất vật chất với những hoàn cảnh xã hội,
môi trường tự nhiên mà con người sống và hoạt động; đó là cơ sở hạ tầng xã
hội, gồm những quan hệ sản xuất khác nhau. Từ đây đòi hỏi chúng ta phải có
quan điểm duy vật lịch sử để nhận thức về sự vận động, phát triển của tôn giáo
nói chung, của các tôn giáo nói riêng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau.
Trong sự tồn tại của mình, tôn giáo luôn có vai trò xã hội, cả tích cực và
tiêu cực. Trong đó đáng chú ý là, văn hoá, đạo đức của tôn giáo có tính lành
mạnh, hướng thiện nên đã trở thành nhu cầu, không phải là hư ảo, mà rất thật,
của đồng đảo quần chúng nhân dân. Cùng với tính lịch sử và tính quần chúng,
tôn giáo trong xã hội có giai cấp còn mang tính chất chính trị rõ rệt. Điều đó
giải thích về tính phức tạp và nhạy cảm của tôn giáo. Cũng vì thế mà các thế
lực chính trị khi thấy rõ vai trò xã hội to lớn của tôn giáo, đã luôn chú ý đến
việc tranh thủ, lợi dụng tôn giáo vào các mục đích chính trị. Trong các chế độ
trước đây, giai cấp thống trị thường sử dụng tôn giáo như là một phương tiện
để nô dịch, áp bức quần chúng nhân dân, duy trì địa vị của mình. Đồng thời,
sự xuất hiện và biến động của tôn giáo ở mỗi thời đại, giai đoạn của lịch sử
cũng chính là sự phản ánh kết quả của cuộc đấu tranh của quần chúng nhân
dân chống lại giai cấp thống trị; phản ánh khát vọng của họ vươn tới tự do,

10


dân chủ. Vì thế, mọi sự biến đổi của tôn giáo bao giờ cũng gắn liền với sự
biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp.
Với ý nghĩa là nhu cầu của quần chúng nhân dân, tôn giáo còn tồn tại
lâu dài và sẽ chỉ mất đi khi những cơ sở vật chất và tinh thần để nó tồn tại

không còn nữa. Đó là, đời sống hiện thực xuất hiện những điều kiện cần và đủ
cho việc giải phóng hoàn toàn quần chúng nhân dân, tạo điều kiện cho mỗi
người, mỗi cộng đồng làm chủ tự nhiên và làm chủ xã hội. Về điều này,
Ph.Ăngghen chỉ ra trong tác phẩm Chống Đuyrinh đã khẳng định: “Khi nào
con người không chỉ mưu sự mà còn làm cho thành sự nữa, thì chỉ khi đó, cái
sức mạnh xa lạ hiện nay vẫn còn đang phản ánh vào tôn giáo, mới mất đi, và
cùng với nó bản thân sự phản ánh có tính chất tôn giáo cũng sẽ mất đi, vì khi
đó sẽ không có gì để phản ánh nữa” [2, tr.439].
Chính vì thế trong giải quyết vấn đề tôn giáo, cần phải chú ý giải quyết
các nhu cầu của quần chúng nhân dân, phải căn cứ vào những điều kiện lịch
sử khách quan. Muốn vậy, phải tổ chức quần chúng nhân dân tham gia tích
cực, tự giác vào quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; đấu tranh có
hiệu quả đối với âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực chính trị xấu xa đã
làm phương hại đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân và đến
những lợi ích thiết thân khác của họ.
Trước xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, tôn giáo có xu hướng
phát triển mạnh trong từng quốc gia và trên toàn thế giới, tình hình đó đòi hỏi
những người cộng sản nói chung và người cộng sản Việt Nam nói riêng, bên
cạnh việc nắm vững quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác-Lênin thì cũng
biết vượt qua những tư tưởng đã không còn phù hợp với ngày nay, để từ thực
tiễn mà khái quát, bổ sung vào kho tàng lý luận mác - xít những quan điểm mới
về tôn giáo và công tác tôn giáo, thể hiện trực tiếp trong chính sách, pháp luật
đối với tôn giáo và trong công tác tôn giáo. Hơn nữa, cũng cần thấy rằng, trong
khi các nhà kinh điển trên lập trường duy vật - vô thần đấu tranh, từ phương
diện nhận thức, với chủ nghĩa duy tâm thần học, tôn giáo, thì trong khi phủ

11


định lực lượng siêu nhiên thần thánh, vẫn luôn trân trọng với những ai tin theo

cái siêu nhiên, cũng như tuyệt nhiên không hề có ý định dùng bạo lực đối với
tôn giáo, và điều này thể hiện rõ ràng trong việc đề cao tự do tín ngưỡng của
nhân dân. Chỉ có nhận thức như thế mới thấy chủ nghĩa Mác-Lênin luôn có sức
sống trẻ trung và bền vững; có nhiều giá trị để những người mác- xít đương đại
vận dụng sáng tạo trong xã hội do nhân dân lao động làm chủ.

1.1.3. Tình hình tôn giáo ở nƣớc ta hiện nay
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Từ xưa đến nay, các
tín ngưỡng, tôn giáo luôn chung sống hoà hợp, gắn bó với dân tộc. Việt Nam
có thể coi là bảo tàng về tôn giáo, tín ngưỡng của thế giới, vì ở đây có đủ, từ
các hình thức tín ngưỡng dân gian, đến các tôn giáo hiện đại, có cả tôn giáo
nội sinh và ngoại nhập, như Công giáo, Hồi giáo, Tin lành, Phật giáo,
Baha’i…
Theo số liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2012, nước ta có gần
24 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm khoảng 27/% dân số cả nước; số lượng
chức sắc khoảng trên 80.000 người; cơ sở thờ tự khoảng 25.000, của 13 tôn
giáo, với 37 tổ chức tôn giáo được Nhà nước cấp đăng ký và công nhận (trong
đó có 33 tổ chức tôn giáo được công nhận; 03 tổ chức tôn giáo được đăng ký;
01 Pháp môn tu hành) đang hoạt động bình thường, ổn định.
Trong thời gian qua, nhiều tôn giáo xuất hiện cũng đồng nghĩa với sự
gia tăng khá nhanh về số lượng tín đồ. Nếu năm 1999, cả nước ta mới có 14,7
triệu tín đồ, chiếm 19,4% dân số, thì năm 2001, chỉ riêng 6 tôn giáo lớn là
Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hoà Hảo và Cao đài đã là 18,3 triệu
tín đồ, còn đến nay đã lên tới 24 triệu người. Trong đó, một số địa phương có
số lượng tín đồ phát triển nhanh không bình thường. Đó là: từ năm 19752001, đạo Tin lành ở Đắc Lắc tăng 10 lần, Gia Lai tăng 25 lần, Kon Tum tăng
4 lần. Tại Lai Châu, năm 1996, có 26.419 người theo đạo Tin lành - Vàng
Chứ, đến năm 2001 tăng lên 36.102 người. Tín đồ Công giáo ở Tây Nguyên
cũng tăng mạnh. Trước năm 1975 chỉ có gần 130.000 tín hữu mà năm 2005

12



đã lên tới hơn 300.000. Số liệu của giáo phận Kon Tum cho biết, tỷ lệ tăng
trưởng số tín hữu từ năm 1977-2001 là 17,6%, năm 1988 là 137,7%...
Tình hình cụ thể của các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay như sau:
1) Phật giáo: Vào Việt Nam từ những năm đầu Công Nguyên, khi dân
tộc ta đang bị người phương Bắc đô hộ. Đến nay, Giáo Hội Phật giáo có số
lượng chức sắc, nhà tu hành 46.495 vị; nơi thờ tự hơn 14.778 cơ sở và khoảng
trên 11 triệu phật tử - số quy y tam bảo. Còn số người chịu ảnh hưởng của
Phật giáo về đạo đức, văn hóa, lối sống có tới 70 - 80% dân số, có mặt ở hầu
hết các tỉnh, thành, trong đó tập trung đông ở: Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định,
Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa, Thành Phố Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cần Thơ,…
Giáo hội Phật giáo Việt Nam với tôn chỉ, mục đích “Đạo pháp - Dân
tộc - Chủ nghĩa xã hội”, hiện có 4 Học viện Phật giáo; 1 trường Trung cấp Cao đẳng Phật học; 8 lớp cao đẳng; 32 trường trung cấp Phật học, đã đào tạo
đội ngũ tăng ni có trình độ, tăng cường đội ngũ trí thức chung cho xã hội, góp
phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh.
Trong mối quan hệ quốc tế, Phật giáo Việt Nam chủ yếu duy trì mối
quan hệ với Phật giáo trong khu vực, như với Phật giáo ở Cam - pu - chia,
Lào, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan,… và quan hệ với một số tổ chức Phật
giáo thế giới, như tổ chức Phật giáo châu Á vì Hòa Bình - ABCP, tổ chức
Thân hữu Phật tử thế giới - WFB [48, tr.366].
2) Đạo Công giáo: Truyền vào Việt Nam từ năm 1933 và đến năm
1980 được công nhận Giáo hội trên toàn quốc. Giáo hội Công giáo Việt Nam
trực thuộc và chịu sự chỉ đạo của Vatican với tôn chỉ, đường hướng mục đích
“Sống phúc âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Hiện
nay, Giáo hội Công giáo Việt Nam có 6,2 triệu tín đồ, chiếm 6,84% dân số cả
nước, có 4.044 chức sắc, 7500 chức việc, với khoảng 3000 giáo xứ. Về mặt tổ
chức hành chính, đạo Công giáo có 44 Giám mục, 3.870 linh mục, 19.598 tu


13


sỹ, khoảng 1.370 chủng sinh, 58.133 giáo lý viên; có 26 giáo phận, khoảng
6.000 xứ, họ đạo, 9000 cơ sở thờ tự và 7 đại chủng viện.
Mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam qua từng giáo phận và
Hội đồng Giám mục Việt Nam với Giáo triều Vatican là mối quan hệ trên
dưới rất chặt chẽ về mặt tổ chức và mang tính truyền thống [48, tr.366].
3) Đạo Tin lành: Với tôn chỉ mục đích là “Đồng hành cùng dân tộc”,
theo kết quả tổng hợp 5 năm thực hiện Chỉ thị 01/2005/CT-TTg, ngày
04/022005, của Thủ tướng Chính phủ, về một số công tác tôn giáo đối với
Đạo Tin lành, hiện nay cả nước có khoảng 1,5 triệu tín đồ, chiếm 1,14% dân
số cả nước; có 3.000 chức sắc, 436 mục sư, 306 mục sư nhiệm chức, 458
truyền đạo; với 455 chi hội, 4.409 điểm nhóm và 350 nơi thờ tự, với hơn 90 tổ
chức và nhóm Tin Lành. Đạo Tin Lành được truyền vào Việt Nam từ năm
1929 có tên gọi là Giáo hội Cơ đốc phục lâm Việt Nam. Hiện Nhà nước Việt
Nam đã đăng ký và công nhận 10 tổ chức hệ phái Tin lành, gồm: hội thánh
Tin lành Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc),
Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam, Tổng hội Báp tít Việt Nam (Ân điển Nam phương), Tổng hội Báp tít Việt Nam (Nam phương), Hội thánh Tin lành
Trưởng lão Việt Nam, Giáo hội Cơ đốc phục lâm Việt Nam, Hội Thánh Liên
hữu Cơ đốc Việt Nam. Đạo Tin lành chủ yếu tập trung ở các tỉnh phía Nam,
các tỉnh Tây Nguyên và một số tỉnh miền núi phía Bắc.
Các tổ chức Tin lành có tư cách pháp nhân đã và đang hoạt động tuân
thủ Pháp luật, đồng hành cùng dân tộc. ĐạoTin lành ở Việt Nam có mối quan
hệ quốc tế rộng rãi và đa dạng với đạo Tin lành trên thế giới [48, tr.368].
4) Đạo Cao đài: Ra đời ở Tây Ninh năm 1926, hiện có 2,4 triệu tín đồ,
chiếm 2,76% dân số cả nước, trong đó có hơn 1 vạn chức sắc, 2 vạn chức
việc, 1.290 nơi thờ tự với 10 tổ chức, hệ phái có tư cách pháp nhân, hoạt động
tại 37 tỉnh, thành phố trong cả nước, nhưng chủ yếu ở các tỉnh phía Nam. Các
phái Cao đài hiện nay gồm: Cao đài Tây Ninh, Cao đài Ban chỉnh đạo, Cao

đài Tiên Thiên, Cao đài Minh chơn đạo, Truyền giáo Cao đài... Đạo Cao đài

14


có mối quan hệ tôn giáo với khá đông đồng bào Việt Nam định cư ở nước
ngoài [48, tr.366].
5) Phật giáo Hoà Hảo: Hình thành ở Việt Nam năm 1939 và đến năm
1999 được công nhân tư cách pháp nhân với tôn chỉ, mục đích “Vì đạo pháp
vì dân tộc”. Hiện nay, Phật giáo Hào Hảo có khoảng 1,3 triệu tín đồ, 2829
chức sắc, 94 chùa, 50 hội quán, 399 tòa đọc giảng; hoạt động chủ yếu ở 22
tỉnh, thành phố, song tập trung đông nhất ở tỉnh An Giang. Phật giáo Hào Hảo
có mối quan hệ tôn giáo với khá đông đồng bào Việt Nam định cư ở nước
ngoài [48, tr.368].
6) Đạo Hồi: Du nhập vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ thứ X, XI hiện có
68.000 tín đồ, chủ yếu là đồng bào Chăm, trong đó có khoảng 700 chức sắc
và chức việc; 79 cơ sở thờ tự bao, gồm 40 thánh đường, 22 tiểu thánh đường,
17 chùa, với 6 tổ chức hội giáo được đăng ký và công nhận; hoạt động tập
trung ở 10 tỉnh, thành phố trong cả nước, đông nhất ở Thành phố Hồ Chí
Minh, Ninh Thuận, Bình Thuận và An Giang.
Hồi giáo khu vực Đông Nam Á, nhất là Hồi giáo Ma-lai-xi-a có mối
quan hệ rất khăng khít với Hồi giáo ở Việt Nam, là cội nguồn du nhập và
nâng đỡ, hỗ trợ Hồi giáo ở Việt Nam [48, tr.369].
7) Tịnh độ cƣ sĩ Phật hội Việt Nam: Hình thành ở Việt Nam năm
1934 và được công nhân năm 2007 với mục đích, tôn chỉ: “Tu học, hành
thiện, ích nước, lợi nhà”. Hiện nay, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có hơn
1.400 tín đồ, với 206 Hội quán, 359 hội viên và khoảng 4.800 chức sắc. Hoạt
động chủ yếu ở các tỉnh khu vực Nam Bộ [48, tr.370].
8) Đạo Baha’i: Du nhập vào Việt Nam từ năm 1954 đến năm 2008
Đạo Baha’i được cấp đăng ký hoạt động, với đường hướng, tôn chỉ: “Tuân

thủ pháp luật Việt Nam nêu cao tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc, tôn giáo;
phấn đấu vì sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, vì nền văn minh của
nhân loại”. Hiện Đạo Baha’i với 7.000 tín đồ, 9 chức sắc hoạt động ở 45 tỉnh,
thành phố trong cả nước tập trung đông nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh; có
15


mối quan hệ quốc tế với đạo Baha’i ở nước ngoài và với Liên Hợp quốc [48,
tr.371].
9) Bửu sơn Kỳ Hƣơng: Hình thành ở Việt Nam năm 1849 ở Đồng
Tháp và đến năm 2008 được công nhận tư cách pháp nhân, với đường hướng,
mục đích: “Đi theo pháp chính truyền, tôn chỉ và đường hướng hành đạo gắn
với dân tộc, với đất nước của Đức Phật thầy Tây An, lấy “học Phật tu nhân”,
hành theo “tứ ân” làm căn bản lẽ sống đạo”. Hiện Bửu sơn Kỳ Hương có
khoảng 15.184 tín đồ, 18 chùa, 1 đình, hoạt động ở 9 tỉnh, thành phố, đông
nhất ở Vũng Tàu, An Giang [48, tr.371].
10) Đạo Tứ ân hiếu nghĩa: Hình thành ở Việt Nam năm 1867 ở An
Giang được công nhận tư cách pháp nhân năm 2006 với tôn chỉ mục đích:
“Hành tứ ân - Sống hiếu nghĩa vì Chủ nghĩa xã hội”. Hiện nay, ĐạoTứ ân
hiếu nghĩa có mặt tại 12 tỉnh, thành phố, tập trung chủ yếu nhất ở An Giang,
với khoảng 70.899 tín đồ, trong đó có 476 chức sắc, chức việc, 55 chùa, 4
đình và 12 miếu [48, tr.371].
11) Đạo Minh sƣ: Du nhập vào Việt Nam năm 1863 và được công
nhận tư cách pháp nhân năm 2008 với tôn chỉ mục đích “Hiệp nhất tin hoa
của 3 nền tôn giáo Nho - Thích - Đạo”. Hiện Đạo Minh sư hoạt động tại 20
tỉnh, thành phố với 53 cơ sở thờ tự, 225 chức sắc và 1058 tín đồ [48, tr.371].
12) Đạo Minh Lý - Tam Tông miếu: Hình thành ở Việt Nam năm
1924 và đến năm 2008 được công nhận tư cách pháp nhân năm 2008 với mục
đích tôn chỉ là “Hoắng dườn chính pháp, phục vụ nhân sinh trên cương lĩnh từ
bi, giác ngộ và giải thoát”. Hiện nay, Đạo Minh Lý - Tam Tông miếu có 1.200

tín đồ, 4 cơ sở thờ tự, với 19 chức sắc và hoạt động ở 3 tỉnh, thành phố [48,
tr.371].
13) Đạo Bà La Môn: Vào Việt Nam thế kỷ II sau Công nguyên được
công nhận tư cách pháp nhân năm 2010, hiện có 38.000 tín đồ, chủ yếu là
đồng bào Chăm ở tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận [48, tr.371].

16


Nghiên cứu về đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam, các nhà tôn giáo học
thuộc Viện Nghiên cứu tôn giáo và Tín ngưỡng, thuộc Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã khái quát 6 đặc điểm như sau:
Một: Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau đang tồn tại.
Hai: Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam tồn tại trong sự đan xen, hoà
đồng và khoan dung.
Ba: Yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có tính
“nổi trội”.
Bốn: Thần thánh hóa những người có công với gia đình, làng xã và đất nước.
Năm: Tín đồ các tôn giáo Việt Nam hầu hết là nông dân lao động.
Sáu: Một số tôn giáo bị các thế lực phản động trong và ngoài nước lợi
dụng vì mục đích chính trị.
Nhất trí với các đặc điểm trên, tác giả bổ sung thêm một đặc điểm nữa.
Đó là:
Bảy: Các tôn giáo ở Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi.
Các đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, ngoài ý nghĩa rất
đáng kể về phương diện tôn giáo học, thì còn có giá trị không nhỏ để vận
dụng vào công tác tôn giáo. Bởi nó luôn đòi hỏi người làm công tác tôn giáo
phải giải thích được căn nguyên cũng như nội dung biểu hiện của mỗi đặc
điểm và nhất là, phải làm gì và làm như thế nào cho phù hợp với mỗi đặc
điểm đó.

1.2. Quan điểm chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc
Việt Nam hiện nay
Chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, một mặt, được
xây dựng dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề tín ngưỡng tôn giáo; mặt khác, căn cứ vào tình hình
quốc tế, đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và nhu cầu của cách mạng

17


trong từng thời kỳ lịch sử. Quan điểm xuyên suốt trong hệ thống chính sách
đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta là sự tôn trọng và bảo vệ quyền tự
do tín ngưỡng của quần chúng nhân dân, đồng thời kiên quyết đấu tranh
chống lại những âm mưu lợi dụng tôn giáo vì mục đích phi tôn giáo.

1.2.1. Các văn kiện của Đảng và văn bản pháp quy của Nhà nƣớc
về tôn giáo và chính sách tôn giáo
Từ năm 1990 đến nay, Đảng ta đã có nhiều chỉ thị, Nghị quyết về công
tác tôn giáo, như Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị
“về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”; Chỉ thị số 66-CT/TW
ngày 26/11/1990 của Ban Bí thư Trung ương về việc thực hiện Nghị quyết số
24 của Bộ Chính trị. Thông báo số 24-TB/TW ngày 8/9/1992 về một số vấn
đề đối với đạo Thiên Chúa. Thông báo số 34-TB/TW ngày 14/11/1992 về chủ
trương công tác đối với đạo Cao Đài. Chỉ thị số 21- CT/TW ngày 18/5/1993
của Ban Bí thư về đoàn kết thống nhất Phật giáo. Thông báo Kết luận số 76TB/TW kết luận của Ban Bí thư Trung ương ngày 20/6/1994 về việc sơ kết
thực hiện Nghị quyết 24 ngày 16-10-1990 của Bộ Chính trị (khóa VI) về
“tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Thông báo số 145
TB/TW này 15/6/1998 của Ban Bí thư “Kết luận của Bộ Chính trị về tăng
cường lãnh đạo công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Chỉ thị số 37-CT/TW
ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị “Về công tác tôn giáo trong tình hình mới”.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương (khóa VIII) ngày
16/7/1998 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Thông báo số 165-TB/TW của Bộ Chính trị ngày 4/9/1998
Chủ trương đối với Phật giáo Hoà Hảo trong tình hình mới. Thông báo số
184-TB/TW ngày 30/11/1998 về Chủ trương công tác đối với đạo Tin lành
trong tình hình mới và Thông báo số 225-TB/TW ngày 7/10/1999 của Bộ
Chính trị “Về chủ trương đối với đạo Tin Lành trong tình hình mới”. Đặc biệt
Nghị quyết số 25 Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương khoá IX, ngày
12/3/2003 “Về công tác tôn giáo”. Thông báo 160 TB/TW ngày 15/11/2004

18


“Ý kiến kết luận của Ban Bí thư tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Thông
báo số 184 và 255-TB/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về chủ trương công
tác đối với đạo Tin lành”. Kết luận số 57-KL/TW ngày 3/11/2009 của Bộ
Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX) về phát huy sức mạng đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc.
về công tác tôn giáo và Kết luận số 58-KL/TW ngày 3/11/2009 của Bộ Chính
trị về tiếp tục thực hiện Thông báo 160-TB/TW, ngày 15-11-2004 của Ban Bí
thư Trung ương ương Đảng (khóa IX) về chủ trương công tác đối với đạo Tin
lành trong tình hình mới.
Còn Nhà nước có: Hiến pháp của Nước cộng hòa XHCN Việt Nam năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); Nghị định số 69 - HĐBT, ngày 21-3-1991
quy định về các hoạt động tôn giáo; Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19 4 - 1999 về các hoạt động tôn giáo; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, số 21/2004/PL-UBTVQH11, ngày 29 -6 -2004; Nghị
định số 22/2005/NĐ-CP, ngày 1-3-2005, hướng dẫn thi hành một số điều của
pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
Những văn bản trên được xem là tài liệu “gối đầu giường” của cán bộ,

chiến sĩ trực tiếp làm công tác tôn giáo của hệ thống chính trị. Nói cách khác,
nó là tài liệu đọc bắt buộc đối với người làm công tác tôn giáo, để họ thâu thái
được bản chất và những quy định cụ thể của chính sách tôn giáo trong thời kỳ
đất nước đổi mới, thế giới toàn cầu hóa.
Ngoài ra, chính sách, pháp luật đối với tôn giáo còn liên quan tới rất
nhiều các văn bản khác của Đảng và Nhà nước, như một nhà nghiên cứu tôn
giáo học đã thống kê và thấy, tổng số các văn bản pháp luật từ năm 1990 đến
nay (2010) liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo có tới 112 văn bản các loại.

1.2.2. Quan điểm chính sách đối với tôn giáo của Đảng ta
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới được tính vào mốc thời gian năm
1986, gắn với sự kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, song sự đổi mới tư duy về vấn
19


×