THỰC TRẠNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CHI NHÁNH QUẬN 5 TPHCM
2.1 Giới thiệu chung về ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam
Lịch sử hình thành và phát triển
Tháng 12/1986, Việt Nam tiến hành công cuộc dổi mới,chuyển từ cơ chế quản lý
tập trung bao cấp sang cơ chế nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.Theo đó, các thành
phần kinh tế ,trong đó có kinh tế cá thể, hộ sản xuất, tiểu thủ, tư bản tư nhân…đều được
khuyến khích phát triển.Từ 1988, trên cả nước hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế
tự chủ, sử dụng ruộng đất lâu dài với 5 quyền: chuyển đổi, chuyển nhượn, cho thuê, thừa
kế và thế chấp. Hệ thống ngân hàng cũng được đổi mới, chuyển từ 1 cấp sang 2 cấp, ngân
hàng Nhà Nước giữ vai trò ngân hàng Trung Ương quản lý vĩ mô, các ngân hàng thương
mại được hình thành và tách ra khỏi các “Cục hoặc Vụ chức năng trực thuộc ngân hàng
Nhà Nước” để trực tiếp kinh doanh tiền tệ,tín dụng.Ngân hàng phát triển Nông Nghiệp
Việt Nam (tiền thân của Agribank ngày nay) ra đời trong bố cảnh đó.
Ngân hàng phát triển Nông Nghiệp Việt Nam được thành lập theo Nghị định số
53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Chính Phủ) về việc thành lập
các ngân hàng chuyên doanh, trong đó có ngân hàng Phát Triển Nông Nghiệp Việt Nam
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,nông thôn.
Ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Thủ Tướng Chính Phủ) ký
QĐ số 400/CT thành lập ngân hàng Nông Nghiệp Việt Nam thay thế ngân hàng Phát Triển
Nông Nghiệp Việt Nam.Ngân hàng Nông nghiệp là ngân hàng thương mại đa năng,hoạt
động chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn,là một pháp nhân, hạch toán độc lập,tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.
Ngày 01/03/1991 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 18/NH-QĐ
thành lập Văn phòng đại diện Ngân hàng Nông Nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh và sau
đó, ngày 24/6/1994 Thống đốc có văn bản số 439/CV-TCCB chấp thuận cho Ngân hàng
Nông Nghiệp được thành lập văn phòng miền Trung tại Thành phố Quy Nhơn - tỉnh Bình
Dịnh.
Ngày 22/12/1992, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 603/NH-QĐ
về việc thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp các tỉnh thành phố trực thuộc Ngân
hàng Nông nghiệp gồm có 3 Sở giao dịch (Sở giao dịch I tại Hà Nội và Sở giao dịch II tại
Văn phòng đại diện khu vực miền Nam và Sở giao dịch 3 tại Văn phòng miền Trung) và
43 chi nhánh ngân hàng nông nghiệp tỉnh, thành phố. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
quận, huyện, thị xã có 475 chi nhánh
Ngày 07/03/1994 theo Quyết định số 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ , Ngân hàng
Nông Nghiệp Việt Nam hoạt động theo mô hình Tổng công ty Nhà nước với cơ cấu tổ
chức bao gồm Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc, bộ máy giúp việc bao gồm bộ máy kiểm
soát nội bộ, các đơn vị thành viên bao gồm các đơn vị hạch toán phụ thuộc, hạch toán độc
lập, đơn vị sự nghiệp, phân biệt rõ chức năng quản lý và chức năng điều hành, Chủ tịch
Hội đồng quản trị không kiêm Tổng Giám đốc
Ngày 30/7/1994 tại Quyết định số 160/QĐ-NHN9, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
chấp thuận mô hình đổi mới hệ thống quản lý của Ngân hàng Nông Nghiệp Việt Nam, trên
cơ sở đó, Tổng giám đốc Ngân hàng Nông Nghiệp Việt Nam cụ thể hóa bằng văn bản số
927/TCCB/Ngân hàng Nông nghiệp ngày 16/08/1994 xác định: Ngân hàng Nông nghiệp
Việt Nam có 2 cấp: Cấp tham mưu và Cấp trực tiếp kinh doanh. Đây thực sự là bước ngoặt
về tổ chức bộ máy của Ngân hàng Nông Nghiệp Việt Nam và cũng là nền tảng cho hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam sau này
Để phù hợp với tên gọi cũng như đa dạng hoá hình thức phục vụ khách hàng, ngày
15/11/1996, được Thủ Tướng Chính Phủ uỷ quyền, Thống đốc ngân hàng Nhà Nước Việt
Nam ký Quyết định số 280/QĐ – NHNN đổi tên ngân hàng Nông Nghiệp Việt Nam thành
ngân hàng Nông Nghiệp va Phát Triển Nông Thôn Việt Nam.
Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn là doanh nghiệp nhà nước dạng
đặc biệt, hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý trực tiếp của ngân
hàng Nhà Nước Việt Nam.Với tên gọi mới,ngoài chức năng của một ngân hàng thương
mại,ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam được xác định thêm
nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn thông qua vốn trung và dài hạn để
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ hải sản góp phần
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam gọi tắt là ngân hàng
Nông Nghiệp, viết tắt là NHNo&PTNT hay còn gọi là Agribank.
Tên giao dịch Quốc tế:VIET NAM BANK FOR AGRICULTURE AND RURAL
DEVELOPMENT, viết tắt là VBARD.
Trụ sở chính :Số 2 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội.
Tel:(04) 8313710
Văn phòng đại diện miền Nam: 7 Bis Bến Chương Dương, Quận 1, TP.HCM. Tel:
(08) 8210565
NHNo&PTNT Việt Nam là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài
sản, và đội ngũ công nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng.Hiện là ngân
hàng giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong đầu tư vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn cũng như đối với các lĩnh vực khác của nền kinh tế Việt Nam.
Tháng 2 năm 1999 Chủ tích Quản trị ban hành Quyết định số 234/HĐQT-08 về
quy định quản lý điều hành hoạt động kinh doanh ngoại hối trong hệ thống Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Tập trung thanh toán quốc tế về Sở Giao
dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam ( Sở giao dịch được thành
lập thay thế Sở giao dịch kinh doanh hối đoái, Sở giao dịch là đấu mối vốn cả nội và ngoại
tệ của toàn hệ thống) Sở Giao dịch II không làm đầu mối thanh toán quốc tế. Tài khoản
NOSTRO tập trung về Sở giao dịch. Tất cả các chi nhánh đều nối mạng SWIFT trực tiếp
với Sở giao dịch. Các chi nhánh tỉnh thành phố đều được thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh đối ngoại.Năm 2000 cùng với việc mở rộng kinh doanh trên thị trường trong nước,
NHNo&PTNT tích cực mở rộng quan hệ quốc tế và kinh doanh đối ngoại, nhận được sự
tài trợ của các tố chức tài chính tín dụng quốc tế như WB, ADB, IFAD… đổi mới công
nghệ, đào tạo nhân viên., Tiếp nhận và triển khai có hiệu quả 50 dự án nước ngoài với
tổng số vốn trên 1300 triệu USD chủ yếu đầu tưu vào khu vực kinh tế nông nghiệp, nông
thôn. Ngoài hệ thống thanh toán quốc tế qua mang SWIFT, NHNo&PTNT đã thiết lập
được hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử, máy rút tiền tự động ATM trong toàn hệ
thống.
Năm 2001 là năm đầu tiên NHNo&PTNT Việt Nam triển khai thực hiện đề án tái
cơ cấu với các nội dung chính sách là cơ cấu lại nợ, lành mạnh hoá tài chính, chuyển đổi hệ
thống kế toán hiện hành theo chuẩn mực quốc tế đôi mới sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo
mô hình NHTM hiện đại tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán, bộ tập trung đổi mới công
nghệ ngân hàng, xây dựng hệ thống thông tin quản lý hiện đại.
Bên cạnh mở rộng kinh doanh trên thị trường trong nước, năm 2002, NHNo&PTNT
Việt Nam tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế. Đến cuối năm 2002 là thành viên
của Hiệp hội tín dụng Nông nghiệp Nông thôn Châu Á Thái Bình Dương (APRACA),
Hiệp hội tín dụng Nông nghiệp Quốc tế (CICA) và Hiệp hội ngân hàng Châu Á (ABA),
trong đó Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam là thành viên chính thức Ban điều hành
của APRACA và CICA.
Năm 2003 NHNo&PTNT Việt Nam đã đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án Tái cơ
cấu nhằm đưa hoạt động của NHNo&PTNT VN phát triển với quy mô lớn, chất lượng hiệu
quả cao.Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, đóng góp tích cực và
rất có hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, sự nghiệp Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn, Chủ tịch nước CHXHCNVN đã ký
quyết định số 226/2003/QD/CTN ngày 07/05/2003 phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao
động thời kỳ đổi mới cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Tính đến năm 2004, sau 4 năm triển khai thực hiện Đề án tái cơ câu giai đoạn 2001-
2010, Ngân hàng Nông nghiệp đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tình hình tài
chính đã được lành mạnh hơn qua việc cơ cấu lại nợ và tăng vốn điều lệ, xử lý trên 90% nợ
tồn động. Mô hình tổ chức từng bước được hoàn thiện nhằm tăng cường năng lực quản trị
điều hành. Bộ máy lãnh đạo từ trung ương đến chi nhánh được củng cố, hoàn thiện, quyền
tự chủ trong kinh doanh được mở rộng hơn.
Đến cuối năm 2005, vốn tự có của NHNo&PTNT Việt Nam đạt 7.702tỷ VND, tổng
tài sản có trên 190 ngàn tỷ , hơn 2000 chi nhánh trên toàn quốc và 29.492 cán bộ nhân viên
(chiếm 40% tổng số cán bộ công nhân viên toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam), ứng dụng
công nghệ hiện đại, cung cấp những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hoàn hảo…
Từ năm 2006 bằng những giải pháp mang tính đột phá và cách làm mới
NHNo&PTNT Việt Nam (Agribank) thực sự khởi sắc. Đến cuối năm 2007, tổng tài sản đạt
325.802 tỷ đồng tương đương với 20 tỷ USD gấp gần 220 lần so với ngày đầu thành lập.
Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 242.102 tỷ đồng trong đó cho vay nông nghiệp nông
thôn chiếm trên 70% với trên 10 triệu hộ gia đình, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm
trên 36% với gần 3 vạn doanh nghiệp dư nợ. Tổng nguồn vốn 295.048 tỷ đồng và gần như
hoàn toàn là vốn huy động
Vị thế dẫn đầu của NHNo&PTNT Việt Nam luôn được khẳng định trên nhiều
phương diện.Ngoài hệ thống chi nhánh hùng mạnh, NHNo&PTNT còn có hai ngân hàng
chuyên doanh là ngân hàng Phát Triển Nông Thôn Đồng Bằng Sông Cửu Long và ngân
hàng Lương Thực TP.HCM.Ngoài ra, NHNo&PTNT Việt Nam còn đã đề xuất thành lập,
thực hiện và bảo trợ Ngân hàng phục vụ người nghèo trên cơ sở kết hợp những kết quả tốt
đẹp của quỹ cho vay ưu đãi người nghèo – tiền thân của Ngân hàng chính sách xã hội.Đây
là niềm tự hào to lớn của Agribank trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo.
NHNo&PTNT là ngân hàng luôn chú trọng đầu tư đổi mới và ứng dụng công nghệ
mới phục vụ đắc lực cho công tác quản trị kinh doanh và phát triển mang lưới dịch vụ ngân
hàng tiên tiến; là ngân hàng đầu tiên hoàn thành giai đoạn 1 dự án hiện đại hóa hệ thống
thanh toán và kế toán khách hàng (IPCAS) do ngân hàng thế giới tài trợ và đang tích cực
triển khai giai đoạn 2 của dự án này.Hiện Agribank đã vi tính hoá hoạt động kinh doanh từ
trụ sở chính đến hầu hết các chi nhánh trong toàn quốc và một hệ thống các dịch vụ ngân
hàng gồm: dịch vụ chuyển tiền điện tử, dịch vụ thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT.Đến
nay NHNo&PTNT Việt Nam hoàn toàn có đủ năng lực cung ứng các sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng hiện đại, tiên tiến, tiện ích cho mọi đối tượng khách hàng trong và ngoài nước.
NHNo&PTNT là một trong số các ngân hàng có quan hệ ngân hàng đại lý lớn nhất
Việt Nam với trên 979 ngân hàng đại lý tại 113 quốc gia và vung lãnh thổ tính đến 2/2007.
Bên cạnh đó Agribank đã đăng cai tổ chức nhiều hội nghị Quốc tế lớn như hội nghi FAO
năm 1991, hội nghị APRACA năm 1996 và năm 2004, hội nghị tín dụng nông nghiệp
Quốc tế CICA năm 2001, hội nghị APRACA về thuỷ sản năm 2002.
Ngoài ra NHNo&PTNT là ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam trong việc tiếp cận và
triển khai các dự án nước ngoài, đặc biệt là các dự án của WB,ADB, AFD.Cuối 2/2007 các
dự án nước ngoài đã tiếp nhận và triển khai lên tới 103 dự án với tổng số vốn trên 3,6 tỷ
USD; số vốn qua Agribank là 2.7 tỷ USD, đã giải ngân được 1,5 tỷ USD.
Ngày 15/11/2007, báo điện tử VietNamNet kết hợp với Công ty cổ phần Báo cáo
đánh giá Việt Nam (VietNam Report) lần đầu tiên đã công bố bảng xếp hạng top 500
doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR 500), trong đó Agribank là đại diện đứng đầu trong
lĩnh vực tài chính – ngân hàng, qua đó càng khẳng định vị thế hàng đầu của NHNo&PTNT
trong hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Năm 2008 là năm ghi dấu chặng đường 20 năm xây dựng và trưởng thành của
NHNo&PTNT Việt Nam và cũng là năm có tính quyết định trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế theo chủ trương của Đảng, Chính phủ.Trong chiến lược phát triển của mình,
Agribank sẽ trở thnàh một Tập đoàn tài chính đa nghành, đa sở hữu, hoạt động đa lĩnh vực.
Theo đó, toàn hệ thống xác định những mục tiêu lớn phải ưu tiên, đó là: Tiếp tục giữ vai
trò chủ đạo, chủ lực trên thị trường tài chính nông thôn, luôn là người bạn đồng hành thủy
chung tin cậy của 10 triệu hộ gia đình; xúc tiến cổ phần hóa các công ty trực thuộc, tiến tới
cổ phần hóa NHNo&PTNT Việt Nam theo định hướng và lộ trình thích hợp, đẩy mạnh tái
cơ cấu ngân hàng, giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu, đạt hệ số an toàn vốn theo tiêu chuẩn
quốc tế, phát triển hệ thống công nghệ thông tin, đa dạng hóa sản phẩm , nâng cao chất