Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên trẻ trong các Học viện, Trường Sĩ quan Quận đội nhân dân Việt Nam hiện nay: Luận án TS. Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 193 trang )

đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn

vũ văn ban

NÂNG CAO NĂNG LựC TƯ DUY Lý LUậN
CủA giảng viên trẻ trong các học viện,
Tr-ờng sĩ quan quân đội nhân dân việt nam hiện nay

luận án tiến sĩ triết học

Hà nội - 2015

1


đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn

vũ văn ban

NÂNG CAO NĂNG LựC TƯ DUY Lý LUậN
CủA giảng viên trẻ trong các học viện,
Tr-ờng sĩ quan quân đội nhân dân việt nam hiện nay
Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số

: 62 22 03 02

luận án tiến sĩ triết học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Trần Văn Phòng
2. TS. Đào Huy Tín

Hà nội - 2015

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS Trần Văn Phòng và TS Đào Huy
Tín. Các số liệu nêu trong luận án là trung
thực. Những kết luận khoa học của luận án
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

T¸c gi¶ luËn ¸n

Vũ Văn Ban

3


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của

PGS.TS Trần Văn Phòng và TS. Đào Huy Tín.
Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.

T¸c gi¶ luËn ¸n

Vũ Văn Ban

4


Môc lôc
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

5

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến nâng cao năng lực tư duy lý luận

5

của cán bộ, giảng viên
1.2. Các công trình đề cập đến thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý


13

luận của cán bộ, giảng viên trẻ
1.3. Những nghiên cứu đề cập đến quan điểm và giải pháp nâng cao

19

năng lực tư duy lý luận của cán bộ, giảng viên trẻ
1.4. Những thành tựu cơ bản và vấn đề đặt ra mà luận án cần tiếp tục

27

giải quyết
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC

33

TƢ DUY LÝ LUẬN CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ TRONG CÁC
HỌC VIỆN, TRƢỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM

2.1. Tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận

33

2.2. Thực chất nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên trẻ trong

43

các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam

2.3. Những yếu tố tác động đến nâng cao năng lực tư duy lý luận của

58

giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân
Việt Nam
Chương 3: NÂNG CAO NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN CỦA GIẢNG

73

VIÊN TRẺ TRONG CÁC HỌC VIỆN, TRƢỜNG SĨ QUAN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ
VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên trẻ trong

73

các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
3.2. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận
của giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay

5

101


Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TIẾP TỤC NÂNG


112

CAO NĂNG LỰC TƢ DUY LÝ LUẬN CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ
TRONG CÁC HỌC VIỆN, TRƢỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Quan điểm cần quán triệt trong việc tiếp tục nâng cao năng lực tư

112

duy lý luận của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay
4.2. Những giải pháp cơ bản tiếp tục nâng cao năng lực tư duy lý luận

118

của giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN

147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

150

ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

151


PHỤ LỤC

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NCKH : Nghiên cứu khoa học
TDLL

: Tư duy lý luận

7


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến, mỗi quốc gia hay dân tộc, ở bất kì
một thời đại nào, muốn phát triển thì đều cần phải dựa vào một nền khoa
học tiên tiến đủ mạnh và đi kèm với nó là những con người có năng lực tư
duy lý luận (TDLL) phù hợp với trình độ phát triển của khoa học thời đại
đó. Ph. Ăngghen đã từng chỉ ra: một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao
của khoa học, thì không thể không có TDLL. Song, Ph. Ănghen cũng nhấn
mạnh thêm rằng, TDLL không phải lúc nào và ở đâu cũng có sẵn, mà nó
thường tồn tại dưới dạng tiềm năng, dạng năng lực. Vì thế, việc xây dựng, tạo
lập và nâng cao năng lực TDLL cho cả một quốc gia, dân tộc, một lớp người
hay cho từng cá nhân thì đều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan quân đội là một bộ
phận cán bộ của Đảng trong quân đội, lực lượng có vai trò to lớn góp phần
đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho quân đội và quốc gia. Năng lực

TDLL là một phẩm chất đặc biệt quan trọng, là cơ sở giúp cho giảng viên trẻ
nhận thức đúng đắn bản chất tri thức khoa học, giải đáp những vấn đề thực
tiễn quân sự đặt ra, vận dụng sáng tạo tri thức lý luận khoa học vào giảng dạy,
nghiên cứu khoa học (NCKH) và thực hiện các nhiệm vụ khác một cách có
hiệu quả. Vì vậy, nâng cao năng lực TDLL của giảng viên trẻ là yêu cầu khách
quan, là nhiệm vụ thường xuyên và là một nội dung cốt lõi trong công tác xây
dựng đội ngũ nhà giáo, xây dựng các học viện, trường sĩ quan quân đội cả
trước mắt cũng như lâu dài.
Những năm qua, để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, các học
viện, trường đại học cả nước cũng như trong quân đội thường xuyên quan tâm
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Vì thế, trình độ kiến thức, năng lực
TDLL và các phẩm chất khác của giảng viên trẻ ngày càng được nâng lên.

8


Tuy nhiên, trước sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và công
nghệ, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới, đòi hỏi phải xây dựng quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong đó có một số quân,
binh chủng tiến thẳng lên hiện đại đang đặt ra yêu cầu cao đối với công tác giáo
dục và đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Trong khi đó, năng lực
TDLL của một bộ phận giảng viên trẻ có mặt chuyển biến chậm, làm cản trở
khả năng nhận thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn sư phạm còn mỏng, hệ
thống kĩ năng hoạt động sư phạm chưa theo kịp đòi hỏi thực tiễn nghề nghiệp;
trình độ sử dụng ngoại ngữ, tin học, khả năng NCKH chưa đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới,... Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ
đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ của giảng viên trẻ, đến chất lượng giáo dục
và đào tạo của các học viện, trường sĩ quan quân đội, đến kết quả huấn luyện
và sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta.

Thực tế ấy đặt ra vấn đề khoa học cần phải giải đáp. Đó là, làm thế
nào để "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên trẻ trong các học
viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay"? Điều này có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn; vừa cơ bản, cấp bách vừa lâu dài, không chỉ
đối với việc xây dựng đội ngũ giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ
quan nói riêng mà còn góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới tư duy của đội
ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn quân nói chung, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn nâng cao năng lực TDLL
của giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt
Nam, luận án đề xuất quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục thực hiện
tốt việc nâng cao năng lực TDLL của họ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục
và đào tạo, NCKH và xây dựng quân đội ta hiện nay.

9


Nhiệm vụ của luận án
- Làm rõ thực chất nâng cao năng lực TDLL của giảng viên trẻ và
những yếu tố tác động tới việc nâng cao năng lực TDLL của giảng viên trẻ
trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Đánh giá đúng thực trạng nâng cao năng lực TDLL của giảng viên
trẻ trong các học viện, trường sĩ quan quân đội, chỉ rõ nguyên nhân của thực
trạng và khái quát những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp cơ bản tiếp tục nâng cao năng lực
TDLL của giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao năng lực TDLL của giảng viên trẻ
trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động nâng cao năng lực
TDLL của giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam. Phạm vi điều tra, khảo sát ở một số học viện, nhà trường đào
tạo sĩ quan cấp phân đội (các tư liệu, số liệu phục vụ cho nghiên cứu chủ yếu
từ năm 2010 đến nay).
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận án: Luận án dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, nhất là phần lý luận nhận thức và lôgíc học; tư tưởng Hồ
Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luận của Nhà
nước, nhiệm vụ của quân đội về giáo dục và đào tạo, về công tác xây dựng và
phát triển đội ngũ nhà giáo trong các nhà trường quân đội. Đồng thời, luận án
khai thác kết quả nghiên cứu trong các công trình khoa học đã được khái quát
liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài.
- Cơ sở thực tiễn: Quá trình công tác của tác giả ở một số học viện,
nhà trường trong quân đội; qua điều tra, khảo sát thực tế về năng lực TDLL

10


của giảng viên trẻ cũng như các vấn đề có liên quan đến đề tài. Luận án còn
kế thừa những báo cáo tổng kết có liên quan đến công tác giáo dục và đào tạo
ở một số học viện, trường sĩ quan quân đội.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp
phân tích - tổng hợp, kết hợp lịch sử - lôgíc, hệ thống - cấu trúc, chuyên gia,
điều tra xã hội học và các phương pháp khác để nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận án
- Làm rõ khái niệm nâng cao năng lực TDLL của giảng viên trẻ trong

các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và những yếu tố
tác động tới việc nâng cao năng lực TDLL của họ.
- Đánh giá thực trạng, khái quát một số vấn đề đặt ra cần giải quyết
trong nâng cao năng lực TDLL của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ
quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp cơ bản tiếp tục nâng cao năng lực
TDLL của giảng viên trẻ trong trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội
nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay.
6. ý nghĩa của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án nếu được vận dụng vào thực tiễn sẽ
góp phần nâng cao năng lực TDLL của giảng viên trẻ trong các học viện,
trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa
học, giảng dạy triết học nói chung, phần lý luận nhận thức nói riêng và công
tác xây dựng đội ngũ nhà giáo trong các nhà trường quân đội hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận án gồm 4 chương, 11 tiết.

11


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến nâng cao năng lực tƣ duy lý
luận của cán bộ, giảng viên
Vấn đề tư duy, TDLL được nghiên cứu từ rất sớm, đặc biệt từ sau Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, đã có nhiều nhà lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, quân đội cũng như các nhà khoa học, các ngành khoa học khác nhau
quan tâm nghiên cứu. Vấn đề này cũng đã có nhiều công trình khoa học được

công bố, xuất bản thành sách, đăng tải trên các báo, tạp chí, luận văn, luận án,
kỉ yếu hội thảo khoa học.
Tiêu biểu trong đó có cuốn sách "Đổi mới tư duy lý luận và công tác
xây dựng Đảng" [115] đã tập hợp một số bài viết của tác giả Hoàng Tùng,
đăng trên báo Nhân dân từ sau đại hội VI của Đảng đến tháng 5 năm 1987.
Tác giả đi sâu luận giải làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu như: theo con
đường chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười;
học tập đạo đức cách mạng và phong cách của Bác Hồ; đổi mới tư duy là tiền
đề khắc phục sự chậm trễ về lý luận; đổi mới công tác xây dựng Đảng. Trên
cơ sở phân tích để đưa tới một nhận định rằng: Đảng ta tiến hành công cuộc
đổi mới toàn diện và triệt để nền kinh tế - xã hội của đất nước. Để thực hiện
thành công nhiệm vụ trọng đại đó, trước hết chúng ta cần phải đổi mới TDLL
và đổi mới công tác xây dựng Đảng. Nghiên cứu này chứng tỏ vai trò to lớn
của TDLL trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và trong công tác xây
dựng Đảng nói riêng, làm cho Đảng ta thực sự trong sạch vững mạnh, trở
thành một Đảng trí tuệ, có đủ trình độ và năng lực lãnh đạo công cuộc đổi
mới đất nước ở những năm tiếp theo.
Trong cuốn sách "Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ
lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn" [97] do tập thể cán bộ nghiên cứu, giảng dạy triết

5


học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí minh biên soạn đã xem TDLL là
hình thức cao nhất của tư duy, đó chính là quá trình tiếp cận, nắm bắt, nhận
thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận, bằng hệ thống khái niệm,
phạm trù, quy luật. Với tư cách là một hình thức cao nhất của tư duy, TDLL
nắm bắt, tái tạo đối tượng nhận thức, hiện thực khách quan không phải bằng
những khái niệm thông thường, mà bằng những khái niệm lý luận. "Những
khái niệm này giúp tư duy con người có thể đi sâu vào bản chất sự vật, tìm và

vạch ra quy luật, tính quy luật của sự vật hiện tượng, và dĩ nhiên, quá trình
này không phải là hành động đơn giản, bất chợt, rời rạc mà là có quy trình, có hệ
thống, mang tính chỉnh thể và tính nghệ thuật cao" [97, tr. 15-16]. Bàn về vai
trò của TDLL đối với người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn được xem như
là "chìa khóa" cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của họ; TDLL giúp người
cán bộ nắm được thực chất quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, có khả năng phân tích, luận giải để nắm được tinh thần cốt lõi của đường
lối; có TDLL, người cán bộ sẽ có đủ năng lực phân tích sự phong phú, tính đa
dạng và phức tạp của thực tiễn cuộc sống kể cả cuộc sống đời thường để từ đó
vận dụng lý luận một cách chủ động, thích hợp, sáng tạo và hiệu quả; cũng nhờ
có TDLL mà người cán bộ biết tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận.
Tác giả Nguyễn Thanh Tân với cuốn sách "Lôgic vận động của khái
niệm trong tư duy lý luận" [92] đã làm rõ sự khác biệt giữa TDLL với tư duy
kinh nghiệm thông qua đối tượng phản ánh, phương thức tiếp cận, phương
thức hoạt động, hình thức, nội dung và tính chất xuất hiện của tri thức do hai
loại hình tư duy này mang lại. Đứng trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và sự am hiểu về lôgíc học, tác giả đã nghiên cứu luận giải làm rõ
tư duy, khái niệm, TDLL, các quy luật vận động cơ bản của khái niệm trong
TDLL, các chiều hướng chính của sự vận động khái niệm trong TDLL. Theo
tác giả, sự vận động của khái niệm theo chiều hướng làm sâu sắc thêm nội
hàm và mở rộng ngoại diên; trong tương tác với nhau, các khái niệm vận

6


động theo hướng sản sinh ra khái niệm mới; sự vận động của khái niệm theo
hướng bổ sung, đổi mới tri thức và hiện thực hóa trong quan hệ với thực tiễn.
Từ nội dung và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu, tác giả rút ra kết luận: các quy
luật và chiều hướng có tính quy luật của sự vận động khái niệm cũng hợp thành
lôgíc đổi mới, phát triển TDLL nói chung. Do vậy, việc nghiên cứu lôgíc vận

động của khái niệm cho ta căn cứ để xác định phương hướng và các giải pháp
cơ bản nhằm đổi mới, phát triển TDLL, mà điều này đặc biệt quan trọng đối
với nhận thức khoa học cũng như thực tiễn hiện nay [92, tr. 237-238]. Đây là
một công trình nghiên cứu cơ bản có giá trị, "lôgíc vận động của khái niệm
trong tư duy lý luận" không những đã làm rõ lý luận về sự phát triển của khái
niệm trong tư duy ở trình độ cao mà còn cung cấp cho chúng ta một phương
pháp, một cách thức xây dựng hệ thống khái niệm công cụ đến khái niệm
trung tâm đối với mỗi công trình khoa học.
Tác giả Bùi Thanh Quất cho rằng:
Tư duy lý luận là hệ tri thức - hệ tri thức này gắn bó chặt
chẽ với nhau về mặt lôgíc, tạo thành quan niệm hoàn chỉnh phản
ánh bản chất, các quy luật hoạt động và phát triển của khách thể
nghiên cứu - đang hoạt động sản sinh ra tri thức mới, có khả năng
chỉ đạo hoạt động thực tiễn [Dẫn theo 90, tr. 22].
Tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản như: tính khoa học; tính
sáng tạo; biết sử dụng tự giác bộ công cụ của lý tính là những khái niệm,
phạm trù, phán đoán, suy lý, các lý thuyết khoa học và vận hành dưới dạng
các phương pháp, biện pháp cụ thể dựa trên các căn cứ khoa học; gắn với thực
tiễn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Quan niệm này giúp tác giả luận án hiểu rõ
hơn bản chất của TDLL; đồng thời, thấy được những đặc trưng cơ bản của
TDLL khác về chất so với tư duy kinh nghiệm ở đối tượng phản ánh, phương
pháp tiến hành, nội dung cũng như trình độ thể hiện và đặc biệt là vai trò của
TDLL đối với hoạt động thực tiễn - nét riêng so với các loại hình tư duy khác.

7


Trong sách chuyên khảo "Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng
từ năm 1986 đến nay" [40] của tập thể các nhà khoa học thuộc Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã phân tích tác động của tình hình thế giới

và trong nước tới công cuộc đổi mới, làm rõ thời cơ, thách thức và những đặc
điểm chủ yếu của đổi mới ở Việt Nam, luận chứng đổi mới để phát triển là
một quyết sách chiến lược của Đảng. Đề cập một cách hệ thống về vai trò của
lý luận và TDLL đối với công cuộc đổi mới; phân tích TDLL của Đảng về chủ
nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới,
nhất là trong giai đoạn từ năm 1986 tới nay. Tập trung làm rõ đổi mới TDLL
của Đảng trên các lĩnh vực, từ mô hình kinh tế, cơ cấu kinh tế và cơ chế quản
lý kinh tế đến các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng con người,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đánh giá tổng quát ưu điểm, hạn chế và kinh
nghiệm của quá trình đổi mới TDLL của Đảng từ 1986 tới nay; nêu lên phương
hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và hoàn thiện lý luận trong
giai đoạn hiện nay. Công trình khoa học này một lần nữa khẳng định vai trò to
lớn của TDLL đối với hoạt động lãnh đạo của Đảng trong quá trình đổi mới
đất nước. Nó sẽ được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, các lực lượng phát
huy hơn nữa nhằm đem lại nhiều thành quả cách mạng trong giai đoạn mới.
Nghiên cứu liên quan đến năng lực tư duy, năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ, giảng viên. Tác giả Nguyễn Ngọc Long chỉ ra rằng, năng lực tư
duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới
và bản thân con người, bảo đảm cho hành động sáng tạo của mình [52, tr. 48].
Với sự khu biệt yếu tố đặc trưng hình thành năng lực tư duy của chủ thể phẩm chất trí tuệ chứ không bao hàm tất cả các phẩm chất nói chung đã giúp
cho tác giả có điều kiện đi sâu nghiên cứu về bản chất của tư duy; đồng thời
cũng chỉ rõ năng lực tư duy không chỉ giúp chủ thể khám phá thế giới và nhận
thức về bản thân mình mà còn giúp họ hoạt động sáng tạo, giải quyết được
những vấn đề thực tiễn đặt ra đem lại hiệu quả cao trong công việc.

8


Tác giả Hồ Bá Thâm trong cuốn sách "Nâng cao năng lực tư duy của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay" [96], từ góc độ tri thức

luận cho rằng: "Năng lực tư duy là khả năng biến tri thức thành phương pháp
và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức, tìm ra bản chất, quy luật,
xu hướng tất yếu của sự vật và vận dụng đúng đắn các quy luật đó trong cuộc
sống" [96, tr. 13]. Khi xem xét từ các yếu tố hợp thành, tác giả lại quan niệm:
"năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện, trừu tượng
hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận - giải, và xử lý trong quá trình phản ánh,
phát triển tri thức và vận dụng chúng vào thực tiễn trên cơ sở quy luật khách
quan mang lại những kết quả nhất định" [96, tr. 15-16]. Có thể thấy rằng, tùy
theo cách tiếp cận mà năng lực tư duy được biểu hiện ra ở những nét khác
nhau, nhưng xét về loại hình, năng lực tư duy không chỉ là năng lực tư duy
chính xác mà chủ yếu là năng lực tư duy biện chứng. Do đó, để nâng cao năng
lực tư duy, phải nâng cao tính biện chứng của tư duy, hay chính là nâng cao
khả năng TDLL mácxít, tư duy khoa học, sáng tạo, và nâng cao năng lực vận
dụng chúng trong thực tiễn. Từ đó tác giả đi đến kết luận: nâng cao năng lực
tư duy không phải là mục đích tự thân mà là để giải quyết thành công những
vấn đề thực tiễn [96, tr. 22].
Tiếp tục bàn về năng lực tư duy, tác giả Trần Văn Phòng cho rằng,
năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ - (chẳng hạn như sự
thông minh, khả năng suy luận, phán đoán, phân tích, năng khiếu nhạy
cảm,...) - của con người nhằm đáp ứng yêu cầu nhận thức đúng đắn bản chất
thế giới tự nhiên, xã hội, con người, bảo đảm cho hoạt động thực tiễn và hoạt
động sáng tạo của con người phù hợp với quy luật, đạt hiệu quả [78]. Bằng
việc cụ thể hóa các yếu tố cơ bản hợp thành năng lực tư duy của chủ thể, tác
giả xem đó như là tư chất trí tuệ, phẩm chất sáng tạo của họ được huy động
vào quá trình tiếp thu tri thức khoa học, vào nhận thức khách thể ở tầm lý
luận, vận dụng tri thức khoa học đã biết vào hoạt động thực tiễn mang lại hiệu
quả và có khả năng sáng tạo ra những tri thức mới.

9



Bàn về năng lực tư duy sáng tạo, trong luận án của mình, tác giả Đào
Văn Tiến cho rằng, năng lực tư duy sáng tạo trước hết phải có những dấu hiệu
cơ bản của tư duy, đồng thời phải có những nét đặc trưng thể hiện tính sáng
tạo. Điểm khác biệt của năng lực tư duy sáng tạo với năng lực tư duy nói
chung là việc tạo ra những khái niệm, phán đoán, suy lý mới trong phản ánh
hiện thực, tuyệt nhiên không đơn giản chỉ là phản ánh tái tạo. Tất nhiên, nội
dung của các khái niệm, phán đoán, suy luận mới không thể tách rời các hoạt
động ghi nhớ, tái hiện, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa của
bộ óc trong quá trình phản ánh hiện thực [105, tr. 22]. Theo tác giả, điều kiện
để nẩy sinh và phát triển năng lực tư duy sáng tạo gồm các tiền đề chủ quan
của chủ thể tư duy và tiền đề khách quan là tình huống thực tiễn có vấn đề đòi
hỏi phải có tri thức mới chỉ đạo hành động của chủ thể cải tạo hiện thực. Tiền
đề chủ quan, ngoài tố chất của bộ óc thông minh, sự nhạy cảm của cơ quan
cảm giác, phải kể đến tri thức (kiến thức chung, kiến thức chuyên môn nghiệp
vụ, sự hiểu biết về nhiệm vụ) và phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo tư duy; ý thức
trách nhiệm, nhu cầu, ý chí quyết tâm cải tạo đối tượng; trạng thái tinh thần
tâm lý của chủ thể. Trong số các điều kiện chủ quan đó, yếu tố tri thức và
phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo tư duy có tầm quan trọng đặc biệt. Năng lực tư
duy sáng tạo của con người có được không chỉ nhờ vào sự nhanh nhạy của bộ
óc, của cơ quan cảm giác, của tri thức mà còn là kết quả của quá trình khổ
luyện học tập và rèn luyện trong thực tiễn. Từ đây, công trình này đã đưa ra
quan niệm về năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội; chỉ ra
bản chất, đặc điểm, vai trò của năng lực tư duy sáng tạo đối với hoạt động thực
tiễn của sĩ quan trẻ.
Năng lực tư duy khoa học cũng đã được tác giả Lê Hữu Nghĩa và tác
giả Phạm Duy Hải đề cập ở sách "Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng
khoa học - công nghệ" [72]. Các nhà nghiên cứu cho rằng: tư duy khoa học là
giai đoạn cao, trình độ cao của quá trình nhận thức, được thực hiện thông qua


10


một hệ thống các thao tác tư duy nhất định trong đầu óc của các nhà khoa học
(hoặc những người đang sử dụng các tri thức khoa học và vận dụng đúng đắn
những yêu cầu của tư duy khoa học), với sự giúp đỡ của một hệ thống "công
cụ" tư duy khoa học (như các ngôn ngữ và hình thức của tư duy khoa học)
nhằm "nhào nặn" các tri thức tiền đề, xây dựng thành những tri thức khoa học
mới, dưới dạng những khái niệm, phán đoán, suy luận mới hoặc giả thuyết, lý
thuyết, lý luận khoa học mới, phản ánh các khách thể nhận thức một cách
chính xác hơn, đầy đủ hơn, sâu sắc hơn, chân thực hơn [72, tr. 37-38]. Tư duy
khoa học đã trải qua ba giai đoạn phát triển: tư duy khoa học thời cổ đại, tư
duy khoa học cổ điển và tư duy khoa học hiện đại. Đi sâu phân tích, chỉ rõ
những thuận lợi và khó khăn giữa các giai đoạn phát triển của tư duy khoa học,
các tác giả nhận định rằng: trong điều kiện mới (điều kiện cách mạng khoa
học - công nghệ), tư duy khoa học hiện đại phát triển mạnh mẽ cao hơn về
chất và có năng lực giải quyết rất lớn những vấn đề toàn cầu để đưa loài người
tiến vào thế kỷ XXI, xây dựng một nền văn minh phát triển bền vững hơn.
Nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận, trong luận án của tác giả
Nguyễn Đình Trãi đã chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng cơ bản của năng lực
TDLL: nó như là một khả năng, một phẩm chất tâm sinh lý của con người;
năng lực TDLL được đặc trưng bởi sự tích lũy về phương pháp tư duy; là khả
năng lựa chọn, sắp xếp các thao tác tư duy theo một lôgíc nhất định nhằm đạt
tới kết quả cụ thể; năng lực TDLL còn được thể hiện ở khả năng tiến hành các
thao tác tư duy; là khả năng tích lũy vốn tri thức và nghệ thuật sử dụng tri
thức, xử lý thông tin và phương pháp một cách khoa học, hiệu quả; là khả
năng vận dụng lý luận đã có để nhận thức, giải quyết những vấn đề thực tiễn
mới, đồng thời có những dự báo cho tương lai; năng lực TDLL không tách rời
trình độ tri thức, văn hóa của mỗi người. Từ đó tác giả đưa ra quan niệm:
Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ

của chủ thể có thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở trình độ

11


lý luận) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ
vậy, có những đề xuất sắc bén, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động thực tiễn của con người [109, tr. 28].
Theo tác giả, tư duy con người được hình thành và phát triển dựa trên
sự thống nhất biện chứng của hai mặt tự nhiên và xã hội. Vì vậy, khi xem xét
sự ảnh hưởng tới năng lực TDLL thì phải kể đến sự tác động của cơ sở sinh
học và cơ sở xã hội. Cơ sở sinh học, trong đó có bộ não người là yếu tố quan
trọng đặc biệt, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực TDLL của chủ thể. Nhưng não
người lại không tách khỏi cơ thể con người, bởi thế, có thể khẳng định rằng, sức
mạnh thể chất nói chung - nghĩa là toàn bộ mặt tự nhiên của con người, đều có
ảnh hưởng đến năng lực tư duy của họ. Khi nghiên cứu sự tác động ảnh hưởng
về mặt xã hội đến năng lực TDLL, tác giả cho rằng, môi trường kinh tế - xã hội
là điều kiện vật chất khách quan có tác động to lớn đến năng lực TDLL của con
người; các thiết chế chính trị, tư tưởng của xã hội; sự phát triển của khoa học,
văn hóa; phụ thuộc trực tiếp vào nền giáo dục và đào tạo, vào phương thức,
phương pháp và điều kiện giáo dục và đào tạo của xã hội; hoạt động thực tiễn
của con người; vấn đề lợi ích và đặc biệt là phụ thuộc vào chính bản thân chủ
thể tư duy. Các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng với nhau tạo thành môi
trường, điều kiện trực tiếp tác động, ảnh hưởng tới năng lực TDLL của chủ thể.
Khi nghiên cứu về một đối tượng cụ thể - cán bộ giảng dạy lý luận
Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh, tác giả Nguyễn Đình Trãi cho rằng,
năng lực TDLL của họ giữ vai trò quan trọng, là yếu tố đảm bảo cho người
cán bộ giảng dạy tiếp tục nghiên cứu sâu, nhận thức thấu đáo nội dung khoa
học cũng như bản chất cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin; là
điều kiện để họ tự nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn phương pháp tối ưu; là điều

kiện thuận lợi để họ thường xuyên học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý
luận cũng như trình độ tư duy; là điều kiện giúp cho cán bộ nói chung và
người cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin nói riêng, thường xuyên học tập

12


và rèn luyện phương pháp tư duy khoa học - phương pháp tư duy biện chứng
duy vật; năng lực TDLL còn là cơ sở cho việc rèn luyện phẩm chất chính trị,
đạo đức, tác phong của nhà sư phạm.
Nghiên cứu làm rõ bản chất TDLL, những yếu tố tác động ảnh hưởng
đến năng lực TDLL của đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các
trường chính trị tỉnh và vai trò của năng lực TDLL trong giảng dạy môn học
này của họ là một trong những thành công cơ bản của đề tài. Kết quả nghiên
cứu của công trình vừa gợi mở và cũng là cơ sở quan trọng giúp cho tác giả
luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu về năng lực TDLL của đội ngũ cán bộ chủ
chốt các cấp, năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên nói chung vốn có
những điểm tương đồng với đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở
các trường chính trị tỉnh.
1.2. Các công trình đề cập đến thực trạng nâng cao năng lực tƣ
duy lý luận của cán bộ, giảng viên trẻ
Nghiên cứu một cách công phu, tác giả Trần Nhâm trong cuốn sách
"Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới" [76] đã làm rõ biện chứng sự phát
triển của một số đặc điểm và xu thế lớn của thế giới ở những thập niên đầu
thế kỷ XXI. Qua đó đánh giá thực trạng về một trật tự thế giới mới và tương
quan lực lượng trên trường quốc tế hiện nay; bàn về cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại cũng như những vấn đề đang đặt ra, về toàn cầu hóa
với những cơ hội và thách thức cho sự phát triển của Việt Nam; những vấn đề
về khủng bố và chống khủng bố để chỉ rõ thực chất của tai họa là ở đâu; chỉ rõ
cuộc khủng khoảng sinh thái toàn cầu đang là mối hiểm họa của thế kỷ XXI

đối với các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Từ bức tranh chung
của bối cảnh thế giới, tác giả luận chứng một cách khoa học và đi đến khẳng
định một cách chắc chắn mang tầm lý luận rằng: để phát triển đất nước thì cần
phải tiếp tục đổi mới và chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là
nền tảng tư tưởng của công cuộc đổi mới.

13


Xem xét một cách toàn diện, tác giả một lần nữa khẳng định, đổi mới
tư duy kinh tế là bước đột phá về TDLL của Đảng ta trong quá trình đổi mới,
qua đó đánh giá cống hiến xuất sắc về TDLL của đồng chí Trường Chinh đã
góp phần hình thành đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội lần thứ VI; tiếp
tục làm sáng tỏ đổi mới TDLL về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
về con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn ở Việt Nam,... Kết quả
nghiên cứu của công trình là hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn cả về mặt
lịch sử cũng như hiện tại, có đóng góp quan trọng cả về mặt lý luận cũng như
thực tiễn, trên bình diện rộng cũng như hẹp. Kết quả nghiên cứu này là cơ sở
quan trọng để tác giả luận án xem xét, đánh giá những tác động ảnh hưởng
của các điều kiện hoàn cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, cũng như sự
chi phối của các nhân tố khác đến vấn đề nâng cao năng lực TDLL của đối
tượng nghiên cứu cụ thể trong môi trường quân đội hiện nay.
Tác giả Trần Thành trong cuốn sách "Tư duy lý luận với hoạt động của
người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn" [97] đã nghiên cứu toàn diện những
nhân tố ảnh hưởng đến TDLL của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn ở
nước ta. Nhìn chung, TDLL của cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn bị ảnh hưởng
của tư duy truyền thống. "Tư duy truyền thống ở đây được hiểu là loại hình tư
duy hình thành trong lịch sử lâu dài của dân tộc trước khi có sự du nhập của văn
hóa phương Tây; nó phản ánh công cuộc đấu tranh chống thiên tai địch họa, xây
dựng cuộc sống bình yên, hạnh phúc của con người Việt Nam" [97, tr. 66].

Đặc điểm lối tư duy này là tư duy tổng hợp và tư duy mang đậm màu sắc kinh
nghiệm. TDLL của cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn chịu ảnh hưởng của nền
sản xuất nhỏ. Nền sản xuất nhỏ nông nghiệp lạc hậu trong khung cảnh làng xã
đã tồn tại ở nước ta hàng ngàn năm, nó ảnh hưởng rất lớn đến tư duy của con
người Việt Nam, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chính sản xuất
nhỏ là "mảnh đất" làm nảy sinh và dung dưỡng lối tư duy kinh nghiệm. Mặt
khác, sản xuất nhỏ mang tính manh mún, tản mạn in vào lối tư duy phiến

14


diện, siêu hình. Ngoài ra, TDLL của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý còn
chịu ảnh hưởng bởi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và ảnh hưởng từ những
hạn chế của công tác giáo dục lý luận chính trị. Từ những tác động ảnh hưởng
này, một trong những nhiệm vụ đặt lên hàng đầu của sự nghiệp đổi mới ở
nước ta là đổi mới tư duy.
Nhận thức được tầm quan trọng, tính cấp bách của việc đổi mới tư duy
trong những năm đổi mới, Đảng ta đã nỗ lực cao để tạo ra những điều kiện
thúc đẩy quá trình đổi mới tư duy của cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn. Với
những cố gắng ấy, tư duy của người cán bộ đã có sự chuyển biến tích cực,
trình độ TDLL được nâng lên một bước khá rõ rệt, điều đó được thể hiện ở
thành tựu của những năm đổi mới. Nói như vậy không có nghĩa là năng lực và
trình độ TDLL của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn hiện nay đã đáp
ứng nhu cầu nhiệm vụ mới, với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Tình trạng bất cập và sự hạn chế về trình độ tư
duy của đội ngũ này biểu hiện trên nhiều mặt như: mức độ nắm bắt và chuyển
hóa kiến thức lý luận thành tư duy, suy nghĩ còn hạn chế; việc nhận thức và
vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào việc
xây dựng kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội cụ thể trong thực
tiễn cuộc sống còn có những biểu hiện giáo điều, kinh nghiệm chủ nghĩa;

năng lực tổ chức thực tiễn, tổng kết thực tiễn còn nhiều bất cập. Vì vậy, cần phải
có những giải pháp kịp thời để nâng cao trình độ TDLL cho cán bộ lãnh đạo, chỉ
đạo thực tiễn hiện nay. Kết quả nghiên cứu về thực trạng trình độ TDLL của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn có giá trị khoa học, cung cấp cả luận cứ
và luận chứng cho việc xem xét đánh giá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
một phạm vi, một lĩnh vực cụ thể của xã hội cũng như khi đánh giá thực trạng
nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ cán bộ, giảng viên trong quân đội hiện nay.
Một số bài báo khoa học tiêu biểu: Nguyễn Đức Bình "Nguyên nhân
của thực trạng tư duy", Tạp chí Cộng sản; Ngô Đình Xây "Vài nét thực trạng

15


tư duy lý luận hiện nay ở nước ta", Tạp chí Triết học [124]; Nguyễn Thế Kiệt
"Thực trạng tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước ta hiện
nay", Trong sách Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh [44],... Những bài viết đã
góp phần làm rõ thực trạng của việc đổi mới tư duy, TDLL và phương thức
lãnh đạo của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước;
đánh giá thực trạng tư duy, TDLL của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Nhà
nước; làm rõ nguyên nhân và tính tất yếu khách quan phải tiếp tục đổi mới
TDLL của Đảng và đội ngũ cán bộ các cấp hiện nay.
Luận án của tác giả Dương Minh Đức bàn về "Nâng cao năng lực tư
duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng
sông Hồng hiện nay" [33]. Từ cơ sở của lý luận nhận thức mácxít, nghiên cứu
đặc trưng của tư duy và các hoạt động của tư duy, tác giả làm rõ những yếu tố
ảnh hưởng tới năng lực TDLL. Nghiên cứu về một lớp đối tượng cụ thể, tác
giả đã làm nổi bật nét đặc thù trong hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay. Đồng thời chỉ rõ vai
trò cũng như sự biểu hiện ra về năng lực TDLL của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp tỉnh ở địa bàn mà họ phụ trách.

Từ lý luận và đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, tác giả đã đưa ra
những tiêu chí cơ bản để khảo sát, đánh giá năng lực TDLL của họ. Cụ thể là:
năng lực hiểu biết sâu sắc, đúng đắn bản chất chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách của Nhà nước; trên cơ sở đó vận dụng linh hoạt, sáng tạo
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước vào xây dựng các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; năng lực ra các
quyết định đúng đắn, kịp thời, chính xác để giải quyết những vấn đề thực tiễn
trên địa bàn; năng lực tập hợp quần chúng, cán bộ cấp dưới và tổ chức thực
hiện các quyết định ấy một cách có hiệu quả nhất; năng lực tổng kết việc thực
hiện các quyết định cũng như các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn. Đánh giá thực trạng những kết quả đã đạt được, hạn chế còn tồn tại

16


và chỉ rõ nguyên nhân của những kết quả đó, thấy được vấn đề đặt ra cần giải
quyết và những yêu cầu cụ thể đối với việc nâng cao năng lực TDLL đội ngũ
của cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để
tác giả xác định một số vấn đề có tính nguyên tắc và giải pháp chủ yếu để
nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng
đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện nay.
Thành công của luận án là cơ bản, đặc biệt là khi đánh giá thực trạng
năng lực TDLL của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng
bằng sông Hồng được biểu hiện thông qua những tiêu chí cụ thể. Tuy nhiên,
hệ tiêu chí này mới chỉ làm sáng tỏ những biểu hiện về năng lực TDLL của họ
trong hoạt động thực tiễn; còn những yếu tố làm cơ sở, điều kiện cho sự hình
thành năng lực TDLL của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng
sông Hồng như trình độ kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, phương pháp tư
duy khoa học,… của đối tượng này chưa được tác giả đề cập đến.
Trong quân đội có luận án "Phát triển bản lĩnh chính trị và tri thức

khoa học của giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn ở các trường sĩ quan
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Lương Thanh Hân [35]. Nghiên
cứu về vai trò của bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học của giảng viên trẻ
khoa học xã hội nhân văn ở các trường sĩ quan quân đội, tác giả cho rằng, sự
phát triển hài hòa hai phẩm chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết
định đến việc hoàn thiện năng lực sư phạm và nâng cao chất lượng giảng dạy,
NCKH của đội ngũ giảng viên trẻ trong các trường sĩ quan quân đội hiện nay.
Theo tác giả, phát triển bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học của giảng viên
trẻ khoa học xã hội và nhân văn là quá trình chuyển hóa không ngừng cả hai
mặt bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học từ chỗ trình độ của hai mặt này
chưa có sự gắn bó hòa quyện, hỗ trợ cho nhau đến sự hội tụ, thống nhất hài
hòa, tác động lẫn nhau, thúc đẩy làm cho bản lĩnh chính trị và tri thức khoa
học phát triển đồng bộ, bổ sung hỗ trợ cho nhau trong nhân cách sư phạm,

17


thỏa mãn yêu cầu giảng dạy, NCKH của giảng viên trẻ khoa học xã hội và
nhân văn ở các trường sĩ quan [35, tr. 50].
Qua khảo sát điều tra thực tế ở 11 trường sĩ quan trong quân đội, tác
giả đi đến nhận định: trình độ bản lĩnh chính trị của giảng viên trẻ khoa học
xã hội và nhân văn được đào tạo trong quân đội hơn hẳn so với giảng viên trẻ
được đào tạo ở các trường đại học ngoài quân đội. Điều đó phản ánh thực tế là
quá trình học tập, rèn luyện từ 4 đến 5 năm trong quân đội, với môi trường kỷ
luật nghiêm, kết hợp với công tác quản lý chặt chẽ về con người, tư tưởng và
các mối quan hệ là những điều kiện thuận lợi để học viên sư phạm rèn luyện
bản lĩnh chính trị của người giảng viên khoa học xã hội và nhân văn tương lai.
Nhưng xét về tiếp cận những tri thức hiện đại thì đội ngũ giảng viên trẻ khoa
học xã hội và nhân văn được đào tạo ở các trường đại học ngoài quân đội có
tính trội hơn. Thực trạng này cho thấy, với môi trường mở, gắn với đời sống

chính trị - xã hội sinh động cho phép sinh viên các trường đại học ngoài quân
đội có thể tiếp cận được những tri thức khoa học có tính cập nhật hơn để nâng
cao trình độ hiểu biết của mình. "Đây là những kênh thông tin cần thiết đối
với quá trình nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội nhân văn. Có vậy, mới
phù hợp với những yêu cầu mới của quá trình truyền thụ lý luận chính trị cho
người học là những sĩ quan cấp phân đội tương lai" [35, tr. 93]. Thực tế đó đặt
ra những thuận lợi và khó khăn khi nâng cao năng lực TDLL cho giảng viên
trẻ trong các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay phải tính đến đặc
điểm này để xây dựng kế hoạch khoa học, xác định nội dung, hình thức và
biện pháp bồi dưỡng sao cho phù hợp, mang lại hiệu quả.
Tác giả Trần Hậu Tân đã đi sâu nghiên cứu vấn đề "Kết hợp nâng cao
năng lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn của chính trị viên trong Quân đội
nhân dân Việt Nam" [93]. Luận án đã chỉ rõ, chính trị viên là những người chủ
trì về chính trị, đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị cấp phân đội; giữ
vai trò chủ chốt trong việc xây dựng phân đội vững mạnh về chính trị, góp phần

18


×