LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận án là
trung thực và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đỗ Ngọc Hanh
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Chương 1
1.1
1.2
Chương 2
2.1
2.2
Chương 3
3.1
3.2
3.3
THỰC CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TƯ
DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Thực chất phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị
viên Quân đội nhân dân Việt Nam
Đặc điểm phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị
viên Quân đội nhân dân Việt Nam
THỰC TRẠNG, NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ
VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN TƯ DUY
LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN QUÂN
ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
Thực trạng phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Những yếu tố tác động và vấn đề đặt ra đối với phát triển tư
duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN TƯ DUY
LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN QUÂN
ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng tư duy lý
luận của đội ngũ chính trị viên
Xây dựng môi trường văn hóa quân sự, tổ chức tốt các
hoạt động thực tiễn nhằm phát triển tư duy lý luận của đội
ngũ chính trị viên
Tích cực hóa vai trò nhân tố chủ quan của đội ngũ chính trị
viên trong tự học tập, tự rèn luyện, tu dưỡng nhằm phát
triển tư duy lý luận
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
5
9
28
28
51
68
68
90
111
111
125
142
152
154
155
169
5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài “Phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tác giả, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của tập thể các nhà khoa học, tư vấn
của các chuyên gia trong và ngoài quân đội.
Phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân
Việt Nam trong điều kiện hiện nay là một vấn đề lớn và khó. Để thực hiện đề
tài này, tác giả dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác cán bộ, về bản chất, vai trò của tư duy lý luận; dựa trên
kết quả điều tra, khảo sát thực tế ở một số đơn vị chủ lực; đồng thời, kế thừa
có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học trong và ngoài
nước có liên quan.
Nội dung của luận án thể hiện qua 3 chương. Chương thứ nhất, tác giả
trình bày thực chất và đặc điểm phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị
viên. Chương thứ hai, khảo sát, đánh giá thực trạng, phân tích, làm rõ những
yếu tố tác động và vấn đề đặt ra đối với việc phát triển tư duy lý luận của đội
ngũ này. Từ kết quả nghiên cứu của chương 1, chương 2; trong chương 3, tác
giả đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển tư duy lý luận của đội ngũ
chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Tư duy lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển phẩm
chất, nhân cách và quyết định hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người.
Khẳng định giá trị và ý nghĩa to lớn của tư duy lý luận, Ph.Ăngghen cho rằng:
“…Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể
không có tư duy lý luận” [1, tr. 489].
Nghị quyết số 769-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Xây
dựng đội ngũ cán bộ giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo” khẳng
6
định, để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, bên cạnh yêu cầu về
phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, mỗi cán bộ phải có trình độ tư
duy lý luận, phương pháp, tác phong công tác tốt, năng lực hoạt động thực
tiễn, tự lực, chủ động, sáng tạo và hiệu quả; có khả năng xử lý những vấn đề
phức tạp nảy sinh trong thực tiễn.
Đội ngũ chính trị viên là những người chủ trì về chính trị, trực tiếp tiến
hành công tác đảng, công tác chính trị ở phân đội; giữ vai trò chủ chốt trong
lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng phân đội vững mạnh về chính trị, góp phần
quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Nhiệm vụ đó đòi hỏi đội ngũ chính trị viên không những phải kiên định,
vững vàng, nhạy bén về chính trị, mà còn phải có tư duy lý luận khoa học, phát
hiện nhanh những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, đưa ra quyết định kịp thời,
chính xác, định hướng mọi hoạt động của đơn vị đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng quân đội, nhất là kết quả 10 năm thực
hiện Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị đã chỉ ra rằng, tư duy lý luận của đội
ngũ chính trị viên đã có bước phát triển, đội ngũ này ngày càng tiến bộ, trưởng
thành. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới thì tư duy lý luận của một bộ phận chính trị viên còn có
những hạn chế, bất cập, cần khắc phục. Đó là sự thiếu hụt về hệ thống tri thức
khoa học; sự vận dụng lý luận vào thực tiễn và ứng xử chưa hiệu quả trước
những tình huống phức tạp về chính trị, quân sự, chưa đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi
của người chủ trì về chính trị ở phân đội. Ở một số đơn vị, việc bồi dưỡng, phát
triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên chưa được coi trọng đúng mức.
Nhận thức, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, chỉ huy về sự cần
thiết phải phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên chưa đầy đủ, chưa
sâu sắc. Nội dung, hình thức, phương pháp, biện pháp phát triển tư duy lý luận
của đội ngũ chính trị viên chưa phù hợp; ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
7
lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động công tác đảng, công tác chính trị ở các đơn vị và
mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ hiện nay.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống
việc“Phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay”. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận, thực tiễn thiết thực,
vừa cấp bách vừa cơ bản, lâu dài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển tư duy lý luận của
đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam; trên cơ sở đó, đề xuất các
giải pháp cơ bản phát triển tư duy lý luận của họ, đáp ứng yêu cầu, chức trách,
nhiệm vụ được giao.
* Nhiệm vụ:
Làm rõ quan niệm và đặc điểm phát triển tư duy lý luận của đội ngũ
chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đánh giá thực trạng và luận giải một số vấn đề đặt ra cần giải quyết
trong phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển tư duy lý luận của đội ngũ
chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Quá trình phát triển tư duy lý luận của đội
ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển tư
duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam đang
công tác ở một số đơn vị chủ lực, trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng
chiến đấu ở khu vực phía Bắc; thời gian sử dụng tài liệu, tư liệu phục vụ công
tác nghiên cứu có liên quan đến luận án chủ yếu từ năm 2009 đến nay.
8
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác cán bộ, về vai trò của tư duy lý luận trong việc nâng
cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Luận án sử dụng các tài liệu, số liệu điều tra, khảo sát qua tổng hợp,
thống kê, báo cáo tổng kết hằng năm của một số cơ quan, đơn vị.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân
tích và tổng hợp, hệ thống và cấu trúc, lôgíc và lịch sử, phương pháp chuyên
gia, điều tra xã hội học…
6. Những đóng góp mới của luận án
Góp phần làm rõ quan niệm và đặc điểm phát triển tư duy lý luận của
đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp cơ bản phát triển tư duy lý luận của đội ngũ
chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học
cho việc phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy và học tập ở các học viện, nhà trường và các đơn vị trong toàn quân.
8. Kết cấu của đề tài luận án
Luận án gồm: Mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 3 chương (7
tiết), kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã công bố có liên
quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
9
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CHÍNH TRỊ VIÊN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Nhóm công trình nghiên cứu về tư duy lý luận và phát triển tư
duy lý luận của người cán bộ
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về tư duy lý luận
Trong công trình “Tư duy hoàn hảo và tự học cách tư duy” của
Edward De Bono [33], tác giả cho rằng, tư duy có vai trò đặc biệt quan trọng
và cần thiết, nhưng điều đó là chưa đủ. Chúng ta chú ý nhiều đến quá trình
tư duy, tuy nhiên lại ít chú ý đến nguồn gốc của các yếu tố cấu thành và nó
được lựa chọn như thế nào.
Tác giả cho rằng, các thành phần của quá trình tư duy được hình thành
từ nhận thức. Khi chúng ta quan sát thế giới thì phương pháp tư duy truyền
thống thường thiếu tính xây dựng, ít sáng tạo, chỉ miêu tả và phân tích. Để
tìm ra chân lý, việc suy đoán giữ một vai trò quan trọng trong tư duy.
Edward De Bono kết luận: phương pháp tư duy truyền thống mặc dù rất tốt
nhưng chưa đầy đủ. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng, phương pháp tư duy
truyền thống còn có giá trị và chỗ đứng nhất định. Do đó, để giúp con người
tự học cách tư duy và có một tư duy hoàn hảo, ông đi sâu nghiên cứu và đưa
ra năm phương pháp tư duy để mỗi người tự trả lời, giúp họ hoàn thiện
phương pháp tư duy: thứ nhất, tôi muốn đi đâu; thứ hai, bước thông tin; thứ
ba, các khả năng gì; thứ tư, kết quả là gì; thứ năm, thực hiện phương pháp.
Tác giả Lý Tiểu Quân và Vương Vĩnh Bình trong công trình “Tư duy
triết học về nghiên cứu lý luận quân sự” [97] khẳng định, trong lĩnh vực
quân sự, tư duy lý luận có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến tiến trình và
kết cục của chiến tranh. Theo đó, nắm vững lý luận là một trong những
nguyên tắc cần chú trọng của những người chỉ đạo chiến tranh. Trong thực
tế, tư duy lý luận quân sự không ngừng phát triển, vì khoa học quân sự phát
triển không ngừng. Các nhà nghiên cứu cho rằng, trong hệ thống tri thức
10
khoa học quân sự, triết học, đặc biệt là triết học mácxít - phương pháp luận
duy vật biện chứng có ý nghĩa rất quan trọng.
Theo các tác giả, nghiên cứu lý luận quân sự là một trong những lĩnh
vực rất phức tạp, nếu nghiên cứu chỉ giới hạn ở tư duy lôgíc trạng thái tĩnh thì
hoàn toàn không đủ mà cần phải hướng vào những nội dung cụ thể đang vận
động, thay đổi của chiến tranh. Trong nghiên cứu đòi hỏi phải nắm vững quá
trình, quy trình triển khai công trình, từ đó khẳng định lập trường, quan điểm
và phương pháp quan sát, phân tích vấn đề quân sự của tiền nhân và lấy đó
làm cơ sở để nâng cao chất lượng nghiên cứu của mình. Do đó, cần kết hợp sự
phát triển cách mạng quân sự thế giới với thực tiễn xây dựng quân đội, tạo ra
lý luận mới phù hợp với thực tiễn, yêu cầu đó đòi hỏi phải có phương pháp
nghiên cứu khoa học. Vì phương pháp khoa học là công cụ và phương tiện
của tư duy lý luận. Các tác giả khẳng định, lối thoát có tính khoa học và đem
lại hiệu quả trong nghiên cứu lý luận quân sự là phải nhằm thẳng vào sự
khác nhau của đối tượng nghiên cứu và mục đích nhận thức, sử dụng tổng
hợp các phương pháp khoa học, bao gồm phương pháp triết học mácxít, kết
hợp cả vĩ mô với cụ thể, định tính với định lượng, kết hợp sự phát triển của
lý luận quân sự với sự vận động, biến hoá của chiến tranh; từ đó chỉ đạo
chiến tranh một cách khoa học.
Nghiên cứu về tư duy lý luận trong công trình “Tư duy lý luận của
Đảng ta về đổi mới công tác giáo dục quốc phòng trong tình hình hiện nay”
[16], tác giả Nguyễn Bá Dương cho rằng: Sự phát triển tư duy lý luận về quốc
phòng của dân tộc ta dựa chắc trên nền tảng lý luận - thực tiễn và là kết quả
đúc kết kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh giữ nước. Đồng thời, tác giả
quan niệm, “chính sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, dựng nước và giữ
nước đã nâng tầm tư duy lý luận của dân tộc ta, hình thành và phát triển tư
duy lý luận về quốc phòng, quân sự, bảo vệ Tổ quốc để định hướng chính trị,
quân sự” [16, tr. 23]. Thông qua nhiều lần tổng kết lịch sử xây dựng, củng cố
11
quốc phòng, đấu tranh dựng nước và giữ nước đã giúp cha ông ta đúc kết,
khái quát thành những quan niệm, khái niệm, phạm trù tư duy lý luận và chắt
lọc, thu nhận cái tiến bộ, hạt nhân tinh túy từ di sản lý luận của nhân loại
nhằm phát triển tư duy lý luận quân sự Việt Nam.
Theo tác giả Nguyễn Bá Dương, tư duy dựa vào dân, đoàn kết toàn dân,
đoàn kết nội bộ giai cấp thống trị để tạo ra sức mạnh tổng hợp chống quân xâm
lược, cứu nước, cứu nhà đã trở thành vấn đề trung tâm trong suy nghĩ của mọi
người dân, mọi thời đại... Từ đó, tác giả kết luận: “Tư duy lý luận quân sự, quốc
phòng của dân tộc ta phát triển và đã trả lời được các vấn đề cấp bách do thời
cuộc đặt ra, những đòi hỏi thường xuyên của đất nước là bảo vệ độc lập dân tộc,
chủ quyền đất nước, bảo vệ nòi giống và Tổ quốc Việt Nam” [16, tr. 24].
Quan niệm về tư duy lý luận, trong công trình “Phát triển năng lực tư
duy lý luận của chính uỷ trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay”, tác giả Nguyễn Văn Dũng cho rằng: “Tư duy lý luận là tư duy ở cấp độ
cao, dựa trên các phương tiện là khái niệm, phạm trù, quy luật, hướng tới phân
tích, tổng hợp, khái quát để tìm ra bản chất, quy luật của hiện thực khách quan;
từ đó định hướng, hướng dẫn hoạt động thực tiễn của con người ngày càng có
kết quả cao hơn” [13, tr. 23]. Tư duy lý luận được bàn luận ở đây là tư duy biện
chứng duy vật, có tính khái quát và trừu tượng cao, tư duy bằng khái niệm,
phạm trù, quy luật; là công cụ nhận thức sắc bén, giúp con người nhận thức
đúng bản chất sự vật, hiện tượng và hoạt động thực tiễn đạt chất lượng, hiệu
quả cao. Tác giả cho rằng, tư duy lý luận có hai mặt: nội dung tư duy và
phương pháp tư duy gắn chặt với nhau. Nội dung tư duy bao gồm hệ thống tri
thức tồn tại dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật về những đối tượng xác
định. Phương pháp tư duy là cách thức vận hành hay lôgíc của các khái niệm
đó. Sức sống bền vững của tư duy lý luận không chỉ ở chỗ xác lập những khái
niệm, quan điểm mới mà trước hết và chủ yếu là ở sự chuyển biến của phương
pháp tư duy, từ chỗ chưa khoa học đến khoa học. Theo đó, phương pháp tư duy
trở thành một bộ phận, một yếu tố không thể thiếu của tư duy lý luận.
12
Tác giả Nguyễn Đình Trãi cho rằng: “Tư duy lý luận là quá trình phản
ánh hiện thực một cách gián tiếp mà ở đó chủ thể tư duy sử dụng ngôn ngữ và
các hình thức tư duy để phân tích, tổng hợp, khái quát các tài liệu cảm tính
nhằm phản ánh các thuộc tính, các mối liên hệ có tính bản chất, quy luật của
các sự vật, hiện tượng” [124, tr. 23]. Về thực chất, tác giả luận giải, tư duy lý
luận là hoạt động trí tuệ của con người theo các quy luật của nhận thức để
nắm được những thuộc tính và mối liên hệ cơ bản của sự vật, hiện tượng,
ngày càng hiểu sâu hơn bản chất của sự vật, hiện tượng, thấy được những
mâu thuẫn và chiều hướng phát triển khách quan của chúng. Do vậy, tư duy lý
luận là trình độ phát triển cao của năng lực tư duy con người.
Theo tác giả, tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản là: tư duy lôgíc
khoa học và sáng tạo; tư duy về phương pháp và phương pháp luận; có hai
mặt gắn liền với nhau là nội dung tư duy và phương pháp tư duy; gắn liền với
khả năng phê phán và tự phê phán…Với tư cách là một công cụ nhận thức
khoa học, tư duy lý luận có khả năng khám phá, tìm ra bản chất sự vật, hiện
tượng, quá trình của thế giới khách quan; nó có thể vạch ra tính quy luật còn
ẩn giấu đằng sau các sự vật, hiện tượng để nắm bắt và vận dụng theo nhu cầu
của con người. Tác giả kết luận: “Thực tế chứng tỏ rằng, tư duy lý luận ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các khoa học cũng như
thực tiễn xã hội” [124, tr. 25].
Nghiên cứu tư duy lý luận, tác giả Nguyễn Đức Quyền quan niệm:
“Tư duy lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng hệ thống khái niệm,
phạm trù, quy luật; vì thế, nó đem lại những hiểu biết sâu sắc về bản chất,
những quy luật vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng khách quan”
[102, tr. 22]. Tư duy lý luận xét về bản chất, là quá trình sáng tạo lại hiện
thực khách quan dưới dạng tinh thần, theo con đường trừu tượng hóa, khái
quát hóa, đi sâu vào nhận thức những mối quan hệ nội tại, bản chất, quy luật
của sự vật, hiện tượng. Theo tác giả, tư duy lý luận có khả năng dự báo khoa
học về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, tư duy
13
lý luận đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của khoa học cũng như
trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Theo tác giả, tư duy lý luận có sự khác biệt với tư duy kinh nghiệm.
Tư duy kinh nghiệm hướng vào mô tả các yếu tố, mối liên hệ bên ngoài, còn
tư duy lý luận hướng vào phân tích, tổng hợp, khái quát, tìm ra mối liên hệ
bên trong, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Đỉnh cao
của tư duy lý luận là tư duy biện chứng duy vật; trong đó, phương pháp tư
duy biện chứng duy vật như là điều kiện không thể thiếu để hình thành tư
duy lý luận. Ở đó, chủ thể tư duy lý luận sử dụng nó như một phương pháp
để phát hiện mâu thuẫn và những tình huống cần giải quyết. Phương pháp
này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tổng kết thực tiễn, khái quát kinh
nghiệm thành lý luận mới.
Tiếp cận năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận, tác giả
Trần Văn Phòng cho rằng, năng lực tư duy lý luận là tổng hợp những phẩm
chất trí tuệ - (chẳng hạn như sự thông minh, khả năng suy luận, phán đoán,
phân tích, năng khiếu nhạy cảm, v.v.) - của con người nhằm đáp ứng yêu cầu
nhận thức đúng đắn bản chất thế giới tự nhiên, xã hội, con người, bảo đảm
cho hoạt động thực tiễn và hoạt động sáng tạo của con người phù hợp với
quy luật, đạt hiệu quả [92]. Theo tác giả, năng lực tư duy lý luận là tổng hợp
các phẩm chất trí tuệ để thoả mãn nhu cầu nhận thức thế giới, xã hội, con
người của chủ thể. Sự nhận thức đó đem lại hiệu quả trong hoạt động thực
tiễn, nhờ sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật nhận thức.
Tác giả Bùi Thanh Quất cho rằng: “tư duy lý luận là hệ tri thức - hệ tri
thức này gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt lôgíc, tạo thành quan niệm hoàn
chỉnh phản ánh bản chất, các quy luật hoạt động và phát triển của khách thể
nghiên cứu đang hoạt động sản sinh ra tri thức mới, có khả năng chỉ đạo
hoạt động thực tiễn” [98, tr. 47]. Theo tác giả, tư duy lý luận có những đặc
trưng cơ bản: thứ nhất là tính khoa học; thứ hai tính sáng tạo; thứ ba biết
14
sử dụng tự giác bộ công cụ của lý tính, như khái niệm, phạm trù, phán
đoán, suy lý, các lý thuyết khoa học và vận hành dưới dạng các phương
pháp, biện pháp cụ thể dựa trên các căn cứ khoa học; thứ tư gắn liền với
thực tiễn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Tác giả kết luận: Người có tư duy lý luận khoa học là người có ý thức
rèn luyện thường xuyên những phương pháp tư duy khoa học, có tính độc
lập, sáng tạo trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên là cơ sở lý luận quan trọng
để tác giả luận án kế thừa, tiếp thu; trên cơ sở đó đưa ra quan niệm về tư duy
lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam theo cách
tiếp cận và luận giải của mình.
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phát triển tư duy lý luận của
người cán bộ
Nghiên cứu về tầm quan trọng của phát triển tư duy lý luận đối với
người cán bộ trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, tác giả Phạm Văn Nhuận
phân tích: “Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới, phát
triển tư duy lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đổi mới, phát triển tư duy lý luận là mệnh lệnh của cuộc sống” [84].
Để phát triển tư duy lý luận, tác giả cho rằng: Đổi mới tư duy, tăng
cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ những vấn đề mới
nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường
lối và chủ trương, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; kịp thời khắc phục mặt
lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận. Sự phát triển của tư duy lý
luận không tách rời cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, phản động, xuyên
tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của
Đảng; đồng thời, chống mọi biểu hiện giáo điều, máy móc, ngại thay đổi,
không dám chịu trách nhiệm, thiếu dũng khí trong luận chiến, làm triệt tiêu
động lực trong nghiên cứu, phát triển tư duy lý luận khoa học. Nghiên cứu làm
15
rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn và đề xuất các giải pháp đấu tranh, góp phần
làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam của các thế
lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Chủ động xây dựng
đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận có đủ phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị
vững vàng, được đào tạo cơ bản, có tài năng, tâm huyết với nghề nghiệp, có
vốn sống phong phú, đủ năng lực nghiên cứu, tham mưu, tư vấn, tham gia
tổng kết thực tiễn, phát triển tư duy lý luận, kịp thời giải đáp những vấn đề lý
luận, thực tiễn mà cuộc sống đặt ra trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay.
Trong bài viết, “Muốn phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận cần đánh
giá đúng tinh hoa tinh thần của các thời đại trước” [110], tác giả Đinh Ngọc
Thạch đã phân tích đặc điểm tư duy, lối sống của con người Việt Nam. Tác
giả nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử, thời đại tư tưởng của Ph.Ăngghen và cho
rằng, tư duy lý luận chỉ là một đặc điểm bẩm sinh dưới dạng năng lực người
mà có. Năng lực ấy cần được phát triển, hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó
thì cho đến nay, không có cách nào khác là nghiên cứu toàn bộ triết học thời
trước. Tác giả còn chỉ rõ, tư tưởng Hồ Chí Minh là điển hình về học tập, kế
thừa tinh hoa di sản tư tưởng văn hóa nhân loại mà các thế hệ người Việt
Nam cần trân trọng và phát huy: 1. Chúa Giê-su: Đạo đức là bác ái; 2. Phật
Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi; 3. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa.
Tiếp cận tư duy lý luận từ thực tiễn công tác của đội ngũ cán bộ nghiên
cứu ở Học viện Chính trị, các tác giả của công trình “Tích cực hóa tư duy khoa
học của đội ngũ cán bộ nghiên cứu ở Học viện Chính trị hiện nay” [142], cho
rằng: Tư duy khoa học của đội ngũ cán bộ nghiên cứu ở Học viện Chính trị là
loại hình tư duy lý luận, phản ánh có hệ thống tri thức khoa học xã hội và nhân
văn quân sự, phục vụ cho hoạt động giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học,
góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, xây dựng Học viện ngang
16
tầm nhiệm vụ. Tích cực hóa tư duy khoa học là tổng thể các hoạt động tự giác,
chủ động, sáng tạo của các chủ thể liên quan tới quá trình nhận thức lý tính, tư
duy khoa học có định hướng, mục đích rõ ràng, chương trình, kế hoạch, tổ chức
chặt chẽ, khơi dậy những tiềm năng, phẩm chất, năng lực, tạo ra những bước
chuyển biến căn bản về nội dung tri thức và phương pháp tư duy khoa học của
người nghiên cứu nhằm đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Có thể nói, điểm tương đồng của các công trình trên đây là các tác giả đã
phân tích, luận giải, đánh giá một cách đúng đắn về vị trí, vai trò của tư duy lý
luận đối với sự phát triển của đất nước, xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn
dân. Hiện nay, thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang
có những chuyển biến mạnh mẽ với những yêu cầu, nội dung mới thì vai trò của
việc phát triển tư duy lý luận, trong đó có phát triển tư duy lý luận của đội ngũ
chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng.
2. Nhóm công trình nghiên cứu về đội ngũ chính trị viên và phát triển tư
duy lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về đội ngũ chính trị viên
Nghiên cứu về phẩm chất, năng lực, vị trí, vai trò của chính trị viên, tác
giả Phạm Đình Nhịn quan niệm: “Chính trị viên phải có phẩm chất và năng
lực toàn diện, cả đức và tài, nhưng trước hết phải có phẩm chất tinh thần, đạo
đức của người đảng viên cộng sản ưu tú, đặc biệt là sự kiên định, lòng trung
thành, ý chí, trách nhiệm và năng lực hiểu thấu đáo công việc, năng lực thực
hiện nhiệm vụ với hiệu suất, chất lượng cao” [83, tr. 44]. Người chính trị viên
phải có “đức”, có “tài” mới hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được phân công.
Do đó, chính trị viên cần chủ động, tích cực học tập, rèn luyện để có kiến
thức, tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng hoạt động vững vàng, bảo đảm chất
lượng, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ. Chính trị viên giữ vững vai trò lãnh
đạo không phải bằng uy quyền, mà bằng uy tín, sự thuyết phục, kinh nghiệm
phong phú, kiến thức về nhiều mặt và bằng tài năng của mình. Theo đó, chính
17
trị viên vừa phải có tư duy lý luận phát triển vừa phải có khả năng tổ chức
hoạt động thực tiễn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tác giả luận giải:
“chính trị viên phải tích cực học tập một cách toàn diện cả chính trị, quân sự,
văn hoá, khoa học kỹ thuật…, phải rèn luyện cả ý chí quyết tâm, bản lĩnh
chiến đấu, cả thể lực, sức khoẻ và các phẩm chất tâm lý cần thiết; phải học
tập, rèn luyện ở mọi lúc, mọi nơi, học trong sách vở, trong thực tiễn và học ở
quần chúng, học lẫn nhau để không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ, thực sự xứng đáng là “linh hồn”, là “đại biểu của Đảng”
trong đơn vị” [83, tr. 46].
Khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ quan trọng của chính ủy, chính trị
viên, tác giả Phan Trọng Hào viết: “Chính ủy, chính trị viên là những đảng
viên, cán bộ được Đảng, Nhà nước và Quân đội lực chọn, đào tạo, bồi dưỡng,
để đảm nhiệm nhiệm vụ chủ trì về chính trị và trực tiếp tổ chức thực hiện hoạt
động công tác đảng, công tác chính trị trong các đơn vị quân đội. Do chức
năng, nhiệm vụ của chính ủy, chính trị viên nên phong cách làm việc của họ
là phong cách công tác của cán bộ lãnh đạo, người chủ trì về chính trị trong
các đơn vị quân đội” [36, tr. 42]. Theo tác giả, phong cách làm việc của chính
ủy, chính trị viên trong quân đội được hình thành, trau dồi, rèn luyện suốt
mấy chục năm qua đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực công
tác đảng, công tác chính trị, hoàn thành nhiệm vụ phát huy nhân tố con người
trong từng đơn vị.
Tác giả Phùng Văn Thiết quan niệm: “Tư cách của chính trị viên có tầm
quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến bộ đội, bởi lẽ chính trị viên trước hết và
vô luận trong mọi giai đoạn lịch sử đều phải làm tròn trọng trách của người chủ
trì về công tác tuyên truyền, chủ trì về công tác đảng, công tác chính trị. Nói
cách khác, họ là người chủ trì về việc chuẩn bị lăng kính chính trị cho người
cầm súng, trang bị nhãn quan chính trị cho hoạt động quân sự” [114, tr. 75].
Tác giả luận giải, tư cách của người chính trị viên có ảnh hưởng rất
quan trọng đến bộ đội, nhưng nó không phải là sản phẩm tự nhiên của cơ chế
18
và càng không phải là giá trị vốn có của người chính trị viên. Trái lại, tư cách
của người chính trị viên chỉ được thể hiện, được hiện thực hóa bởi hoạt động
thực tiễn, được quyết định chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của họ. Mặt khác,
cùng với sự lớn mạnh của quân đội, đội ngũ chính trị viên cũng có sự phát
triển tương ứng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Tác giả cho rằng, nhiệm
vụ của người chính trị viên cũng là trọng trách của người chỉ huy. Tuy nhiên,
điều đó không phải lúc nào cũng được nhận thức và thực hiện một cách đầy
đủ, ngay cả khi thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn liền với chế độ chính
ủy, chính trị viên hiện nay.
Nghiên cứu vị trí, vai trò của chính trị viên, tác giả Nguyễn Minh Khải
quan niệm: Chính trị viên là người chủ trì về chính trị, chịu trách nhiệm về toàn
bộ hoạt động của đơn vị và trên tất cả các mặt công tác. Đối với bộ đội, chính trị
viên là người lãnh đạo, chỉ huy; là người anh, người chị và người bạn thân thiết.
Đối với nhân dân, chính trị viên phải làm tốt công tác dân vận, làm cho dân tin,
dân yêu bộ đội, giúp đỡ bộ đội, chấp hành đúng đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; giáo dục bộ đội chấp hành tốt
công tác dân vận, chăm lo xây dựng mối đoàn kết quân dân. Đối với quân địch,
chính trị viên phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, đấu tranh làm họ
thức tỉnh, hiểu rõ lẽ phải và chính nghĩa; trên cơ sở đó, làm tan rã hàng ngũ
địch. Tác giả cho rằng: “Chính trị viên là đại biểu của Đảng bên cạnh người chỉ
huy, phải làm tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, đồng thời, tôn trọng, giúp đỡ
người chỉ huy hoàn thành nhiệm vụ theo sự phân công của tổ chức và quy định
về chế độ công tác. Người chính trị viên phải là tấm gương mẫu mực, trong
sáng, thật sự tiêu biểu của người cán bộ Đảng trong quân đội” [50, tr. 55].
Trong công trình “Bồi dưỡng nhân cách chính trị viên cho đội ngũ
cán bộ chính trị cấp phân đội hiện nay” [138], các tác giả khẳng định: Vai
trò của chính trị viên được thể hiện ở các mặt cơ bản, trực tiếp chỉ đạo xây
dựng chi bộ, cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao sức
19
mạnh chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, góp phần củng cố, tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, góp phần
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp,
sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Các tác giả còn chỉ rõ: Khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ và thể hiện
vai trò của mình, chính trị viên cần có những phẩm chất, nhân cách của người
quân nhân cách mạng nói chung và những phẩm chất đặc trưng khẳng định
phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác của
người chính trị viên nói riêng. Do vậy, chính trị viên cần có những kiến thức,
kinh nghiệm tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, cũng như uy tín để
quy tụ, tập hợp cán bộ, chiến sĩ, tăng cường sức mạnh lãnh đạo cấp ủy đảng
và sức mạnh chiến đấu của toàn đơn vị.
Phân tích vị thế, vai trò của chính trị viên, các tác giả của công trình “Vị
thế của đội ngũ chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”
luận giải: “Cán bộ chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung và
chính trị viên nói riêng có vị trí, vai trò quan trọng trong việc tăng cường, giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân
Việt Nam; trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị; trong việc thực
hiện và nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị - nguyên tắc trong
xây dựng quân đội kiểu mới. Chính vị trí, vai trò của chính trị viên đã xác lập
trên nguyên tắc vị thế của họ trong quân đội, trong xã hội” [140].
Từ đó, các tác giả kết luận: Trong thời kỳ mới, trước tác động của những
biến đổi kinh tế - xã hội, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, yêu cầu xây dựng và nhiệm vụ của quân đội, đòi hỏi đội
ngũ cán bộ chính trị nói chung, chính trị viên nói riêng phải ra sức tu dưỡng,
rèn luyện về phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác để tiếp tục
khẳng định, phát huy vị thế của mình trong đơn vị, trong quân đội và trong toàn
xã hội. Đây là một yếu tố bảo đảm cho việc thực hiện chế độ một người chỉ huy
20
gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên được thiết lập trên thực tế vững chắc,
vận hành nhuần nhuyễn, hiệu quả.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phát triển tư duy lý luận của đội
ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam
Nghiên cứu vấn đề phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chính
ủy, chính trị viên, trong bài viết “Phát triển tư duy lý luận của học viên đào
tạo chính ủy, chính trị viên”, tác giả Lê Hồng Quang quan niệm: “Tư duy lý
luận của người chính ủy, chính trị viên là tư duy khoa học, giúp họ thực hiện
vai trò chủ trì về chính trị; luôn có khả năng thâm nhập sâu vào bản chất các
sự kiện, vận dụng đường lối, quan điểm, nguyên tắc của Đảng, chỉ đạo hoạt
động thực tiễn cụ thể, tạo chuyển biến mạnh mẽ tiềm lực chính trị - tinh thần
của đơn vị, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đáp ứng nhu cầu thực tiễn,
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ” [94, tr. 58]. Phương hướng bồi dưỡng, rèn
luyện cán bộ chính trị là không ngừng phát triển tư duy lý luận, giúp họ nắm
vững và vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước một cách sáng tạo, giải quyết khoa học, hiệu quả mọi
vấn đề bảo đảm cho quân đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Tác giả kết luận: Người chính ủy, chính trị viên cần phát triển tư duy lý
luận sắc sảo để thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng; cùng tổ chức đảng, cấp
ủy, người chỉ huy chỉ đạo mọi mặt hoạt động của đơn vị “đi đúng con đường
chínhh trị” của Đảng, đạt chất lượng, hiệu quả cao, không chệch hướng, sai lầm.
Hơn lúc nào hết, người chính ủy, chính trị viên phải chủ động, sáng tạo, giỏi vận
dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối của Đảng để nhận thức và giải quyết đúng đắn, kịp thời những
vấn đề thực tiễn đặt ra trong điều kiện lịch sử mới.
Trong công trình “Nâng cao chất lượng đào tạo chính ủy, chính trị viên
đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới”, tác giả Lê
21
Minh Vụ luận giải: “Với tư cách là người chủ trì công tác đảng, công tác chính
trị ở đơn vị, chính ủy, chính trị viên có vai trò tiền phong trong cuộc đấu tranh
giai cấp trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa; chủ động phòng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn kịp thời những âm mưu, thủ đoạn phá hoại “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch và những biểu hiện sai lệch về lập trường, tư
tưởng, đạo đức, lối sống của các quân nhân trong đơn vị” [143, tr. 10].
Tác giả khẳng định, trước hết chính ủy, chính trị viên phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, được hình thành trên nền tảng tri thức khoa học, trên lập
trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn hoạt động quân sự. Muốn vậy,
chính ủy, chính trị viên cần có tư duy lý luận sắc bén. Đó là kết quả hội tụ của
tri thức khoa học mà nòng cốt là các môn khoa học lý luận chính trị với sự trải
nghiệm thực tiễn hoạt động chính trị, quân sự của mỗi chính ủy, chính trị
viên. Theo đó, để thực hiện tốt vai trò chủ trì về chính trị, trực tiếp lãnh đạo,
chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị trong tình hình hiện nay, chính ủy,
chính trị viên phải có năng lực toàn diện, trong đó, năng lực tư duy lý luận,
năng lực thực hành công tác đảng, công tác chính trị, năng lực sư phạm quân
sự giữ vai trò quan trọng. Những phẩm chất này giúp người chính ủy, chính trị
viên nắm bắt và phân tích chính xác tình hình trong nước và quốc tế, biết vận
dụng vào xem xét, giải quyết các vấn đề thực tiễn công tác đảng, công tác
chính trị của quân đội theo chức trách, nhiệm vụ được giao.
Nghiên cứu vấn đề kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng
lực thực tiễn của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam, tác giả
Trần Hậu Tân quan niệm: “Chính trị viên vừa là người cán bộ quân đội, vừa
là nhà tâm lý, nhà giáo dục, đồng thời là người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cấp
phân đội. Trách nhiệm trước hết đối với chính trị viên là giữ vững định hướng
về chính trị của đơn vị trên tất cả các nhiệm vụ, các hoạt động, các lĩnh vực, cả
tổ chức và con người, đảm bảo cho đơn vị thực hiện đúng đường lối chính trị,
22
đường lối quân sự của Đảng” [109, tr. 27]. Theo tác giả, chính trị viên là người
chịu trách nhiệm chủ yếu đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đơn
vị, giương cao ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng
trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện; làm cho chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần ở
mỗi quân nhân, giữ vững trận địa chính trị - tư tưởng của đơn vị, giáo dục cán
bộ, chiến sĩ chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội. Chính trị viên là người tổ chức triển khai,
thực hiện thắng lợi mọi chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và nghị quyết của cấp
mình; giữ vai trò trung tâm trong tập hợp, đoàn kết cán bộ, chiến sĩ; quan tâm
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền...
Chính trị viên không những là người trực tiếp tham gia các hoạt động diễn ra ở
đơn vị mà còn là người vận dụng sáng tạo đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh của quân đội vào xây dựng, tổ
chức, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Từ những phân tích trên, tác giả công trình khẳng định: chức trách,
nhiệm vụ của chính trị viên đòi hỏi họ không những phải kiên định vững vàng,
nhạy bén về chính trị, mà còn phải có năng lực quán triệt quan điểm, đường lối
của Đảng, tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết, chỉ thị của cấp trên phù hợp
với điều kiện cụ thể của đơn vị mình. Vì vậy, cần kết hợp nâng cao năng lực tư
duy lý luận với năng lực thực tiễn của chính trị viên để họ hoàn thành tốt nhiệm
vụ, chức trách, vai trò người chủ trì về chính trị ở đơn vị cơ sở.
Công trình “Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị phân đội theo
tư tưởng Hồ Chí Minh”, tác giả Nguyễn Quang Phát [90] trình bày hệ thống
quan điểm Hồ Chí Minh về chất lượng cán bộ chính trị phân đội, làm rõ khái
niệm chất lượng cán bộ chính trị phân đội và mô hình người cán bộ này theo tư
tưởng của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đội ngũ chính trị viên
đã được tác giả đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau, “trong đó vai trò nổi bật
23
và xuyên suốt là giữ vững phương hướng chính trị của Đảng, làm cho các phân
đội vũ trang “đi đúng con đường chính trị, tự giác tuân theo kỷ luật của cách
mạng” [90, tr. 22]. Vì vậy, chính trị viên cần có phẩm chất đạo đức, năng lực lý
luận cũng như năng lực thực tiễn tương xứng để hoàn thành tốt chức trách,
nhiệm vụ được giao. Tác giả đã phân tích và rút ra những điểm cơ bản về hình
mẫu người chính trị viên của Quân đội nhân dân Việt Nam là: tiêu biểu về đạo
đức cách mạng; có năng lực toàn diện, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy mọi
mặt ở đơn vị cơ sở; mẫu mực về phong cách, tác phong công tác, lời nói đi
đôi với việc làm. Trên cơ sở đó, công trình đã chỉ ra sự cần thiết phải làm tốt
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị phân đội, để họ vừa có
phẩm chất tốt vừa có năng lực tốt.
Trong công trình “Nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ chính
uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [99], tập thể
tác giả đã phân tích, chỉ ra những phẩm chất, năng lực cần có của chính uỷ,
chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Yêu cầu về phẩm chất
chính trị của chính uỷ, chính trị viên là có nhận thức chính trị cao, có lập
trường tư tưởng kiên định, bản lĩnh chính trị vững vàng, có trách nhiệm chính
trị cao trước nhiệm vụ, trước đơn vị, có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, gương
mẫu, thống nhất trong lời nói và việc làm. Về phẩm chất đạo đức, chính uỷ,
chính trị viên phải là người trung thực, khiêm tốn, giản dị, liêm khiết, lối sống
trung thực, trong sáng, đoàn kết, yêu thương con người, sống bao dung và độ
lượng.
Yêu cầu về năng lực, chính uỷ, chính trị viên phải là người có trình độ lý
luận, có kiến thức chuyên sâu về xây dựng đảng, công tác đảng, công tác chính
trị và có kiến thức quân sự vững chắc, có năng lực lãnh đạo, chỉ đạo đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ, biết chỉ huy đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, có
năng lực quản lý và có kiến thức toàn diện, ngang tầm chức trách là người chủ
24
trì về chính trị ở đơn vị. Yêu cầu về phương pháp, tác phong công tác, chính
uỷ, chính trị viên là người có phương pháp, tác phong công tác của người lãnh
đạo, chủ động, sáng tạo, quyết đoán, mạnh dạn đổi mới, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm, phong cách làm việc dân chủ, biết phát huy trí tuệ,
trách nhiệm của mọi người.
Trong công trình “Biện chứng của quá trình phát triển nhân cách người
sĩ quan chính trị cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”
[117], tác giả Đào Huy Tín khẳng định: Tiến hành công tác đảng, công tác
chính trị trong các nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu,
người sĩ quan chính trị cấp phân đội phải nắm vững những đặc điểm của các
nhiệm vụ. Đó là thực tiễn sinh động trong hoạt động quân sự, buộc con người
tập trung, phát huy cao độ sinh lực, từ khả năng, trình độ nhận thức, quan điểm
tư tưởng, tình cảm, ý chí quyết tâm đến trí thông minh sáng tạo, tri thức toàn
diện; từ kinh nghiệm sống, chiến đấu đến việc rèn luyện thể lực thích nghi với
sự khắc nghiệt của chiến tranh. Họ phải sử dụng tốt nhất các điều kiện, phương
tiện sẵn có, tổ chức mọi mặt công tác đảng, công tác chính trị, giáo dục cán bộ,
chiến sĩ có được những phẩm chất, nhân cách phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ
của đơn vị. Thông qua đó, người sĩ quan chính trị cấp phân đội không ngừng
phát triển các yếu tố cấu thành nhân cách, trong đó có tư duy lý luận.
Tác giả kết luận: Để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị cần
phải tăng cường công tác đảng, công tác chính trị mà nội dung then chốt là
bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ sĩ quan nói chung, sĩ quan chính trị nói riêng;
trong đó, cần quan tâm đúng mức đội ngũ sĩ quan chính trị cấp phân đội. Bởi
lẽ, họ có trách nhiệm trực tiếp xây dựng phân đội vững mạnh toàn diện, trực
tiếp lãnh đạo, chỉ đạo việc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, bảo vệ,
củng cố và phát triển những giá trị truyền thống của dân tộc, của quân đội;
25
xây dựng và phát triển những phẩm chất, nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” cho cán
bộ, chiến sĩ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Những nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu nêu trên là cơ sở
quan trọng để tác giả luận án tiếp thu, kế thừa và làm sâu sắc thêm đặc điểm,
vai trò phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên hiện nay.
3. Khái quát kết quả nghiên cứu của công trình khoa học đã công
bố và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của công trình khoa học đã
công bố
Một là, các tác giả đã đề cập, phân tích và luận giải quan niệm về tư
duy lý luận, phát triển tư duy lý luận của người cán bộ theo những góc độ tiếp
cận và các phương pháp nghiên cứu khác nhau; song cơ bản thống nhất,
khẳng định vai trò, tầm quan trọng của việc phát triển tư duy lý luận đối với
người cán bộ. Đặc biệt, có một số công trình đã khái quát các khái niệm “tư
duy lý luận của Đảng ta”, “tư duy lý luận của cán bộ, đảng viên”, “tư duy lý
luận của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam”...
Hai là, các công trình đã phân tích và luận giải vai trò tư duy lý luận
đối với sự phát triển phẩm chất, nhân cách, quyết định hiệu quả hoạt động
thực tiễn của con người. Trong đó, phần lớn các tác giả đã xem xét tư duy lý
luận như là điều kiện “cần và đủ” của người cán bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo
hoạt động thực tiễn quân sự. Do vậy, phát triển tư duy lý luận là việc làm
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Ba là, các tác giả đã luận giải khá sâu sắc cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ, sĩ quan. Đồng thời, chỉ ra
những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức của việc phát triển tư duy
lý luận của đội ngũ cán bộ, sĩ quan hiện nay. Theo đó, những khó khăn,
thách thức mà việc phát triển tư duy lý luận của đội ngũ này gặp phải có
nguyên nhân khách quan và chủ quan... Trong đó có nguyên nhân xem nhẹ,
26
đơn giản hóa vai trò của việc phát triển tư duy lý luận ở một số cán bộ, đảng
viên hiện nay.
Bốn là, những công trình nghiên cứu nêu trên đã khái quát, luận giải,
làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ của chính trị viên trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Các tác giả đã khẳng định một cách nhất quán rằng, đội ngũ
chính trị viên là một bộ phận ưu tú của đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân
Việt Nam, là “sức mạnh tinh thần”, “linh hồn” của đơn vị; giữ vai trò đặc biệt
quan trọng và có những đóng góp xứng đáng trong quá trình xây dựng, chiến
đấu và trưởng thành của Quân đội ta, thắng lợi của sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Không chỉ dừng lại ở lý luận, các tác
giả còn xác định những yêu cầu và đề ra các giải pháp cơ bản để phát triển tư
duy lý luận, nâng tầm cao trí tuệ, vị thế, uy tín của đội ngũ chính trị viên trong
giai đoạn mới của cách mạng.
Những kết quả của các công trình trên được tác giả luận án kế thừa,
tiếp thu và làm sâu sắc thêm quan niệm về tư duy lý luận của đội ngũ chính trị
viên, thực chất và đặc điểm phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
3.2. Những vấn đề đặt ra trong luận án cần tiếp tục giải quyết
Ngoài những kết quả nêu trên, liên quan đến đề tài luận án vẫn còn
những vấn đề đặt ra, luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Mặc dù tư duy lý
luận và phát triển tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay đã được
các tác giả nghiên cứu, luận giải dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến
nay, chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ
thống dưới góc độ triết học những vấn đề lý luận và thực tiễn “Phát triển tư duy
lý luận của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”. Kết
quả nghiên cứu của các công trình nêu trên đã gợi mở cho tác giả luận án khá
nhiều vấn đề lý thú, hấp dẫn, cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết trong luận án.
27
Về lý luận, phát triển tư duy lý luận trong điều kiện mới tuy đã được đề
cập khá nhiều, nhưng thực chất phát triển tư duy lý luận và những nhân tố quy
định, chi phối quá trình phát triển này chưa được luận giải thấu đáo. Đặc biệt,
việc phát triển tư duy lý luận của một đối tượng đặc thù là đội ngũ chính trị
viên Quân đội nhân dân Việt Nam chưa được luận chứng một cách sâu sắc.
Do vậy, vấn đề đặt ra trong luận án cần tiếp tục giải quyết chính là làm rõ
thực chất và đặc điểm phát triển tư duy lý luận của đội ngũ chính trị viên
Quân đội nhân dân Việt Nam.
Về thực tiễn, bằng sự khái quát hóa và sử dụng phương pháp nghiên
cứu tổng kết lịch sử, cơ sở thực tiễn phát triển tư duy lý luận hiện nay đã được
đề cập khá sâu sắc. Tuy nhiên, để làm rõ cơ sở thực tiễn phát triển tư duy lý
luận của một đối tượng cụ thể là chính trị viên, không chỉ sử dụng một
phương pháp nào đó, mà cần sử dụng tổng hợp các phương pháp; trong đó,
trọng tâm là các phương pháp: phân tích và tổng hợp, tổng kết thực tiễn, điều
tra xã hội học và nghiên cứu dự báo... Chỉ như vậy, tác giả mới có căn cứ
đánh giá một cách khách quan, toàn diện, chính xác thực trạng, đồng thời chỉ
ra được những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết trong phát triển tư duy lý luận
của đội ngũ chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Về giải pháp, để quá trình phát triển tư duy lý luận đạt chất lượng và
hiệu quả, không chỉ dừng lại ở cơ sở lý luận và thực tiễn hay những yêu cầu cơ
bản. Trái lại, trên cơ sở những định hướng mang tính khoa học của lý luận và
thực tiễn, cụ thể hóa thành những giải pháp và hệ thống các biện pháp mang
tính khả thi, phù hợp. Theo đó, đề xuất và luận giải hệ thống những giải pháp
phát triển tư duy lý luận của một đối tượng đặc thù chính trị viên Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay là một trong những vấn đề cơ bản đặt ra cho luận
án cần giải đáp một cách thỏa đáng.