Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Vai trò của nhà nước với phát triển bền vững ở Việt Nam : Luận văn ThS. Khoa học chính trị: 60 31 20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÀNH
: CHÍNH TRỊ HỌC
MÃ SỐ
: 60.31.20

HÀ NỘI, THÁNG 10 - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÀNH
: CHÍNH TRỊ HỌC
MÃ SỐ
: 60.31.20


NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. LƯU MINH VĂN

HÀ NỘI, THÁNG 10 - 2011


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT…………………………………..………………2
MỞ ĐẦU……………………...…………………………………………....…………..3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM…………………….........….…......9
1.1. Khái niệm phát triển bền vững ……………………………………….…......…….9
1.2. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững…………......................….……....20
1.3. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề phát triển bền vững ở một số nước……………...30
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở
VIỆT NAM: THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ …………………………….…............37
2.1. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về kinh tế…………….............….37
2.2. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về xã hội…………….....….....…..45
2.3. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về tài nguyên môi trường…......…52
2.4. Những vấn đề đặt ra về vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững ở Việt
Nam………………………………………………………………………………...…61
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM......................................................70
3.1. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững…....................................................................................................71
3.2. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý về phát triển bền vững ….........................72
3.3. Phát triển đồng bộ hệ thống chính sách kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường..….74
3.4. Xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh và hiệu quả……..............…85
KẾT LUẬN ………………………………………………………………................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..….92


1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. Chương trình nghị sự

CTNS

2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

3. Phát triển bền vững

PTBV

4. Xã hội chủ nghĩa

XHCN

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển là vấn đề lớn và không dễ đối với các quốc gia, các dân tộc và ở mọi
thời đại. Trong suốt thế kỷ XX và những thập kỷ đầu thế kỷ XXI chúng ta đã chứng
kiến sự thành công và cả sự thất bại từ phạm vi quốc gia đến phạm vi toàn cầu trong

tìm lời giải bài toán phát triển.
Trong thời gian dài tư duy về phát triển không chỉ ở Việt Nam, mà cả trên
phạm vi toàn cầu bị chi phối bởi khuynh hướng duy kinh tế, về thực chất đó là kiểu
quan niệm ngầm ẩn đồng nhất phát triển xã hội với phát triển kinh tế, hay nói các khác
là sẵn sàng hy sinh các mặt khác của sự phát triển (xã hội và môi trường…) cho sự
phát triển kinh tế. Đúng là không thể nói đến phát triển nếu không giải được vấn đề
nền tảng là phát triển kinh tế. Tuy nhiên thực tiễn của thế kỷ XX cho thấy hệ bên cạnh
những bước tiến bộ vượt bậc về kinh tế thì những hệ quả xấu, ngoài dự tính của chính
quá trình phát triển cũng ngày càng lộ rõ và trở thành yếu tố đe dọa chính sự tồn tại và
phát triển của mỗi xã hội và cả nhân loại. Chẳng hạn, sự bùng nổ dân số, sự gia tăng
khoảng cách giàu nghèo, sự suy thoái môi trường, sự biến đổi khí hậu v.v. Do đó, bài
học lớn được rút ra là: trong quá trình phát triển, con người cần phải giải quyết tốt mối
quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên mà bản chất của nó là sự “đồng tiến hóa”
hay chính là phát triển bền vững (PTBV).
Kể từ “Báo cáo Tương lai chung của chúng ta” (năm 1987) đến Hội nghị
Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển (năm 1992) và nhất là sau Hội nghị
Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (năm 2002), PTBV đã trở thành Chương
trình nghị sự của thế kỷ XXI, và thu hút được sự quan tâm sâu rộng của nhiều chính
khách, nhà khoa học có uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, trong đời sống quốc tế, PTBV
thực sự mới chỉ nhận được sự đồng thuận trên những vấn đề chung, cơ bản có tính
nguyên tắc. Do tính chất liên ngành, phức tạp, nhiều vấn đề PTBV đến nay còn chưa
được giải quyết thỏa đáng và nhận thức thống nhất từ những vấn đề như bản chất, điều
kiện đảm bảo, khả năng, mức độ áp dụng….đang cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
Ở Việt Nam, hơn 20 năm qua, thực hiện đường lối Đổi mới do Đảng ta khởi
xướng, lãnh đạo, Nhà nước ta cùng với nhân dân đã đạt được những thành tựu to lớn
trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Cùng với xu thế chung của thế
3


giới, vấn đề PTBV được đặt ra ngay từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới. Song đến khi

tiến trình này đi vào chiều sâu thì nó mới thực sự trở nên cấp bách, thu hút sự quan
tâm đặc biệt của dư luận xã hội. Từ thực tế phát triển của đất nước, một vấn đề được
quan tâm là sự nhận thức sâu sắc hơn về khả năng, điều kiện đảm bảo PTBV ở Việt
Nam, làm sao để có thể kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo
vệ môi trường trong quá trình phát triển.
Sự kết hợp hài hòa đó là yêu cầu khách quan từ thực tiễn song, không có nghĩa
là sự thống nhất đó tự nó sẽ diễn ra, mà rất cần đến vai trò của chủ thể, mà trước hết là
vai trò của Nhà nước trong việc tạo ra sự PTBV. Trong những năm qua, bằng các
chính sách kinh tế, xã hội, môi trường đúng đắn, Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam phát triển với cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, chất lượng cuộc sống của người dân ở
các vùng miền được nâng lên, các vấn đề xã hội từng bước được giải quyết, các nỗ lực
nhằm phục hồi và bảo vệ tài nguyên và môi trường đã đạt được những kết quả nhất
định… Tuy nhiên, tình trạng phân hóa giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, giữa các
vùng miền đang ngày càng doãng ra, nền kinh tế vẫn có nguy cơ tụt hậu xa so với các
nước, tình trạng tham nhũng, làm ăn phi pháp, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thất
nghiệp, tệ nạn xã hội…vẫn đang ngày càng tăng lên, đe dọa đến những thành tựu
PTBV mà Nhà nước và nhân dân ta đang nỗ lực đạt được. Những hạn chế đó có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về yếu tố chính sách, pháp luật PTBV
còn thiếu đồng bộ, chưa kết hợp hài hòa các nhân tố của PTBV trong quá trình hoạch
định và thực thi chính sách, việc thực hiện chính sách còn nhiều lúng túng, đặc biệt là
tình trạng tham ô, tham nhũng đang trở thành lực cản lớn trên con đường PTBV ở
nước ta. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là Nhà nước cần phải làm thế nào để vừa đạt
được sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, lại vừa đảm bảo được sự tiến bộ và công
bằng xã hội, đồng thời bảo vệ môi trường trong sạch, sử dụng tiết kiệm, hợp lý tài
nguyên thiên nhiên đất nước. Đây thực sự là vấn đề khó khăn, cần phải được giải
quyết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ
hơn vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài “Vai trò của nhà nước với phát triển bền vững
ở Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình.


4


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững.
Cùng với xu thế phát triển chung của thế giới và yêu cầu của công cuộc Đổi mới
đất nước, trong nhiều năm trở lại đây vấn đề PTBV được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu. Bằng các công trình nghiên cứu của mình, họ đã có những đóng góp nhất
định cho việc hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận về PTBV ở nước ta.
Đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề PTBV, trước tiên,
phải kể đến công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành: “Tiến tới môi trường
bền vững” (1995) của Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Tổng
hợp Hà Nội. Công trình này đã tiếp thu và thao tác hóa khái niệm PTBV theo Báo cáo
Brundlantd, theo đó, PTBV được quan niệm như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên
bốn lĩnh vực: bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt
môi trường, bền vững về mặt kỹ thuật.
Công trình “Nghiên cứu xây dựng tiêu chí PTBV cấp quốc gia ở Việt Nam - giai
đoạn I” (2003) do Viện Môi trường và PTBV, Hội liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật
Việt Nam thực hiện. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí PTBV của Bruntland và kinh
nghiệm các nước, các tác giả đã đưa ra các tiêu chí cụ thể về PTBV đối với một quốc
gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng thời, nhóm tác
giả cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí PTBV cho Việt Nam.
Công trình nghiên cứu:“Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững”
(2000) do Lưu Đức Hải chủ biên đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành
động quản lý môi trường cho PTBV. Công trình này đã xác định PTBV qua các tiêu
chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hóa đồng thời tổng quan
nhiều mô hình PTBV.
Đề tài cấp Bộ: “Phát triển bền vững từ quan niệm đến hành động” của PGS.TS
Hà Huy Thành (chủ biên), Viện Nghiên cứu Môi trường và PTBV là cơ quan chủ trì
thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu những nội dung cơ bản, quá trình hình thành và phát

triển của khái niệm, khuôn khổ, chương trình hành động, chỉ tiêu PTBV của Liên Hợp
Quốc và các quốc gia, khu vực trên thế giới, trên cơ sở đó rút ra những bài học về
PTBV phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Cuốn “Phát triển bền vững của Việt Nam: thành tựu, cơ hội, thách thức và triển
vọng” (2007) của GS.TSKH Ngô Quang Thái và PGS.TS Ngô Thắng Lợi đã nghiên
5


cứu, phân tích thực trạng phát triển của kinh tế, xã hội và môi trường Việt Nam trong
thời gian Đổi mới, phân tích những yếu tố hay những điều kiện để có thể giúp Việt
Nam đạt được những tiến bộ khả quan để thực hiện PTBV.
2.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững..
Thực tế thế kỷ XX chỉ ra rằng nếu đặt sự PTBV vào “bàn tay thị trường” thì
không thể đem lại hiệu quả như mong muốn, bởi những khuyết tật của cơ chế này.
Những khuyết tật đó là căn cứ luận chứng cho sự cần thiết phải có “bàn tay hữu hình”
của nhà nước tham gia vào điều tiết, quản lý xã hội. Song thực tế cũng chứng minh
rằng nếu nhà nước can thiệp bất hợp lý các quá trình phát triển cũng có thể trở thành
trở ngại cho PTBV. Do đó, nhà nước can thiệp đến mức độ nào, sử dụng công cụ như
thế nào ở từng giai đoạn phát triển là vấn đề luôn được quan tâm nghiên cứu.
Xung quanh vấn đề này, trước hết phải nói tới Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc
tế: “Chính trị và Phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, (2010) do Học viện Báo chí và Tuyên truyền
cùng với Văn phòng Viện Friedrich Ebert (Đức) đồng tổ chức. Cuốn Kỷ yếu này bao
gồm rất nhiều bài viết phong phú về mối quan hệ giữa chính trị với PTBV trong đó, có
những bài nghiên cứu về vai trò nhà nước đối với PTBV như bài: “Vai trò của nhà
nước và các đảng phái chính trị đối với sự phát triển bền vững” của GS.TS Thomas
Meyer; bài: “Vai trò của nhà nước với việc phát triển bền vững ở nước ta hiện nay”
của PGS.TS Trần Thành….
Luận án Tiến sỹ Chính trị học: “Vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện
công bằng xã hội” (2011) của Võ Thị Hoa. Trong luận án này, vai trò nhà nước được

đề cập dưới góc độ đảm bảo công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế và xã hội thông qua
các chính sách và pháp luật. Dưới góc độ PTBV thì công bằng xã hội chính là điều
kiện để đảm bảo sự kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội.
Do đó, ở mức độ nhất định, các chính sách nhằm thực hiện công bằng xã hội cũng là
nhằm đem lại sự PTBV đất nước.
Luận án Tiến sỹ: “Vai trò của pháp luật đối với phát triển bền vững ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay” (2010) của Võ Hải Long, nghiên cứu vấn đề PTBV dưới
góc độ luật pháp, một công cụ quản lý của nhà nước. Trong luận án, tác giả đã phân
tích, đánh giá vai trò của pháp luật về PTBV kinh tế, xã hội và môi trường, đồng thời
nêu lên những giải pháp để phát huy vai trò của pháp luật đối với PTBV đất nước.
6


“Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững”
(2006) của Phạm Thị Ngọc Trầm. Tác phẩm này đã phân tích vai trò của nhà nước
thông qua việc tổng quan luật pháp và chính sách về tài nguyên môi trường, đánh giá
ưu điểm và hạn chế của các chính sách đó đối với PTBV, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm bảo vệ bền vững tài nguyên, môi trường.
Có thể thấy rằng những công trình trên đã đề cập đến ở một mức độ nhất định
vai trò của nhà nước với PTBV ở Việt Nam hiện nay, song chưa có công trình nào
nghiên cứu hệ thống, sâu sắc về vấn đề này dưới góc độ khoa học Chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Thông qua việc luận giải một số vấn đề lý luận về PTBV và vai trò nhà nước
đối với PTBV, luận văn tập trung đánh giá vai trò của nhà nước với PTBV ở Việt Nam
qua việc thực hiện các chính sách, pháp luật trên các mặt kinh tế, xã hội và môi
trường, từ đó nêu lên những khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa vai trò nhà nước với
PTBV ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được những mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm
vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về PTBV và vai trò của nhà nước với

PTBV.
- Phân tích, đánh giá vai trò của nhà nước với PTBV qua việc thực hiện các
chính sách kinh tế, chính sách xã hội và chính sách môi trường.
- Nêu lên những khuyến nghị cơ bản để nâng cao hơn nữa vai trò của nhà nước
với PTBV ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: sự PTBV bị quy định bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong
luận văn này hướng vào nghiên cứu vai trò của nhà nước và cụ thể hơn là của nhà
nước ta hiện nay đối với PTBV.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong khoảng thời
gian từ 1986 đến nay và tập trung vào phân tích các chính sách của nhà nước ta liên
quan đến chủ đề PTBV.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận:

7


+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển và vai trò của nhân tố nhà nước đối với phát triển xã hội.
+ Đường lối phát triển đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề
PTBV và về vai trò của nhân tố nhà nước đối với PTBV.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng tổng hợp những nguyên tắc, phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp như: hệ
thống, logic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đã phân tích lý luận vai trò nhà nước với PTBV.
- Luận văn đã đánh giá vai trò nhà nước đối với PTBV ở Việt Nam trên các

phương diện kinh tế, xã hội và môi trường.
- Luận văn đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò nhà nước
đối với PTBV ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, Luận văn gồm 3 chương và 11 tiết.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm phát triển bền vững.
1.1.1. Khái lược lịch sử nghiên cứu.
Phát triển (Development): được hiểu là sự vận động, tiến triển theo chiều hướng
đi lên. Tuy vậy, không phải bao giờ các hiện tượng, các quá trình lịch sử cũng vận
động theo xu hướng đi lên mà còn có cả sự thụt lùi, thoái bộ. Sự phát triển của lịch sử
nhân loại 300 năm qua cho thấy chính sự phát triển kinh tế phiến diện, với mục tiêu là
lợi nhuận tối đa cho các chủ đầu tư, tuy đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng nhưng lại dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế, làm nảy sinh các vấn đề xã hội
gay gắt và tàn phá môi trường nghiêm trọng. Thêm vào đó, sự gia tăng dân số nhanh
chóng nhất là ở các nước đang phát triển đã tiêu thụ một lượng năng lượng lớn chưa
kịp tái tạo.
Có lẽ chưa bao giờ sự phát triển do chính bàn tay và khối óc của con người kiến
tạo nên lại đem lại những hệ quả uy hiếp chính cuộc sống của con người như hiện nay.
Các cuộc suy thoái kinh tế, lạm phát cao, bất ổn xã hội, thiên tai… đều là sự cảnh báo
rằng phương thức phát triển hiện tại của con người vẫn chưa bền vững, chứa đựng
nhiều rủi ro. Do đó, nếu không muốn một sự diệt vong đã từng xảy ra với xã hội Maya
lặp lại thì con người buộc phải đi tìm một phương thức PTBV hơn.
Vậy PTBV là gì? Để đưa ra một khái niệm như hiện nay, nhân loại đã phải trải

qua một quá trình nhận thức lâu dài. Có thể chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (từ thế kỷ XVIII đến năm 1987): là quá trình tìm tòi và xác
định nội hàm khái niệm.
Từ cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII đến sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, ý tưởng PTBV đã hình thành, ban đầu chủ yếu là vấn đề bảo vệ môi trường. Do
quá trình khai thác mạnh mẽ tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho công nghiệp dẫn đến
sự tàn phá môi trường, đã dự báo hậu quả nhỡn tiền mà con người sẽ phải gánh chịu là
rõ rệt. Bởi vậy, nhiều phong trào bảo vệ môi trường, đã sớm xuất hiện từ đầu thế kỷ
XX ở Mỹ và Tây Âu.
9


Cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1970 đã gây ra sự thiếu hụt năng lượng trầm
trọng và tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế thế giới, nhất là ở các nước công nghiệp
phát triển. Vấn đề giới hạn của tăng trưởng được đặt ra nếu con người không quan tâm
đến vấn đề sử dụng tài nguyên và ô nhiễm môi trường.
Vì vậy, năm 1972, Liên hợp quốc đã tổ chức Hội nghị quốc tế về Môi trường và
con người ở Xtốckhôm (Thụy Điển) với sự tham gia của 113 đại diện của chính phủ
các nước trên thế giới. Hội nghị này được coi là hội nghị đầu tiên của nhân loại bàn về
vấn đề phát triển dưới quan điểm gắn với việc bảo vệ và cải thiện môi trường sống của
con người.
Chính những nỗ lực về nhận thức và hành động trên của nhân loại tiến bộ là tiền
đề cho sự ra đời của thuật ngữ PTBV năm 1980 trong công trình “Chiến lược bảo tồn
thế giới” được đưa ra bởi Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc
tế - IUCN.
Sau các thảm họa ở Bhopal (Ấn Độ) năm 1984 và Chernobyl năm 1986 thì
những nhận thức sâu sắc về nguy cơ môi trường do con người gây ra cũng như mối
quan hệ giữa môi trường và phát triển càng được quan tâm mạnh mẽ. Do đó, năm
1987, báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (Báo cáo Bruntland), do Uỷ ban thế
giới về Môi trường và phát triển (WCED) đưa ra, đã xác định nội hàm của khái niệm

PTBV, làm tiền đề cho nhận thức của con người.
Báo cáo quan niệm PTBV là: “Sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của
hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”
[15, tr.251] báo cáo cũng cho rằng con người có thể đạt được cả hai mục tiêu phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường nếu sử dụng công nghệ và tổ chức xã hội thích hợp.
- Có thể thấy quan niệm về PTBV trong Báo cáo Bruntland đã tháo gỡ được bế
tắc trong nhận thức về vấn đề này của nhân loại, mở ra một hướng đi mới giúp các
nước giải quyết mối quan hệ giữa môi trường và phát triển.
- Đóng góp nữa của Báo cáo là đã bổ sung vấn đề sự công bằng giữa các thế hệ
trong việc thỏa mãn nhu cầu của mình. Điều này được coi là “đột phá về mối quan hệ
giữa các thế hệ trong sự phát triển” [15, tr. 250]. Điều đó đòi hỏi thế hệ hiện tại phải có
trách nhiệm sử dụng tiết kiệm, hợp lý các nguồn lực để đem lại cơ hội phát triển cho
các thế hệ tương lai.

10


- Cuối cùng, khái niệm đã bao quát được tính thời gian, tính liên tục của phát
triển. PTBV cần phải được xem xét trong tầm nhìn dài hạn, “hay các lợi ích của nó
phải được duy trì không hạn định” [37, tr.14]. Nói cụ thể hơn, lợi ích do các đề án, các
chương trình, chiến lược do nhà nước mang lại cho người dân là không thể có sự hạn
chế về yếu tố thời gian.
Ví dụ: chính sách xóa đói nghèo chỉ hỗ trợ tiền giúp người nghèo có cái ăn,
mặc, ở trong khoảng thời gian 5 năm, sau đó họ lại tái nghèo thì chính sách đó là chưa
bền vững.
Có thể nói những ý tưởng mới về PTBV mà Báo cáo Bruntland mang lại như:
con người vừa có thể phát triển mà không làm tổn hại tới môi trường, công nghệ và tổ
chức xã hội là giải pháp căn bản, sự công bằng và tính trách nhiệm giữa các thế hệ,
tính thời gian và tính liên tục trong phát triển đã thực sự thu hút được sự quan tâm của
nhiều quốc gia trên thế giới. Từ sau Báo cáo này, thuật ngữ PTBV đã được phổ biến

rộng rãi.
Như vậy, điểm nổi bật trong nghiên cứu về PTBV giai đoạn này là:
- Xác định được nội hàm khái niệm PTBV.
- Hướng đến hình thành hệ tiêu chí đánh giá, đo lường PTBV.
- Xác định khung các vấn đề chủ đạo của quá trình PTBV đó là xác lập quan hệ cân
bằng, hợp lý giữa 3 tiểu nhân tố: Sinh thái - Kinh tế - Xã hội.
Giai đoạn thứ hai, đây là giai đoạn hoàn thiện và đưa ý tưởng PTBV vào thực
tiễn, với hai mốc quan trọng:
+ Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh trái đất về Môi trường và Phát triển do Liên
hợp quốc tổ chức tại Rio de Jannero (Braxin) với sự tham dự của 172 quốc gia trên thế
giới. Hội nghị đã thông qua một số văn kiện quan trọng, tiêu biểu là Tuyên ngôn Rio 92 và Chương trình nghị sự 21(Agenda 21). Tuyên ngôn Rio gồm 27 nguyên tắc cơ
bản về vấn đề môi trường và phát triển. Còn Chương trình nghị sự 21 là một văn kiện
đồ sộ gồm 40 chương, được xem là khuôn khổ hành động cấp quốc gia và quốc tế đầu
tiên vì sự PTBV. Điểm đặc biệt trong văn kiện này là sự nhấn mạnh yếu tố con người,
bên cạnh yếu tố môi trường trong nội hàm khái niệm PTBV bởi con người là mục tiêu
và động lực của sự phát triển. Đây là sự phát triển mới đi đến hoàn thiện cơ bản về nội
hàm khái niệm.

11


+ Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về PTBV được tổ chức tại
Johannesburg (Nam Phi) với 166 nước tham dự. Hội nghị đã thông qua Bản Tuyên bố
Johannesburg và Bản Kế hoạch thực hiện PTBV, khẳng định lại các nguyên tắc đã đề
ra trước đây và tiếp tục cam kết thực hiện Agenda 21. Điểm đáng lưu ý là Hội nghị
này đã cụ thể hóa thêm và phát triển hoàn thiện nội hàm khái niệm với ba trụ cột
chính: bền vững về kinh tế; bền vững về xã hội; bền vững về môi trường.
Vậy, trong 10 năm (từ năm 1992 đến năm 2002) đã có hai Hội nghị quốc tế về
PTBV được tổ chức, điều đó thể hiện:
- Vấn đề PTBV không phải là vấn đề của một quốc gia nào mà là mối quan tâm

chung, mang tính chất toàn cầu, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, các nước đều có sự
ràng buộc chặt chẽ với nhau. Và thành quả PTBV chỉ đạt được khi có sự nỗ lực chung
của các quốc gia trên thế giới.
- Qua các hội nghị, các bản tuyên bố, nội hàm khái niệm không ngừng được bổ
sung với phương pháp tư duy và cách tiếp cận mới, hệ thống, toàn diện, sâu rộng hơn,
nó bao quát các vấn đề kinh tế, xã hội, sinh thái, sự bình đẳng giữa các thế hệ.
- Thể hiện quyết tâm cao của các nước, mong muốn biến ý tưởng PTBV trở
thành hiện thực, thông qua các chương trình, các kế hoạch cụ thể, từ đó định hướng
cho các nước xây dựng chương trình hành động phù hợp với thực tiễn.
Như vậy, có rất nhiều khái niệm khác nhau về PTBV, trong đó, tiêu biểu là khái
niệm trong Chiến lược phát triển bền vững tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp
quốc năm 1992.
Theo đó, “Phát triển bền vững là phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, dựa trên
việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bền vững môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của
con người hiện nay và không ảnh hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai trong việc
thỏa mãn nhu cầu của họ” [38, tr.3].
Khái niệm trên đã bao quát được hai vấn đề cơ bản của PTBV:
Thứ nhất, PTBV phải là sự phát triển kinh tế, xã hội lành mạnh trên cơ sở sử
dụng hợp lý tài nguyên môi trường.
- Phát triển kinh tế bền vững đó là sự phát triển kinh tế hướng đến thỏa mãn
những tiêu chí như: tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản xuất, chú trọng phát triển “công nghệ sạch” và sử dụng tiết kiệm,
có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
12


- Phát triển xã hội bền vững nhấn mạnh việc phát triển con người và vấn đề
công bằng xã hội. Tức là ta phải đảm bảo được công bằng xã hội trong phân phối,
cung cấp đủ các dịch vụ y tế, giáo dục, dịch vụ công cộng đến mọi người dân; phải tạo
điều kiện cho con người có cơ hội được bộc lộ, phát triển năng lực bản thân và cải
thiện chất lượng cuộc sống.

- Bền vững về môi trường sinh thái thể hiện ở việc duy trì sự cân bằng giữa bảo
vệ môi trường tự nhiên với khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con
người sao cho việc khai thác đó ở một giới hạn nhất định, cho phép môi trường tiếp tục
hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên Trái đất.
Ba nội dung trên cũng chính là ba mục tiêu, ba tiêu chí hợp thành sự PTBV, nó
có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại với nhau và là tiền đề, điều kiện
cho sự PTBV. Mặc dù mỗi nhân tố có vai trò, vị trí riêng trong phát triển song đó
không phải là phép cộng giản đơn của các số hạng kinh tế, xã hội, môi trường mà là sự
kết hợp hài hòa giữa các nhân tố để kiến tạo nên sự PTBV.
Thứ hai, PTBV còn phải đảm bảo sự công bằng giữa các thế hệ trong việc sử
dụng tài nguyên môi trường. Điều đó có nghĩa là sự tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử
dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống vừa thỏa mãn được nhu cầu
của thế hệ hôm nay nhưng cũng không làm ảnh hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu
và môi trường sống của các thế hệ mai sau.
Như vậy, nếu trước đây sự phát triển thiên về tăng trưởng kinh tế để lại nhiều hệ
lụy về vấn đề môi trường và xã hội, thì ngày nay PTBV dường như tất yếu trở thành
phương thức phát triển của xã hội hiện đại để đem lại sự phát triển hài hòa mọi mặt.
Nói như PGS.TS Hà Huy Thành thì: “phát triển bền vững là sự phát triển được hình
thành trong phương thức sản xuất, trong phương thức phát triển và tổ chức thích ứng
nền kinh tế - xã hội trong mỗi quốc gia và ở tầm toàn cầu” [38, tr.9].
1.1.2. Quan niệm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển bền vững.
Cùng với sự phát triển của thế giới, từ sau năm 1986, Việt Nam đã sớm tiếp thu
tư tưởng về PTBV. Đáng chú ý là năm 1991, Chính phủ đã thông qua “Kế hoạch quốc
gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000”. Đây là một trong
những kế hoạch quốc gia đầu tiên được xây dựng theo quan điểm PTBV, tạo tiền đề
cho quá trình PTBV ở Việt Nam.

13



Tiếp đó là Chỉ thị số 36-CT/TW về việc “Tăng cường công tác bảo vệ môi
trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ngày 25-6-1998 của Bộ
Chính trị. Chỉ thị đã nêu quan điểm của Việt Nam là “Bảo vệ môi trường là một nội
dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển
bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[32,
tr.4].
Nắm bắt được xu thế chung của thời đại và yêu cầu cấp thiết khi đẩy mạnh tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII lần đầu tiên đã đưa vào trong Văn kiện thuật ngữ PTBV. Trong những bài
học kinh nghiệm rút ra sau 10 năm Đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng
kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái” [9, tr.459]. Tuy nhiên vấn đề PTBV chủ
yếu nhấn mạnh đến phương diện kinh tế và xã hội: “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu
quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết các vấn đề bức xúc về xã hội” [9, tr.168]. Và
tiêu chí để đánh giá sự PTBV chưa có sự lồng ghép yếu tố môi trường: “Lấy hiệu quả
kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án
đầu tư và công nghệ” [9, tr.471].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) đã đánh dấu mốc quan trọng
trong hiện thực hóa chủ trương PTBV của Việt nam thể hiện trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010). Quan điểm của Đảng ta là: “Phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường….Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi
trường, đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên
nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học” [9, tr.699-700].
Vậy, quan điểm PTBV của Đảng ta về cơ bản là phù hợp với xu hướng chung
của thế giới, thêm vào đó, trong “Đường lối phát triển kinh tế”, Đảng ta còn mở rộng
nội hàm khái niệm, đó là kết hợp phát triển kinh tế với lĩnh vực văn hóa, an ninh quốc
phòng để phù hợp với hai nhiệm vụ chiến lược ở Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Để mục tiêu PTBV, nhất là vấn đề môi trường được đảm bảo thực hiện, Đảng ta
nhấn mạnh: “Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế
14


hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi yêu cầu về môi trường là
một tiêu chí quan trọng trong đánh giá các giải pháp phát triển” [9, tr.700].
Nếu như trong các Văn kiện trước đó Đảng ta chưa nhấn mạnh đến yếu tố môi
trường trong phát triển thì Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt yếu tố môi trường
vào hệ quy chiếu và trở thành một thước đo quan trọng hàng đầu, cùng với nhân tố
kinh tế và xã hội để đánh giá sự phát triển. Điều đó thể hiện nhận thức sâu sắc và quyết
tâm của Đảng ta nhằm bảo vệ và cải thiện môi trường - cái nôi của sự sống con người trong từng bước phát triển. Quan điểm của Đại hội chính là định hướng chủ đạo để
mọi chính sách của Nhà nước hiện thực hóa mục tiêu PTBV.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) tiếp tục nâng cao hơn nữa vấn
đề PTBV thông qua việc coi đó là một bài học kinh nghiệm, bài học về “Phát triển
nhanh và bền vững” với nội dung: “Phát triển nhanh phải đi đôi với nâng cao tính bền
vững…phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con
người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời
sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Từng bước thu
hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi
trường ngay trong từng bước phát triển, phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm ổn định
chính trị - xã hội; coi đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững” [9,
tr.178-179].
Quan điểm về phát triển nhanh và bền vững là sự chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt và
phù hợp với tình hình ở Việt Nam hiện nay. Phát triển nhanh đặt ra hết sức cấp thiết,
để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trên thế giới. PTBV để đảm bảo sự
phát triển hài hòa vì con người và cũng là cơ sở để phát triển nhanh. Điều đó thể hiện
một mối quan hệ biện chứng giữa phát triển nhanh và PTBV.
So với quan điểm tại Đại hội Đảng lần thứ IX, tư duy về PTBV ở Đại hội này đã
phát triển sâu sắc hơn, chú ý đến các chiều cạnh của sự phát triển: ở cả tầm vĩ mô và vi

mô, ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn, số lượng và chất lượng, chiều rộng và chiều sâu. Ở
mọi giác độ của sự phát triển, Đảng ta đều quán triệt việc thực hiện PTBV. Có thể nói,
PTBV đã thực sự trở thành quan điểm chủ đạo, thành nguyên tắc trong thiết kế phát
triển đất nước.
Từ bài học về phát triển nhanh và bền vững, tại Đại hội Đảng lần thứ XI (năm
2011), Đảng ta lại nhấn mạnh một lần nữa và đã đưa thành quan điểm phát triển đầu
15


tiên trong 5 quan điểm phát triển cho giai đoạn 2011-2015. Đảng ta nhấn mạnh: Phát
triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt
trong Chiến lược.
Nội dung gồm ba vấn đề chính: thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế, xã hội,
môi trường. Trong nội dung này, bền vững kinh tế nhấn mạnh đến ổn định kinh tế, coi
trọng chất lượng, hiệu quả và phát triển kinh tế theo chiều sâu. PTBV xã hội nhấn
mạnh đến thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
PTBV môi trường coi trọng bảo vệ, cải thiện môi trường và chủ động ứng phó với biến
đổi khí hậu.
Thứ hai, Đảng ta khẳng định nước ta có điều kiện phát triển nhanh và PTBV
đồng thời cũng nhấn mạnh phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và
chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Cuối cùng, để phát triển nhanh và bền vững, Đảng nhấn mạnh đến việc giữ vững
ổn định chính trị và tăng cường quốc phòng an ninh.
Có thể nói rằng điểm nhấn quan trọng tại Đại hội là quan điểm về PTBV của
Đảng. Lần này chúng ta yêu cầu về PTBV cao hơn, phát triển nhanh phải gắn liền với
PTBV trong mọi kế hoạch.
Để mục tiêu PTBV được hiện thực hóa, đồng thời để hưởng ứng Chương trình
nghị sự 21 của Liên hợp quốc về PTBV, Nhà nước ta đã thể chế hóa chủ trương của
Đảng về PTBV trong các chính sách phát triển. Năm 2004, Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở

Việt Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là một chiến lược khung,
bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương, các
tổ chức và cá nhân có liên quan triển khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm đảm
bảo PTBV đất nước trong thế kỷ XXI. Định hướng này nêu lên những thách thức mà
Việt Nam phải đối mặt, đề ra những chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và
những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần được thực hiện để PTBV.
Chiến lược cũng chỉ rõ PTBV đất nước phải dựa trên cơ sở “kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ
môi trường” [31, tr.5].
Định hướng Chiến lược phát triển của Việt Nam gồm 5 phần: 1- PTBV - con
đường tất yếu của Việt Nam. 2- Những lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên nhằm PTBV. 316


Những lĩnh vực xã hội cần ưu tiên nhằm PTBV. 4- Những lĩnh vực sử dụng tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ môi trường và kiểm soát ô nhiễm. 5- Tổ chức thực hiện PTBV.
Mục tiêu tổng quát của PTBV của Việt Nam là: đạt được sự đầy đủ về vật chất,
sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân, sự đồng thuận của
xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên, phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý
và hài hòa của 3 mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Định hướng xác định 8 nguyên tắc chính là:
1. Con người là trung tâm của PTBV;
2. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn trước mắt;
3. Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường là yếu tố không thể tách rời trong
quá trình phát triển;
4. Quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng công bằng nhu cầu của thế hệ hiện
tại mà không gây trở ngại tới cuộc sống của thế hệ tương lai;
5. Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho CNH, thúc đẩy nhanh,
mạnh và PTBV đất nước;
6. PTBV là nhiệm vụ của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa
phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, của các đoàn thể xã hội và cộng đồng dân cư

và mọi người dân;
7. Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế nhằm PTBV đất nước;
8. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội với bảo vệ môi
trường, với đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Về kinh tế, Định hướng xác định 5 lĩnh vực được ưu tiên phát triển là: 1- Duy trì
kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững; 2- Thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng
theo hướng thân thiện với môi trường; 3- Thực hiện quá trình công nghiệp hóa sạch; 4Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững; 5- PTBV các vùng và địa phương.
Về xã hội, định hướng Chiến lược xác định 5 lĩnh vực ưu tiên là: 1- Tập trung
nỗ lực để xóa đói giảm nghèo, đẩy mạnh thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; 2Tiếp tục giảm mức tăng dân số và tạo thêm việc làm cho người lao động; 3- Định
hướng quá trình đô thị hóa và di dân nhằm tạo thêm việc làm cho người lao động; 4Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp, phù hợp
với yêu cầu của sự phát triển đất nước; 5- Phát triển về số lượng và nâng cao chất
17


lượng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, cải thiện điều kiện lao động và vệ sinh môi
trường.
Về môi trường, Chiến lược xác định 9 lĩnh vực ưu tiên là: 1- Chống tình trạng
thoái hóa đất, sử dụng có hiệu quả và bền vững tài nguyên đất; 2- Khai thác hợp lý và
sử dụng bền vững tài nguyên nước; 3- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững
tài nguyên khoáng sản; 4- Bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ven biển, hải đảo và
phát triển tài nguyên biển; 5- Bảo vệ và phát triển rừng; 6- giảm ô nhiễm không khí ở
các khu đô thị và khu công nghiệp; 7- Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại; 8Bảo tồn đa dạng sinh học; 9- Thực hiện các biện pháp giảm nhẹ biến đổi khí hậu và
hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai.
Từ những trình bày trên có thể nhận xét về Chiến lược PTBV của Việt Nam:
- Chiến lược PTBV của Việt Nam là sự kế thừa kinh nghiệm của các nước trên
thế giới và sự vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trên những vấn
đề cơ bản của PTBV như: xây dựng Chiến lược toàn diện; Chiến lược PTBV ở các
lĩnh vực có liên quan đến các khía cạnh cụ thể của PTBV; Chiến lược PTBV theo
ngành, lĩnh vực. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã cụ thể hóa Chiến lược thành những

chương trình, chính sách phát triển phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
- Trong từng lĩnh vực, Chiến lược PTBV ở Việt Nam xác định rõ những nội
dung cụ thể, xây dựng hệ thống các giải pháp đồng bộ về nhận thức, kinh tế, kỹ
thuật…đặc biệt nhấn mạnh giải pháp về thể chế, chính sách, pháp luật nhằm đảm bảo
thực hiện có kết quả những lĩnh vực ưu tiên.
Như vậy, có thể thấy rằng khung lý thuyết cho sự PTBV ở Việt Nam đã được
định hình một cách cụ thể. Song để hiện thực hóa nó, chúng ta cần nhận thức được
những thuận lợi và những thách thức cơ bản:
Về thuận lợi: thứ nhất, điều cốt lõi và mang tính nhân văn rất sâu sắc của mục
tiêu PTBV chính là phát triển vì con người, trung tâm của sự phát triển. PTBV ở Việt
Nam lại được lãnh đạo bởi một chính Đảng của đại đa số nhân dân lao động, được
quản lý bởi một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Do đó, PTBV - phát triển vì con
người luôn là mục tiêu của đường lối, chính sách của Nhà nước. Về mặt chính trị, đó
là đảm bảo vững chắc cho việc thực hiện Chiến lược PTBV.
Thứ hai, công cuộc Đổi mới đất nước đang gặt hái được nhiều thành tựu to lớn
về kinh tế, xã hội và môi trường, điều đó được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng kinh tế
18


cao và ổn định trong nhiều năm, đời sống nhân dân càng ngày được cải thiện về mọi
mặt, chúng ta cũng đang nỗ lực sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên môi trường. Đây
là tiền đề để ta tiếp tục thực hiện mục tiêu PTBV.
Thứ ba, sự tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước là cơ sở
quan trọng nhất để đưa đường lối, chính sách PTBV vào cuộc sống.
Bên cạnh những thuận lợi đó, chúng ta còn gặp không ít thách thức cần phải
vượt qua:
Về nhận thức: các chính sách kinh tế - xã hội còn thiên về tăng trưởng nhanh
nền kinh tế mà chưa giải quyết triệt để nhiều vấn đề xã hội bức xúc, chưa quan tâm
đầy đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và
bảo vệ môi trường.

Về kinh tế: nguồn lực phát triển còn thấp nên những yêu cầu về PTBV ít có đủ
điều kiện vật chất để thực hiện. Đầu tư tập trung chủ yếu cho các các công trình mang
lại lợi ích trước mắt, còn rất ít đầu tư cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên và
bảo vệ môi trường. Trong sản xuất, do lượng vốn có hạn nên những công nghệ mà
Việt Nam nhập khẩu thường lạc hậu từ 2-3 thế hệ, khiến năng suất lao động thấp, mức
độ chi phí nguyên nhiên vật liệu cho một đơn vị giá trị sản phẩm cao, gây lãng phí tài
nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường; bên cạnh đó, số nợ của Việt Nam tuy chưa
tới giới hạn nguy hiểm nhưng đang tăng lên nhanh chóng, đe dọa tính bền vững sự
phát triển tương lai, trong khi vốn vay sử dụng chưa được hiệu quả; sản phẩm xuất
khẩu và tiêu dùng trong nước chủ yếu là sản phẩm thô, mức độ chế biến còn rất thấp;
sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, trong khi các nguồn tài nguyên thiên
nhiên đã bị khai thác tới hạn.
Về mặt xã hội: Việt Nam là một nước đông dân, hơn 80 triệu người, sức ép dân
số đang gia tăng. Dân số đông dẫn đến tình trạng thiếu việc làm ngày một gay gắt,
thêm vào đó, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường lao động; tỷ lệ hộ nghèo còn cao, khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội
có xu hướng gia tăng nhanh chóng; một số tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn có hiệu
quả, gây ra thất thoát, tốn kém các nguồn của cải, tạo ra nguy cơ mất ổn định và phá
hoại sự cân đối sinh thái.
Do là một nước còn nghèo nên trong phát triển, ta chú trọng vào tăng trưởng
kinh tế nhất là tăng trưởng GDP để nuôi một số lượng dân đông, nên ít chú ý tới hệ
19


thống thiên nhiên. Do đó, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác bừa bãi và bị sử dụng
lãng phí, gây nên suy thoái môi trường và làm mất cân bằng sinh thái. Thêm vào đó,
quá trình đô thị hóa tăng lên nhanh chóng kéo theo sự khai thác quá mức nguồn nước
ngầm, ô nhiễm nguồn nước mặt, không khí và ứ đọng chất thải rắn.
Như vậy, dưới hệ quy chiếu là các tiêu chí về PTBV, Việt Nam đang phải đối
mặt với không ít thách thức về nhận thức, kinh tế, xã hội, môi trường. Những trở ngại

này là những rào cản mà để vượt qua nó, Việt Nam không chỉ cần một đường lối đúng
đắn, một chiến lược sáng suốt, mà còn rất cần một nhà nước năng động và hiệu quả
trong quản lý với những chính sách và biện pháp phù hợp.
1.2. Vai trò của nhà nước với phát triển bền vững.
1.2.1. Sự cần thiết của vai trò nhà nước trong phát triển bền vững.
Sự phát triển của lịch sử loài người từ khi xã hội có giai cấp xuất hiện là một
quá trình gắn liền với vai trò của nhà nước. Từ thế kỷ XV, khi phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa ra đời, vai trò của nhà nước đã được khẳng định trong việc lưu thông
hàng hóa, tiền tệ, phát triển thị trường. Trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử, có
thời kỳ, vai trò nhà nước bị đặt bên lề của sự phát triển, thị trường được đề cao; nhưng
cũng có thời kỳ vai trò nhà nước lại được nhấn mạnh trên hết, nhà nước can thiệp vào
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ tầm vĩ mô đến vi mô. Đến nay, khi đã trải qua
nhiều mô hình phát triển trên con đường tìm kiếm sự thịnh vượng, chúng ta thấy rằng
việc tư duy lại vai trò nhà nước là rất cần thiết. Đồng thời chúng ta cũng thấy rằng: sự
phát triển do nhà nước chi phối đã thất bại, nhưng sự phát triển mà không có nhà nước
đã và cũng sẽ thất bại. Phát triển mà không có một nhà nước hiệu quả là điều không
thể được. Như báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1997 “Nhà nước trong một thế
giới đang chuyển đổi” đã khẳng định rằng: “Một nhà nước tốt là sự cần thiết sống còn.
Nếu không có một nhà nước hoạt động hữu hiệu thì không thể có sự phát triển bền
vững về kinh tế và xã hội” [7, tr.10]. Lời khẳng định trên đã nhấn mạnh vai trò quyết
định của nhà nước trong PTBV ở mỗi quốc gia, bởi:
Thứ nhất, do yêu cầu nội tại của PTBV.
Tiêu chí đầu tiên của PTBV là có nền kinh tế tăng trưởng tương đối cao, ổn định
và cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại. Nhưng điều đó không tự diễn ra
được nếu chỉ trông chờ vào thị trường và thiếu đi “bàn tay” nhà nước. Cơ chế thị
trường có xu hướng nổi trội trong quan hệ xã hội bởi những mặt lợi ích to lớn mà nó
20


mang lại, đó là: điều tiết và sử dụng có hiệu quả nhất tài nguyên thiên nhiên với chi

phí thấp nhất; khuyến khích mọi người tham gia vào sản xuất kinh doanh để tìm kiếm
lợi nhuận và sự giàu có chung cho xã hội; thúc đẩy việc áp dụng công nghệ, cải tiến tổ
chức để thành công trong cạnh tranh tự do… Song, nếu để bản thân thị trường chi phối
sẽ gây nguy hại, trước hết là cho chính nền kinh tế. Sự mất cân bằng cung - cầu do
việc đẩy mạnh sản xuất để tăng lợi nhuận đã dẫn đến cuộc khủng hoảng thừa ở các
nước tư bản những năm 1930; đặc tính ngắn hạn trong giao dịch thị trường dẫn đến
tình trạng gian lận thương mại, lừa đảo, tranh mua giành bán, vi phạm đạo đức kinh
doanh tràn lan; sự nhạy cảm quá mức của thị trường trở nên đặc biệt nguy hiểm cho
các quốc gia phát triển chưa có đủ tiềm lực và cơ chế để ngăn chặn, giảm bớt tác động
của các cú sốc trên thị trường…Vì vậy, để điều tiết nền kinh tế, cần phải có nhà nước
với chính sách và công cụ điều tiết hiệu quả để ổn định nền kinh tế và bảo vệ nó trước
những tác động không mong muốn từ thị trường.
Để PTBV thì một nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định không thì chưa đủ, mà
điều quan trọng là những thành quả kinh tế đó phải hướng vào giải quyết các vấn đề xã
hội cơ bản như: lao động và việc làm, nâng cao thu nhập dân cư, xóa đói giảm nghèo,
đảm bảo an sinh xã hội…và gắn nó với việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kết
hợp với bảo vệ môi trường sinh thái. Kinh tế thị trường đem lại tăng trưởng kinh tế
nhưng bản thân nó không tự dẫn đến tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường, thậm chí
chính những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường còn làm ảnh hưởng đến xã hội và
môi trường. Quy luật “mạnh được yếu thua”, “cá lớn nuốt cá bé” trên thị trường trong đó kẻ mạnh chưa hẳn do mạnh về năng lực, hiệu quả mà mạnh về thủ đoạn, bạo
lực, nhờ may rủi, nhờ quyền lực; kẻ yếu có thể yếu do rủi ro (thiên tai, bệnh tật…) - đã
khoét sâu khoảng cách chênh lệch về mức sống, điều kiện sinh hoạt giữa các nhóm
người một cách bất công, dẫn đến sự tích tụ mâu thuẫn xã hội và tạo ra sự bất ổn về
lâu dài. Cơ chế thị trường còn dẫn đến sự gia tăng dân số ở nhóm người nghèo, kéo
theo những vấn đề việc làm, giáo dục, y tế, di dân tự do, năng suất lao động xã hội
giảm. Bản thân cơ chế thị trường không khắc phục được các vấn đề ô nhiễm môi
trường. Vì lợi nhuận, các doanh nghiệp không muốn đầu tư bảo vệ môi trường khiến
dân cư phải chịu khói bụi, nước bẩn, tiếng ồn, bệnh tật…Những mặt trái đó của cơ chế
thị trường cũng không thể khắc phục được bằng cơ chế cộng đồng - một cơ chế giải
quyết vấn đề trên cơ sở tự nguyện, tự giác và trong phạm vi một khu vực nhất định, mà

21


cần phải có sự điều tiết của nhà nước để đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường
sống, điều chỉnh những hậu quả do lợi ích kinh tế thị trường gây ra, giúp đỡ và bảo vệ
những bộ phận dân cư thiệt thòi trong xã hội…
Như vậy, sự phát triển hài hòa kinh tế, xã hội và môi trường là yêu cầu khách
quan trong phát triển. Tuy nhiên không có nghĩa là sự thống nhất đó tự nó sẽ diễn ra,
mà rất cần đến vai trò của chủ thể, mà trước hết là vai trò của nhà nước trong việc
quản lý theo mô hình PTBV.
Thứ hai, do những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến PTBV.
PTBV trong thời đại ngày nay đi liền với chính sách mở cửa, giao lưu và hợp
tác với các nước, mở rộng quan hệ đối ngoại. Đây là một yêu cầu tất yếu, là một xu thế
khách quan của tất cả các quốc gia nhằm tranh thủ thành tựu của các nước đi trước
như: vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm phát triển đất nước… để tránh tụt hậu,
đồng thời có điều kiện để phát huy lợi thế của mình, tham gia vào phân công lao động
quốc tế. Điều đó chỉ có thể thực hiện được thông qua nhà nước một cách có hiệu quả
đồng thời giữ vững được độc lập tự chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia và giữ gìn bản sắc dân
tộc. Mặt khác, khi hội nhập quốc tế, không chỉ có những “ngọn gió lành” mà còn cả
những “cơn gió độc” xâm nhập vào đất nước qua biên giới như: văn hóa phẩm đồi
trụy, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh lan truyền, tệ nạn xã hội, bất ổn kinh tế thế giới,
xung đột vũ trang….PTBV đất nước trong điều kiện như vậy đòi hỏi phải có sự can
thiệp của nhà nước để có thể giảm thiểu những khó khăn, thách thức và tận dụng
những thuận lợi do hội nhập quốc tế mang lại.
Thứ ba, để thực hiện được mục tiêu PTBV, bên cạnh việc sử dụng hợp lý, tiết
kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên đất nước thì giải pháp chiến lược phải là phát triển
nền kinh tế tri thức. Trong thời đại ngày nay khi cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
phát triển như vũ bão thì yêu cầu khách quan về phát triển khoa học công nghệ cũng
như giáo dục đào tạo càng được đặt ra cấp thiết. Bởi quá trình tăng trưởng kinh tế đất
nước đòi hỏi phải có tính sáng tạo, tính chuyên môn cao, nên cần phải có đội ngũ cán

bộ tài ba, phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản, có hệ thống và được bố trí
hợp lý. Kinh nghiệm thành công của những con rồng châu Á và bài học không thành
công của các nước Trung Đông cho thấy, sự PTBV nền kinh tế phải bắt đầu từ con
người và dựa vào con người chứ không phải dựa vào các mỏ than, giếng dầu hay đồn
điền cao su...Để thực hiện được yêu cầu đó cần phải dựa vào chiến lược và sự đầu tư
22


ưu tiên của nhà nước với các cơ chế, chính sách phù hợp. Do đó, sự tác động của nhà
nước vào lĩnh vực khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo trở thành một nhân tố
quyết định đối với sự PTBV đất nước.
Thứ tư, kinh nghiệm thành công cũng như không thành công ở Việt Nam và các
nước khác cho thấy, sự thành bại của một quốc gia trước hết phụ thuộc vào chiến lược
phát triển. Trên thế giới, các quốc gia đã cùng nhau xây dựng nên một định hướng
chung về PTBV, song để có thể áp dụng được vào nước mình thì mỗi quốc gia phải
căn cứ vào điều kiện cụ thể để xây dựng nên một chiến lược riêng cho phù hợp. Việc
xây dựng chiến lược phát triển không ai có thể thực hiện được ngoài nhà nước. Bởi
chiến lược phát triển đất nước cần sự đầu tư to lớn về nhân tài, vật lực, về khả năng
bao quát thực tiễn, dự báo hướng phát triển của đất nước, và nhất là vẫn phải giữ vững
định hướng chính trị mà giai cấp cầm quyền hướng tới.
Thứ năm, PTBV không chỉ cần một chiến lược đúng đắn mà còn rất cần môi
trường thuận lợi, trước hết đó là sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội. Thực tiễn cho
thấy, một đất nước thường xuyên xảy ra các cuộc chiến tranh giữa các dân tộc; các
tầng lớp dân cư mâu thuẫn nhau hoặc trong kinh tế thường xuyên xảy ra các cuộc
khủng hoảng thì đất nước đó không thể phát triển kinh tế cũng như xã hội. Một số
nước châu Phi rất giàu có về tài nguyên nhưng luôn trong tình trạng chiến tranh sắc
tộc, nên chẳng những đất nước không phát triển được mà còn lâm vào cảnh nghèo đói.
Do đó, ổn định chính trị, xã hội là điều kiện nền tảng để PTBV. Và để có ổn định, cần
có nhà nước để thiết lập nên các khuôn mẫu mang tính tích cực.
Cuối cùng, PTBV đất nước liên quan đến các ngành, các cấp, mọi cá nhân, tổ

chức xã hội…tức nó có tính xã hội hóa cao. Chỉ có thể nói đến sự phát triển khi các
ngành, các vùng trọng điểm biết phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình, khi mọi
người được khuyến khích ra sức làm giàu hợp pháp, tham gia công tác xã hội, tích cực
bảo vệ môi trường và những người có công trong việc thúc đẩy tiến bộ khoa học công
nghệ, giáo dục đào tạo được động viên, khen thưởng. Mặt khác, PTBV cũng đòi hỏi
phải tập trung một lượng vật chất lớn, do đó, để phát huy sức mạnh nội lực, phối hợp
được các hoạt động cần có sự điều phối của nhà nước.
Có thể nói, những lý do trên đây đã chứng minh rằng, nhà nước có vai trò rất
quan trọng đối với sự PTBV một quốc gia, đồng thời cũng thấy rằng vai trò đó chỉ có
thể thực hiện được với một nhà nước trong sạch, vững mạnh gồm những người quản lý
23


×