Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Quá trình đổi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 14 trang )

QUÁ TRÌNH ĐỔI MỨI CHÍAIH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA VIỆT NAM ĐẨU THẾ KỶ XXI
Cù Văn Trung*

Tóm tắt
Bất kỳ dân tộc nào trong quá trình hình thành và phát triển của mình
đêu phải xử lý hai van đê cơ bản. Đó là van đê đôi nội và đôi ngoại. Hai
vấn đề này có mô'i quan hệ hữu cơ, biện chứng, tác động qua lại, lẫn nhau,
tạo thế và lực cho nhau. Trong các thành tố đó thì nội lực đóng vai trò
quyết định. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta
luôn chú trọng hoạt động đôx ngoại. Ông cha ta đã tạo dựng một truyền
thông và bản sắc độc đáo của ngoại giao Việt Nam đầy hào khí. Đó là
chính sách đối ngoại giàu tính nhân văn, hoà hiếu, linh hoạt và chủ động.
4Ạ'

1

?*

*

1 /

1



A
A

1



*

_

Ạ/_

iA '

ỊLẠA

A.I

f

T



Trong thời kỳ Đổi mới đất nước, Việt Nam luôn coi trọng chính
sách đối ngoại và đặc biệt quan tâm đến các hoạt động ngoại giao.
Chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết tâ't cả các nước
trên thê' giới. Quan hệ kinh tế với các tô’ chức quôc tế diễn ra sôi động,
rộng khắp. Điều này góp phần nâng cao vị thế và hình ảnh của Việt
Nam đến với bạn bè năm châu. Nhìn nhận một cách sâu sắc và toàn
diện những thành tựu đó có thê’ thây vai trò to lớn của việc hoạch định
và triển khai chính sách đôì ngoại của Việt Nam. Bài viết này mong
muốn làm rõ những nội dung mới trong tư tưởng tiếp tục chỉ đạo của
Đảng vẽ chính sách đối ngoại. Bài viết lựa chọn thời điểm từ năm 2001 đến nay để tìm hiểu phân tích những nét tiêu biểu và các yếu tô' mới đã
bô sung, phát triển trong chính sách đô'i ngoại của Việt Nam hiện nay.


' Khoa Khoa học Chính trị, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN.


Quá trình đôi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam ...

1. Bối cảnh nào cho đổi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam?
Những thuận lợi và kh ó khăn trên thê giới
Vào những năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình thế giói có nhiều
biến động mạnh mẽ. Trong quan hệ quốc tế diễn ra với các xu hướng
khác nhau, nổi bật lên là xu hướng đa cực. Hậu quả từ việc Liên Xô tan
rã, sụp đổ dân tới trật tự hai cực Ianta với hai quốc gia hùng mạnh nhất
là Hoa Kỳ và Liên Bang Xô Viết không tồn tại. Các quốc gia mói nổi
cũng nhanh chóng muôn gây tầm ảnh hướng và luôn có những động
thái mới mẻ tác động vào các hoạt động, sự kiện chính trị chung của thế
giói. Do đó thế giói tổn tại các dạng thức quyền lực mói ở các khu vực
khác nhau vơi các quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Nga và
các nước ờ khu vực Bắc Âu. Điều này cho thấy trật tự thế giói mói đã
được thiết lập, quyền lực trong quan hệ quôc tê' bị kiềm chê' đối trọng
và tác động lẫn nhau. Nó đổng nghĩa vói việc đan xen, chổng chéo tầm
ảnh hưởng của các nưóc trong quan hệ chính trị quốc tế.
Nếu như trước đây các nưóc coi sức mạnh của lực lượng quân sự
là chủ đạo và làm nên sức mạnh quôc gia thì vào giai đoạn này nhận
thức mói đã được thay đổi, các nưóc nhanh chóng cọi trọng phật triển
kinh tế. Điều đó dẫn tói việc chạy đua bằng kinh tế diễn ra ào ạt, các tập
đoàn lón, tập đoàn xuyên quốc gia vói các dự án đầu tư diễn ra khắp
mọi nơi, tạo ra môĩ liên kết với các quỹ tiền tệ của các ngân hàng khu
vực và ngân hàng thế giới
Một trong nhũng đặc điếm nổi trội và dễ nhận thây của những biến
đổi thế giới là xu thê'toàn cẩu hóa. Một xu thế lớn, chủ đạo và xuyên suô't

cho tói nay. Các quôc gia bị cuốn vào xu thế này, nó đan xen các lợi ích và
các nhiệm của các nưóc với nhau. Nó len lỏi vào các hoạt động từ vĩ mô
đêh vi mô của các nhà nước khiên họ cần hợp tác và phụ thuộc.
Toàn cầu hóa mà trưóc hết là toàn cầu hóa kinh tế thê" giói là hệ
quả của quá trình hội nhập thường xuyên của tất cả các nền kinh tếlón
nhỏ theo nhũng luật chơi chung được các quốc gia thừa nhận. 'Toàn
cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuôn các nưóc, bao trùm hầu
hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy, vừa hợp tác và tính tùy thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế" [1; tr.157].
109


Cù Văn Trung

Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra mạnh mẽ, đem lại một
thời kỳ phát triển bằng công nghệ thông tin, bằng sức mạnh trí thức và
châ't xám. Các thành tựu của khoa học kỹ thuật được ứng dụng trong
các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, y tê', giáo dục...làm phong phú
và đem lại kết quả tốt đẹp như mong muốn của con người. Nó góp
phần đem lại chất lượng và giá trị lớn cho xã hội. Như vậy, "cuộc cách
mạng khoa học công nghệ mới tạo ra diện mạo, đặc trưng của thể giới
thúc đây quá trình hợp tác giữa các quốc gia nhằm hình thành nền kinh
tế tri thức trên phạm vi toàn cầu" [2; tr.16].
Hòa bình hợp tác cùng phát triển là xu thế tác động mạnh mẽ đến
quan hệ quốc tế. Trải qua hai cuộc đại chiến thế giới tất cả các nước đều
nhận thấy sự nguy hiểm của việc bùng nổ chiến tranh, không thể đưa
đất nước phát triển trong điều kiện chiên tranh. Hòa bình, hợp tác cùng
phát triển là con đường duy nhất đê’ phát triển toàn diện và mang lại lợi
ích to lớn cho các quốc gia. "Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu
thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quôc gia, dân tộc" [3; tr.14].

Do đó, các quổc gia trong cộng đồng quổic tế không còn thanh toán
nhau bằng vũ khí, chiến tranh mà đã tích cực hợp tác hòa bình.
Những khó khăn
Ngoài những mặt thuận lợi như đã phân tích trên, trong bô'i cảnh
của tình hình mới cũng xuất hiện nhiều khó khăn và tiêm ẩn nhiều
nguy cơ đan xen trong các yếu tố thuận lợi.
Trong quan hệ quôc tếxuẩt hiện các chủ thể tranh giành tiêng nói
và ảnh hường của nhau. Do đó làm tăng tính mâu thuẫn và hiềm
khích lẫn nhau dẫn tới khó tìm tiêhg nói chung trong các diễn đàn và
các hội nghị quôc tế cũng như nguy cơ về các xung đột trong tranh
chẩp lãnh thổ và chủ quyền biển đảo. Thêm vào đó là toàn cầu hóa
làm cho các nhà nước nghi ngờ lẫn nhau. Các giá trị của nước này
nước kia nhanh chóng ào ạt, vượt các biên giới nên các quôc gia luôn
tính tới lợi ích khi các yêu tô' văn hóa được truyền đi. Thêm vào đó là
vấn đề hợp tác còn gặp khó khăn do bất đồng quan điểm, ý thúc hệ
củng như dân tộc, văn hóa làm cho các nước chưa chung tay giải
quyết các mặt trái của toàn cầu hóa.
110


Quá trình đôi mới chính sách đôi ngoại của Việt Nam ...

Toàn cầu hóa là một cuộc đấu tranh dân tộc gay gắt cho một thế
giới hòa bình, bình đẳng, thoát khỏi sự áp đặt của các thế lực tư bản
quôc tế. "Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hĩnh
thức và mức độ khác nhau vẫn tổn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn.
Đâu tranh dân tộc và đâu tranh giai câp tiếp tục diễn ra gay gắt"
[4; tr.13]. Các nước tư bản, các công ty tư bản xuyên quôc gia nắm trong
tay những nguồn lực vật chất hùng mạnh như vôn, kỹ thuật, châ't xám
và chi phôi mạnh mẽ toàn thế giói

Khoa học kỹ thuật phát triển dẫn tói các hoạt động trong nó chứa
đựng các thông tin, hiệu ứng và dòng tiền đầu tư cũng như hoạt động
kinh doanh của nhà nưóc và tư nhân. Trong khi đó loại tội phạm công
nghệ cao cũng đang phát triển và hưóng tói việc ăn cắp bản quyền, lây
trộm tiền của công dân bằng cách phân tích thông tin cá nhân, lần mò
các hoạt động kinh doanh.
Thế giói tổn tại những mâu thuẫn lón. Những tồn tại được thế hiện
dưới dạng vừa hợp tác vừa đấu tranh trên nhiều phương diện. Các hoạt
động khủng bố, tranh châp về biên giới lãnh thổ, các xung đột dân tộc,
tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ ly khai vẫn còn tồn tại vói tính chất
ngày càng phức tạp. "Khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình
Dương, sau khủng hoảng tài chính - kinh tê' có khả năng phát triển
năng động nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định". [5; tr.14]
Rõ ràng, các xu thế chính trong cục diện thê'giới tác động trong
mối quan hệ qua lại với nhau, vừa có tính độc lập tương đôì vừa mang
tính nhân quả. Bôi cảnh quốc tế tạo ra nhiều cơ hội nhưng củng không
ít khó khăn trong quan hệ quốc tế.
Tình hình kinh tê'- chính trị Việt Nam 1986 - 2001
Bước sang thế kỷ mói, Việt Nam cũng đang đứng trước những cơ
hội lón song cũng gặp không ít những vân để khó khăn, thách thức.
Về kinh te
Sau thời gian đổi mói, mở cửa hợp tác, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu về kinh tế tạo cơ sở vững chắc cho việc phát triển ở giai
đoạn sau này. Đời sông vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện
111


Cù Văn Trung

rõ rệt. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động

trong xã hội được nâng lên đáng kể.
Từ chỗ bị bao vây câm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế
vói hầu khắp các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong
nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, chủ động từng bưóc hội nhập
có hiệu quả vơi kinh tế thế giới "Nền kinh tê'có bước phát triển mói về
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuâ't và hội nhập kinh tế quốc tế; đời
sông vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã
hội không ngừng tiến bộ; thế và lực của đâ't nưóc hơn hẳn 10 năm
trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đây
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa" [6; tr.152].
Nên kinh tế Việt Nam đã lây lại được đà tăng trưởng vói tốc độ năm
sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng bình quân mỗi năm trong 3 năm
2001-2003 đạt 7,06% không những cao hơn hẳn tốc độ tăng bình qụân
6,95% [7] mỗi năm trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 mà còn đứng vào
hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và thế giới
Đời sông các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện và xóa đói, giảm
nghèo đạt kết quả khả quan. Do kinh tế tăng trưởng vói tốc độ tương đôi
cao, giá cả ổn định và việc điều chỉnh mức lương tôĩ thiểu từ 180.000 đổng
lên 210.000 đổng năm 2001 và 290.000 đổng đẩu năm 2003, [107] cùng vm
việc triển khai nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo nên đời sông các
tầng lóp dân cư ở cả thành thị và nông thôn tiêp tục được cải thiện.
Việt Nam đã bưóc đầu xây dựng nền kinh tê' thị trường theo định
hương xã hội chủ nghĩa, đã thúc đẩy hội nhập kinh tế thế giói. Hệ
thông tài chính ngân hàng được đổi mới, thực hiện nền kinh tế nhiều
thành phẩn, chính sách tự do hóa thương mại, mờ cửa nền kinh tế, bãi
bò các rào cản "ngăn sông cấm chợ" trưóc đây. "Kin/ĩ tế tăng trưởng khá.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm 7%... Năm
2000 đã chặn được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tê' các chỉ tiêu
chủ yêu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra" [8; tr.69].
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa đủ để vượt

qua tình trạng nưóc nghèo và kém phát triển, chưa tương xứng với tiềm
năng của đất nưóc. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so


Quá trình đối mới chính sách đôi ngoại của Việt Nam ...

với mức trung bình của thế giói và kém nhiều nước xung quanh. Thực trạng
kinh tế- xã hội vẫn còn những mặt yếu kém, bất cập [9; tr.152-153].
Về chính trị
Sau khi tiến hành đổi mói đến những năm đầu thế kỷ XXI, hệ
thống chính trị của Việt Nam được giữ vững ổn định. Nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa được khôi phục và củng cô', quyền lực Nhà nước được
xây dựng theo nguyên tắc thông nhất do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được xây dựng, hệ
thông chính trị vẫn giữ vửng nền tảng chủ nghĩa Mác -Lênin và Tư
tưởng Hổ Chí Minh.
Công tác lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được đổi mói
theo hướng tập trung vào tổ chức xây dựng bộ máy lãnh đạo các cấp,
các ngành được hoàn thiện, tinh gọn; đề ra đường 101, chủ trương, chính
sách lón cho sự phát triển, lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá những
đường lối, chủ trương đó. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
được cải thiện và nâng cao. Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, khối đại đoàn kết dân tộc vẫn được giữ vững.
Quan hệ đối ngoại của Việt Nam đạt được nhiều kết quả đáng
mùng và không ngừng mở rộng hội nhập kinh tê'quốc tế. "Nưóc ta đã
tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt vói các nưóc xã hội
chủ nghĩa, các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thông, tham gia
tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong Hiệp hội
các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC); tăng cường quan hệ với các nước phát triển
và nhiều nưóc, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế khác, có quan hệ

thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư vói gẩn 70 nươc và vùng
lãnh thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đẩu tư nước ngoài"[10; tr.72].
Cùng với những nỗ lực to lớn của lực lượng vũ trang nhân dân
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những thành tựu phát triển kinh tếxã hội đã tạo điều kiện tăng cường tiềm lực, củng cô' thế trận quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân, giữ vững độc lập, chủ quyền,
thông nhâ't, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm ổn định chính trị và trật tự an
toàn xà hội. [11; tr.151-152]
113


Cù Văn Trung

2. Quá trình đổi mới chính sách đối ngoại
Quan điểm về tiếp tục đổi mói chính sách đôì ngoại của Việt Nam
trong giai đoạn này được thể hiện ở nội dung thứ bảy của báo cáo chính
trị trong văn kiện nghị quyết của Đảng như sau "phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, tiếp tục đổi mói, đẩy mạnh công nghiệp hóa - điện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa" với tiêu
đề "Mở rộng quan hệ đổỉ ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quôc tê*'.
Trước hết báo cáo khẳng định: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đổĩ tác tin
cậy của các nưóc trong cộng đồng quốc tế, phần đâu vì hòa bình, độc
lập và phát triển" [12; tr.108].
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của
xu thế hợp tác kinh tế nên đã xác định tinh thần hợp tác trên cơ sở
không chi là tình hữu nghị mà là đô'i tác kinh tế, lợi ích kinh tế.
Nhiệm vụ đối ngoại của thời kì này là duy trì hòa bình trong nước và
quốc tế, đổng thời đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo chủ quyền độc lập dân tộc, tích
cực tham gia vào cuộc đâu tranh vì độc lập dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới.

Vói mục đích triển khai các chủ trương và nhiệm vụ đôi ngoại trên.
Văn kiện Đảng đã đề cập tói vấn đề quan hệ vói các nước lớn và các
trung tâm phát triển ngay sau nội dung nhiệm vụ đôĩ ngoại. Điều này
cho thây việc quan điểm về đôì ngoại của Đảng ta với các nưóc lớn
được quan tâm và có vị trí đặc biệt trong chính sách đối ngoại. "Mở
rộng quan hệ vói các nưóc và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị,
kinh tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực" [13; tr.42].
Đại hội IX (4/2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định
"thúc đẩy đa dạng vói các nưóc phát triển đóng vai trò quan trọng
trong quan hệ quốíc tế nhất là trong lĩnh vực kinh tế, tuy đang chi phôi
quá trình toàn cầu hóa, nhưng họ cũng có nhu cầu mở rộng quan hệ
hợp tác vi lợi ích của chính họ vói nhau cũng tổn tại nhiều mâu thuân
về lợi ích, cho nên chúng ta cần và có thể tranh thủ phát triển quan hệ
đa dạng, bao gồm cả quan hệ chính phủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, khoa học, công nghệ... vói các nưóc đó đế thu hút nguồn
114


Quá trình đôi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam ...

vôn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí...tạo môi trường hòa bình, ổn
định lâu dài cho sự phát triển đất nước" [14; tr. 114-115]
Tháng 11-2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyê't 07 về hội nhập kinh tế
quôc tế. Nghị quyết đê' ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực
hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị lần thứ IX Ban Chấp
hành Trung ương khoá IX (5-1-2004) nhân mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt
các điều kiện trong nước để sóm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO); kiên quyết đấu tranh vơi mọi biểu hiện của các lợi ích cục bộ
làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong giai đoạn 2001 - 2006, Việt Nam đã tăng cương và tích cực thực

hiện chính sách đối ngoại đổi mói, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ đối ngoại trong đó có chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và giữ vững an
ninh, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là hai nhiệm vụ then chô't.
Nghị quyết sô' 07-NQ/TVV ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về "Hội nhập
kinh tế quốc tế' và Nghị quyết 08 của Ban chấp hành trung ương khóa IX
về "chiến lược bảo vệ Tổ quôc trong tình hình mới" là hai tài liệu "có ý
nghĩa chiên lược lâu dài, quyết định đôì với công cuộc đổi mới bên trong
và hội nhập vói thếgiói bên ngoài của Việt Nam" [15; tr.118].
Hoạt động đôĩ ngoại của chúng ta trong thòi gian này tiếp tục tạo môi
trường hoà bình và điểu kiện quốc tế thuận lợi đế đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nưóc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đổng thòi góp phẩn tích cực vào công cuộc đâu tranh chung
của nhân dân thê'giói vì hoà bình, độc lập, dân chủ và tiêh bộ xã hội.
Mở rộng quan hệ nhiều mặt song phương và đa phương vói các tổ
chức quôc tế và khu vực theo các nguyên fiắc tôn trọng lẫn nhau, tôn
trọng độc lập, chú quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không dùng
vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực, bình đẳng và cùng có lợi, giải quyết
các bâ't đổng và giải quyết các tranh châp bằng thương lượng hoà bình,
chông mọi hành động gâv sức ép, áp đặt vả cường quyền.
Với tư duy sáng tạo, linh hoạt, nhạy bén về chính trị, Đảng và Nhà *
nước ta đã xác định thực hiện nhâ't quán đường lối đối ngoại tự chủ, mở
rộng quan hệ quôc tê' phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quôc,
nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
115


Cù Văn Trung

Tại Đại hội Đại biêu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006), Đảng
nêu quan điểm: "thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự

chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đổi ngoại rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quôc tế. Chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tê' đổng thòi mở rộng hợp tác quôc tế trên các lĩnh
vực khác. Việt Nam là bạn, đôì tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quôc tê' và khu vực.
Nhiệm vụ của công tác đôì ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo
các điều kiện quôc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới" [16; tr.112].
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết
định đường lối, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, không để rơi vào thế
bị động; phân tích lựa chọn phương thức hội nhập đúng, dự báo được
những tình huôhg thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tê',
không để rơi vào thê'bị động; phân tích, lựa chọn phương thức hội nhập
đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội
nhập kinh tế quốc tế. "Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế theo lộ
trình, phù hợp vói chiêh lược phát triển đất nước từ nay đêh 2010 và tầm
nhìn đên năm 2020". [17; tr. 114] Tích cực hội nhập kinh tế quốc tê' là
khẩn trương chuẩn bị điều chinh, đổi mới bên trong, từ phương thức
lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ trung ương đến địa
phương, doanh nghiệp; khẩn trương xây dụng lộ trình, kế hơạch, hoàn
chinh hệ thông pháp luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp và nền kinh tế; tích cực, nhưng phải thận trọng, vững chắc.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quôc tế phải là ý chí, quyết
tâm của Đảng, Nhà nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế và toàn xã hội.
Đặc biệt, trong quan hệ với các nước lớn và với các trung tâm kinh
tế - chính trị trên thế giới. Đảng ta phát triển quan điểm về các mối
quan hệ đó qua sự khẳng định "đưa các quan hệ quôc tê' đã được thiết
lập và chiều sâu, ổn định bền vững" [18; tr.112].
Như vậy, đường lôi đôì ngoại độc lập tự chủ, rộng mớ, đa dạng hoá,
đa phương hoá quan hệ quốc tế được xác lập trong mười năm đầu của thời

kỳ đổi mới (1986-1996), đến Đại hội X (2006) được bổ sung, phát triển theo
116


Quá trình đôi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam ...

phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tê' quổc tê' hình thành
đường 101 đôì ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính
sách đôi ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốỉc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lẩn thứ XI đã
thông qua nhiều vãn kiện quan trọng, để ra đường lô'i và chính sách đô'i
ngoại của Việt Nam trong thòi kỳ phát triển mói. v ề tổng quan, đường
loi đôi ngoại cua Đại hội XI là sự tiep nôi đường loi đoi ngoại cứa các
Đại hội trước trong thời kỳ ălĐoi Mới", được khởi xưóng từ Đại hội VI
năm 1986. Đổng thời, đường 101 này có những phát triển mói phù hợp
với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong giai đoạn Việt
Nam hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giói.

1

iA'*

»

_ »

-|— \




-1

A



■\/X

1 \

. • A ,f

_ Ạ/«

4-

s

1 A'.

iA/.



_

ĩ

/


Báo cáo Chính trị của Ban Châp hành Trung ương Đảng khóa XI tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chủ trương: 'Thực hiện
nhất quán đường lối đôì ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đổng quôc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nưóc Việt
Nam XHCN giàu mạnh" [19, tr. 83].
Nhũng định hướng lớn v ề đ ôi ngoại của Đại h ội hiện nay
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và phương châm nêu
trên, Đại hội XI đã đề ra những định hưóng lơn cho cồng tác đôì ngoại
thời gian tơi. Trong đó, định hưóng tổng thể, bao trùm là nâng cao hiệu
quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quôc tê'vào
chiều sâu; còn định hương cụ thể gổm có:
Về quan hệ song phương: Tiếp tục phương châm đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, Việt Nam sẽ ưu tiên phát triển quan
hệ hợp tác và hữu nghị truyền thông vơi các nước láng giềng có chung
biên giới, đổng thời nỗ lực làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đôì
tác chủ chốt.
Là thành viên ASEAN: Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách
nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đổng ASEAN vững mạnh, tăng cường
quan hệ vơi các đôi tác, duy tri và củng cố vai trò quan trọng của ASEAN
trong các khuôn khổ họp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dưong.
117


Cù Văn Trung

Về'ngoại giao đa phương: Với phương châm là thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tê' Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng
góp ngày càng tích cực, chủ động, trách nhiệm vào các cơ chê' tổ chức,

diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu, đặc biệt là LHQ.
Việt Nam sẽ tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tê' để
đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thông, nhất là vân đề
biến đổi khí hậu.
Về biên giới lãnh thổ: thúc đẩy giải quyết những vân đề còn tồn tại
về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biên và thềm lục địa với các nước liên
quan, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên
tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giói, xây dựng
đường biên gỉới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
Về các lĩnh vực khác: Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ đối
ngoại Đảng với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng
. cầm quyền và các đảng khác, tiếp tục coi trọng và nâng cao hiệu quả
công tác ngoại giao nhân dân.
Những p h át triển m ới quan trọng trong chính sách đối ngoại
Trong bôi cảnh Việt Nam chuẩn bị hội nhập sâu rộng, đường lôi
đối ngoại của Đại hội XI đã có một số phát triển mới, quan trọng để phù
hợp với nhiệm vụ mói và tình hình mới, cụ thể là:
Lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao nhất của
các hoạt động đôi ngoại. Lợi ích quôc gia - dân tộc là lợi ích tôi cao của gần 90
triệu nhân dân Việt Nam và hơn 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài.
Hội nhập quốc tế trở thành định hướng đối ngoại lớn, lây hội nhập
kinh tế là trọng tâm và mở rộng sang các lĩnh vực khác: chính trị, quổc
phòng, an ninh, văn hóa-xã hội và ở mọi cấp độ song phương, khu vực,
đa phương và toàn cầu.
Từ chủ trương “ỉà bạn và đôỉ tác tin cậy" của Đại hội IX, Đại hội XI bổ
sung thêm Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trony cộng đong quôc tế.
Xây dựng cộng đồng ASEAN trờ thành một trọng tâm đối ngoại.
Đại hội XI khẳng định Việt Nam là thành viên ASEAN, cam kết phấn
đâu cùng các nước xây dựng thành công Cộng đổng ASEAN.
118



Quá trình đối mới chính sách đối ngoại của Việt Nam ...

Các hoạt động đôi ngoại sẽ được triển khai đổng bộ, toàn diện trên cơ
:SỎ phát huy tiềm lực của mọi lực lượng và thực thi trên mọi kênh, nhằm
tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trên mặt trận đốỉ ngoại.
Phát triển quan hệ với các Đảng cộng sản, Đảng công nhân các nưóc,
các đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập tự chủ,
hòa bình hữu nghị hợp tác cùng phát triển; mở rộng tham gia các cơ chế
diễn đàn đa phương ở khu vực và thế giới. Coi trọng và nâng cao hiệu quả
công tác đôì ngoại nhân dân. Tăng cường nghiên cứu, dự báo chiên lược
tham mưu về đối ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ công
tác đôi ngoại; thường xuyên bổi dưỡng kiến thức đôĩ ngoại.
Đồng thời Đảng cũng khẳng định "bảo đảm sự thông nhầ't của
đảng dưới sự quản lý tập trung của nhà nước đôi vói các hoạt động đôi
ngoại. Phôi hợp chặt chẽ hoạt động đốỉ ngòại đảng, ngoại giao nhà
nưóc và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị vói ngoại giao
kinh tê' văn hóa; đôì ngoại quốc phòng an ninh" [20. 238].
Và cũng tại Đại hội XI của Đảng lần này đánh dâu mốc quan
trọng là thông qua cương lĩnh xây dựng đâ't nưóc thời kì quá độ lên
CNXH, Đảng khẳng định XHCN mà chúng ta xây dựng: "dân giàu
nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh; do nhân dân làm chủ; có
nên kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuâ't tiến bộ; có nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sông ấm
no hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đổng Việt Nam bình đẳng, đoàn kê't, tôn trọng cùng phát triển;
có nhà nước pháp quyền XHCN; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nưóc trên thế giới" [15, 70]. Đặc trưng thứ 8 của con đường lên
CNXH nhấn mạnh đến "quan hệ hữu nghị vói nhân dân các nước"

và cũng khẳng định trong phương hướng: "thực hiện đường 101 đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hửu nghị, hợp tác phát triển chủ
động hội nhập quôc tế" [21; 70].
3. Một sô thành tựu cơ bản
Từ năm 2001 đến nay, với chủ trương, chính sách được cụ thế hóa
rtgàv càng sát với thực tiên, Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu và rộng hơn
119


Cù Vàn Trung

vói nền kinh tế khu vực và trên thế giói. Chúng ta triển khai hội nhập
một cách chủ động và mạnh mẽ trên tất cả các tuyến.
Về song phương, Việt Nam tích cực chuẩn bị, thúc đẩy và tiên hành
đàm phán và các thỏa thuận kinh tê', thương mại vói một sô' đôi tác quan
trọng: đàm phán và kí hiệp định khung về thương mại và đầu tư vói Hoa
Kỳ, đàm phán và kí hiệp định đốỉ tác chiến lược kinh tế vói Nhật Bản,
đàm phán hiệp định khung về đôì tác toàn diện vói EU, đàm phán hiệp
định bảo hộ vói Canada, hiệp định thương mại tự do vói Chi Lê....
Trên bình diện khu vực và liên khu vực, Việt Nam chủ động và
tích cực hơn trong các tiêh trình hội nhập Asean ngày càng tăng đi vào
chiều sâu. Chúng ta đã nỗ lực cùng với các nước thành viên ASEAN và
các đôi tác chiến lược.
Về liên kết khu vực, bên cạnh việc tiếp tục tham gia và tích cực
thúc đẩy chương trình, dự án trong khu vực, dự án trong khuôn khổ
hợp tác, tam giác phát triêh Việt Nam, Campuchia, Lào. Việt Nam phôi
hợp cùng Trung Quốc và các nưóc ASEAN thúc đẩy chương trình hợp
tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng, tích cực khuyến khích các nưóc ngoài khu
vực, các tổ chức tài chính quốc tế tham gia và hỗ trợ các dự án hợp tác
trong khuôn khổ này.

Trên phương diện toàn cầu, đàm phán gia nhập VVTO. Nhờ quyết
tâm và nỗ lực cao, chúng ta kết thúc đàm phán và được kết nạp WTO
tháng 11-2006. Sau khi trở thành thành viên chính thức vào ngày 11-112007, chúng ta tiếp tục triển khai các công tác chuẩn bị cho việc thực hiện
cam kết của minh, tham gia vòng đàm phán Doha vói mục tiêu phân đấu
để Việt Nam tiếp tục được hường những ưu đãi đặc biệt khác.
Nhìn một cách tổng thể quá trình hội nhập quốc tế Việt Nam đã
tiến bưóc dài kể từ sau khi Đảng ta phát động đổi mới. Quá trình này
gắn bó mật thiết vói quá trình đổi mói, là nội dung cơ bản của đổi mới
ở Việt Nam. Cùng vói hội nhập quôc tế nền kinh tế và thị trường quốc
tế, trở thành một bộ phận không thể tách rời.
Như vậy, với tình hình thế giói và trong nươc có nhiều biến
chuyển làm cho chính sách đôi ngoại của Việt Nam cũng có sự thay đổi
120


Quá trình đôi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam ...

đế cho phù hợp vói xu thế phát triển của thời đại. Những nhìn nhận
đánh giá về tình hình và đưa ra chiến lược phù hợp đó là một điều tạo
cho sụ phát triển Việt Nam vững chắc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, 3, 4, 5, 6, 8, 9, 10, 11, 12, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ /X, NXB Chính trị Quôc gia,
Hà Nội.
2, Võ Đại Lược, Lê Bộ Lĩnh (2005), Quan hệ Việt - Nga trong bôĩ cảnh
quôc tế mới, NXB Thế giới, Hà Nội.
7. />Tong cục Thống kê, TTXVN (2004)Tôhg quan tình hình KT-XH Việt
Nam 2001-2003.

13, 15. Phạm Quang Minh (2012), Chính sách đôí ngoại đôĩ mới của Việt
Nam 1986-2010, NXB Thế giói, Hà Nội.
16, 17 Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quôc lần thứ X, NXB Chính trị Quôc gia, Hà Nội.
19, 20, 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lãn thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

121



×