Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Một số vấn đề lý luận liên quan đến đổi mới chính sách thương mại của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.84 KB, 36 trang )

Một số vấn đề lý luận liên quan đến đổi mới
chính sách thơng mại của Việt Nam
I. Sự cần thiết phải đổi mới chính sách thơng mại
1. Đặc điểm của kinh tế Việt Nam
Qua hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có thêm thế và lực để bớc
vào giai đoạn phát triển mới. Chúng ta đã đạt đợc một số thành tựu to lớn nh nhịp
độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo
hớng tiến bộ, kiềm chế và đầy lùi đợc nạn siêu lạm phát, nâng cao đời sống nhân
dân. Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải nhận thấy rằng Việt Nam vẫn đang còn là
một nớc nông nghiệp, công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng còn kém phát
triển, cơ sở vật chất - kỹ thuật cha xây dựng đợc bao nhiêu. Nền kinh tế có mức
tăng trởng cao nhng năng suất, chất lợng và hiệu quả còn thấp. Tích luỹ từ nội bộ
nền kinh tế cha cao. Nhà nớc còn quản lý rất chặt chẽ nhiều lĩnh vực quan trọng
nh ngân hàng, bu điện, điện lực Những tệ nạn nh tham nhũng, buôn lậu, vi phạm
kỷ cơng còn nặng và phổ biến.
Tuy nhiên khó khăn còn đang tồn tại và sẽ tiếp tục phát sinh nhng những
thách đố gay go nhất của thời kỳ chuyển toàn bộ nền kinh tế từ cơ chế quản lý cũ
sang cơ chế quản lý mới và sự hẫng hụt về viện trợ, đảo lộn về ngoại thơng do có
sự sụp đổ của Liên Xô cũ và các nớc Đông Âu đã qua rồi. Không có khó khăn nào
có thể lớn hơn những khó khăn đã gặp phải trong những năm đầu khởi động ch-
ơng trình đổi mới. Khó khăn đang tồn tại và sẽ phát sinh chỉ là khó khăn của yêu
cầu phát triển, tăng tốc độ nền kinh tế chứ không phải là khó khăn có thể dẫn đến
nền kinh tế sụp đổ nh những năm trớc đây.
Mặt khác, bên cạnh những khó khăn, thách đố, nền kinh tế Việt Nam còn có
thời cơ và thuận lợi, nội lực và ngoại lực. Nếu khai thác tốt các yếu tố thuận lợi,
tận dụng đợc thời cơ sẽ cho phép khắc phục khó khăn, vợt qua thách đố, hành
trang của nền kinh tế Việt Nam trên con đờng hội nhập chứa đựng thuận lợi nhiều
hơn khó khăn, thời cơ lớn hơn thách đố.
2. Vai trò của chính sách thơng mại đối với nền kinh tế quốc dân nói chung
và đối với ngoại thơng nói riêng.
Hoạt động kinh tế trong một nền mậu dịch tự do diễn ra theo các quy luật


kinh tế, đó là quy luật về giá cả, cung cầu, quy luật cạnh tranh , các quy luật
kinh tế này tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con ngời. Nếu một nền kinh tế
nào hoạt động dới tác động, điều tiết của quy luật kinh tế thì sẽ tối đa hoá đợc lợi
nhuận có thể rút ra từ các nguồn tài nguyên hiện có.
Nhng với một nền kinh tế thị trờng không có sự quản lý của Nhà nớc sẽ dễ
dàng nảy sinh ra những khuyết tật của thị trờng nh tình trạng phân hoá giàu nghèo
rất cao, tình trạng thất nghiệp sẽ ngày càng nghiêm trọng mà từ đó sẽ nảy sinh ra
những tệ nạn xã hội, hoặc có những lĩnh vực có ích cho cộng đồng và phát triển
kinh tế nh xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu t vào giáo dục, y tế cần nhiều vốn nhng
thời gian thu hồi chậm và lợi nhuận thu đợc ít thì sẽ không đợc các nhà đầu t quan
tâm.
Chính vì những lý do trên, để hớng nền kinh tế phát triển theo hớng có lợi
nhất và phù hợp nhất với đặc điểm kinh tế của từng quốc gia, chính sách tự do hoá
thơng mại cũng cần có sự quản lý của Nhà nớc dù ở mức độ can thiệp, quản lý của
Nhà nớc vào nền kinh tế thị trờng nh thế nào lại phụ thuộc vào điều kiện lịch sử và
quan điểm nhận thức của mỗi nớc. Vì vậy, chúng ta thấy hiện nay các nớc đều sử
dụng chính sách thơng mại của mình để can thiệp vào thị trờng, thúc đẩy kinh tế
trong nớc phát triển bền vững, ổn định và khuyến khích xuất khẩu, xâm nhập ra
thị trờng nớc ngoài.
Chính sách thơng mại là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện
pháp thích hợp mà Nhà nớc áp dụng để quản lý, điều chỉnh các hoạt động thơng
mại của quốc gia trong từng thời kỳ, nhằm đạt đợc các mục đích đã định trong
chiến lợc phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó.
Chính sách thơng mại là một trong những chính sách quan trọng mà mỗi
quốc gia xuất phát từ đặc điểm và mục tiêu kinh tế - xã hội của mình xây dựng
nên một cách phù hợp. Ngoài ra chính sách thơng mại của một nớc chịu ảnh hởng
và cũng chi phối hoạt động ngoại thơng của các nớc khác.
ở Việt Nam, chính sách thơng mại đã dần xoá bỏ đợc các định kiến. Chuyển
đổi chính sách thơng mại từ quản lý theo mô hình kế hoạch hoá tập trung sang
kiểu quản lý theo cơ chế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1995 ta đã

sửa đổi lại chính sách thuế, chính sách phi quan thuế, chính sách tài chính tiền
tệ phù hợp với yêu cầu của Hiệp định CEPT, Hiệp định thuế quan của khối
APEC và của Tổ chức thơng mại thế giới WTO. Những thay đổi đó đã đợc các tổ
chức thơng mại khu vực và quốc tế công nhận, qua đó vị thế của nền kinh tế nớc
ta trên trờng quốc tế đã thay đổi đáng kể. Nền kinh tế của ta đang và sẽ hội tụ đầy
đủ các yếu tố cần thiết để hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào quá trình tự do
hóa thơng mại đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới.
Riêng đối với lĩnh vực ngoại thơng, chính sách thơng mại chịu ảnh hởng và
cũng chi phối rất lớn đến lĩnh vực này. Chính sách thơng mại đã thúc đẩy các
doanh nghiệp tích cực tham gia sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, góp phần
làm kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ cao. Cơ chế xuất nhập khẩu thể hiện
trong chính sách của Nhà nớc ngày càng mở rộng, linh hoạt đã tạo điều kiện và cơ
hội cho các doanh nghiệp chủ động tìm đối tác và thị trờng xuất khẩu. Mặt khác,
sự cạnh tranh cả ở thị trờng trong nớc và thị trờng quốc tế đã buộc các doanh
nghiệp phải cải tiến mẫu mã sản phẩm, áp dụng kỹ thuật công nghệ mới, do đó đã
nâng cao đợc khối lợng kim ngạch và chất lợng xuất khẩu.
Một vấn đề rất đáng chú ý là chính sách thơng mại đã thúc đẩy xuất khẩu tới
thị trờng đích và nhập khẩu từ thị trờng nguồn. Chính sách tự do hoá thơng mại và
các quy chế cụ thể đã giúp các doanh nghiệp mạnh dạn đầu t chế biến hàng xuất
khẩu để đa tới thị trờng tiêu dùng (thị trờng đích) và nhập khẩu, nhất là nhập khẩu
máy móc thiết bị từ thị trờng có công nghệ hiện đại (thị trờng nguồn).
Chính sách thơng mại của nớc ta đã từng bớc cụ thể hoá đờng lối đổi mới
của Đảng và Nhà nớc, đa nớc ta từ một nền kinh tế đóng sang một nền kinh tế mở,
đã và đang gặt hái đợc nhiều thành công rất đáng khích lệ.
3. Tính cấp thiết phải đổi mới chính sách thơng mại
Chính sách thơng mại là một trong những chính sách quan trọng mà mỗi
quốc gia, xuất phát từ đặc điểm và mục tiêu kinh tế - xã hội của mình xây dựng
nên một cách phù hợp. Tuy nhiên, không có chính sách thơng mại nào là phù hợp
cho tất cả các quốc gia, trong mọi thời điểm bởi vì các quy luật kinh tế chi phối
nền kinh tế của thế giới cũng nh của các quốc gia luôn luôn biến động, sự biến

động của các quy luật này kéo theo sự thay đổi chiến lợc kinh tế của từng quốc
gia, do đó chính sách thơng mại tất yếu cũng thay đổi theo.
Hiện nay, xu hớng phát triển kinh tế của thế giới đang thay đổi và xu thế tự
do hoá thơng mại ngày càng khẳng định đợc vị trí của mình. Tất cả các quốc gia,
nếú không muốn đứng ngoài dòng chảy của sự phát triển kinh tế thế giới thì buộc
phải tham gia vào quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế, từng bớc hội nhập
nền kinh tế thế giới. Cụ thể là phải mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do hoá thơng
mại, giảm bớt các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, các biện pháp bảo hộ nền
sản xuất trong nớc, ban hành những chính sách kinh tế thông thoáng hơn để thu
hút đầu t nớc ngoài và kích thích sản xuất trong nớc, khuyến khích các doanh
nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Chính vì những yêu cầu thực tiễn trên mà các nhà
hoạch định chính sách không thể không nghĩ đến vấn đề cải cách và đổi mới
chính sách thơng mại của nớc mình để phù hợp với xu thế phát triển chung của
toàn thế giới.
Đối với Việt Nam, chúng ta không thể duy trì mãi chính sách khép kín, chia
cắt trong hoạt động thơng mại và cô lập trong quan hệ quốc tế đã góp phần làm
cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, kinh tế không phát triển và tụt
hậu so với các nớc khác trên thế giới. Trong hơn 15 năm qua, Việt Nam đã không
ngừng cải cách, đổi mới chính sách thơng mại và thành công của công cuộc đổi
mới đã đợc thể hiện bằng những kết quả đáng ghi nhận nh tốc độ tăng trởng GDP,
kim ngạch xuất nhập khẩu
Có thể nói, đổi mới chính sách thơng mại là một lựa chọn tất yếu không chỉ
riêng Việt Nam mà còn là của tất cả các nớc trên thế giới.
II. Nội dung và quá trình đổi mới chính sách thơng mại
1. Khái quát chính sách thơng mại trớc đổi mới.
1.1. Chính sách thơng mại trớc đổi mới.
Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, nền kinh tế nớc ta vẫn là một nền
kinh tế lạc hậu, lệ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, phụ tùng và thiết bị của
bên ngoài. Nhà nớc vẫn duy trì chính sách kinh tế đóng, quan hệ buôn bán với nớc
ngoài cha phát triển, chủ yếu là buôn bán với các nớc XHCN, hoạt động xuất nhập

khẩu còn manh múm, chính vì vậy, chính sách thơng mại thời kỳ này chủ yếu là
quản lý, điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong nớc và giữa nớc ta với các nớc
XHCN.
Xuất phát từ nền kinh tế đợc xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu và mô
hình kế hoạch hoá tập trung ảnh hởng của hệ t tởng xã hội chủ nghĩa, độc quyền
Nhà nớc đối với ngoại thơng đã trở thành quy phạm pháp luật có tính bắt buộc.
Điều này có thể thấy đợc thông qua các khía cạnh sau:
- Nhà nớc độc quyền quản lý về ngoại thơng
Mọi hoạt động ngoại thơng đều tập trung vào Nhà nớc, Bộ Ngoại thơng là cơ
quan duy nhất thay mặt Nhà nớc quản lý hoạt động ngoại thơng. Bộ Ngoại thơng
xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu và trực tiếp phân bổ kế hoạch chó các doanh
nghiệp đợc phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đồng thời Bộ trực tiếp điều tiết, quản
lý hoạt động ngoại thơng bằng các chỉ tiêu pháp lệnh và thông qua hệ thống cấp
giấy phép xuất nhập khẩu. Vì vậy, Bộ Ngoại thơng thay mặt Nhà nớc trực tiếp
kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Trong quá trình thực hiện, nếu gặp khó khăn, vớng mắc, các doanh nghiệp phải
báo cáo Bộ và xin ý kiến chỉ đạo, không đợc tự ý sửa đổi kế hoạch.
- Nhà nớc độc quyền kinh doanh ngoại thơng
Các quan hệ thơng mại, kinh tế giữa nớc ta với các nớc XHCN kế khác đều
mang tính chất Nhà nớc và đợc thực hiện trên cơ sở các hiệp định và Nghị định th
mà Chính phủ ta ký kết với chính phủ các nớc XHCN.
Hoạt động kinh doanh ngoại thơng do Nhà nớc độc quyền, Bộ Ngoại thơng
cho phép một số doanh nghiệp quốc doanh đợc phép kinh doanh xuất nhập khẩu
trực tiếp với nớc ngoài, các doanh nghiệp này chỉ đợc kinh doanh những mặt hàng
và ngành hàng đợc cho phép. Thực chất đây cũng là những tổ chức kinh doanh
độc quyền về các mặt hàng và ngành hàng đợc giao. Tính độc quyền của Nhà nớc
trong kinh doanh ngoại thơng rất cao và gần nh là tuyệt đối. Số lợng các doanh
nghiệp đợc phép kinh doanh ngoại thơng là rất nhỏ, tính đến năm 1981, chỉ có 12
doanh nghiệp Nhà nớc đợc phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đến năm 1987 là 35
doanh nghiệp.

Tính độc quyền trong kinh doanh ngoại thơng còn đợc thể hiện trong quá
trình thực hịên hoạt động ngoại thơng, các doanh nghiệp phải thực hiện theo chỉ
tiêu pháp lệnh của Nhà nớc, điều đó nghĩa là sản xuất cái gì, xuất khẩu, nhập khẩu
mặt hàng gì, trị giá bao nhiêu, thị trờng nào hầu nh đều do Nhà nớc chỉ đạo, thậm
chỉ trong nhiều trờng hợp ngay cả giá cả cũng do Nhà nớc quy định.
Hạch toán kinh tế ở giai đoạn này chỉ mang tính chất hình thức. Thông qua chế
độ thu bù chênh lệch ngoại thơng, các khoản đợc coi là lãi phải nộp cho Nhà nớc,
các khoản đợc coi là lỗ thì đợc Ngân sách Nhà nớc cấp bù.
Tuy nhiên, từ khi Nghị định số 40/CP ngày 7/2/1980 ra đời, quyền kinh
doanh ngoại thơng đợc mở rộng hơn cho các địa phơng thông qua các tổ chức
ngoại thơng địa phơng. Mở rộng quyền xuất khẩu trực tiếp cho các liên hiệp xí
nghiệp. Các liên hiệp xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trực thuộc các Bộ quản lý
sản xuất. Từ quy định này hình thành nên Bộ quản lý Nhà nớc về ngoại thơng (Bộ
Ngoại thơng) và Bộ chủ quản của các tổ chức sản xuất đợc quyền hoạt động ngoại
thơng (Bộ quản lý ngành).
Ngoài ra, Nghị định này còn đề cập đến việc sửa đổi công tác kế hoạch hoá
xuất khẩu theo hớng thu hẹp các chỉ tiêu pháp lệnh đối với hàng xuất khẩu, cho
phép xuất khẩu những sản phẩm ngoài kế hoạch, do đó đã hình thành hàng xuất
khẩu theo kế hoạch và hàng xuất khẩu ngoài kế hoạch.
- Nhà nớc độc quyền về tài sản trong kinh doanh ngoại thơng
Do hoạt động kinh doanh ngoại thơng tập trung vào các doanh nghiệp Nhà n-
ớc, tài sản phục vụ cho lu thông và hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc quyền sở hữu
của Nhà nớc. Nhà nớc thực hiện chế độ bao cấp trong kinh doanh ngoại thơng.
Trong một thời gian dài, nguyên tắc Nhà nớc độc quyền ngoại thơng đợc mở
rộng ra toàn bộ các lĩnh vực kinh tế đối ngoại và đợc ghi vào Hiến pháp Việt Nam
năm 1980: Nhà n ớc độc quyền ngoại thơng và các quan hệ kinh tế đối ngoại
(Điều 21). Trong thời kỳ này, nền kinh tế nớc ta đợc thực hiện theo cơ chế quản lý
tập trung, hoạt động ngoại thơng đợc tập trung vào tay Nhà nớc. Bộ Ngoại thơng
có chức năng quản lý Nhà nớc (hoạch định chính sách, soạn thảo pháp luật, kiểm
tra, giám sát các hoạt động ngoại thơng ) đồng thời có chức năng chỉ đạo các

nghiệp vụ kinh doanh (ấn định các danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu, thị trờng,
phơng thức mua bán, giá cả..) từ đó dẫn đến sự lẫn lộn giữa chức năng quản lý
Nhà nớc và chức năng kinh doanh và quản lý kinh doanh.
Tuy nhiên, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có thể thực hiện đợc
trong điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội nhất định. Ngày nay, hệ thống
XHCN ở Liên Xô và các nớc Đông Âu tan vỡ, cùng với xu hớng quá trình quốc tế
hoá đời sống kinh tế xã hội, Việt Nam cũng phải thực hiện công cuộc đổi mới
toàn diện, phát triển sản xuất hàng hoá với nền kinh tế nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trờng, do đó chính sách thơng mại thời kỳ này với việc Nhà
nớc độc quyền ngoại thơng không còn phù hợp nữa. Chính vì thế, Nhà nớc ta đã
có chủ trơng đổi mới về chính sách và cơ chế quản lý đề ngày càng phù hợp hơn
với xu thế tự do hoá thơng mại đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực và trên toàn
thế giới.
1.2. Hoạt động ngoại thơng trong thời kỳ 1976-1985:
Trong bối cảnh đất nớc đã thống nhất, hoạt động ngoại thơng có những thuận
lợi mới, đồng thời có những khó khăn mới. Đất nớc đợc thống nhất, chúng ta có
điều kiện và khả năng khai thác có hiệu quả tiền năng của đất nớc (đất đai, rừng,
biển, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, nguồn lao động và yếu tố con
ngời, vị trí của Việt Nam ) để đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển du lịch, các dịch
vụ thu ngoại tệ, phát triển ngoại thơng mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật
với nớc ngoài, thu hút vốn và kỹ thuật nớc ngoài. Nhng bên cạnh những thuận lợi
mới, chúng ta cũng đứng trớc những khó khăn gay gắt bắt nguồn từ trình độ phát
triển kinh tế của cả nớc còn thấp, cơ sở vật chất và kỹ thuật còn thấp lém, kinh tế
hàng hoá cha phát triển, cha có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, nền kinh tế còn bị lệ
thuộc nặng nề vào bên ngoài. Chiến tranh kéo dài làm đã để lại những hậu quả
kinh tế nặng nề làm cho đất nớc phát triển chậm lại nhiều năm. Bên cạnh đó, một
số nớc phơng Tây đã thực hiện chính sách cấm vận và phân biệt đối xử với nớc ta.
Hoàn cảnh quốc tế không thuận lợi đó đã gây ra cho nớc ta không ít khó
khăn, nhng kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng vẫn đợc tiếp tục phát
triển.

Sau đây là kết qủa hoạt động xuất, nhập khẩu giai đoạn 1976 -1985:
Qua bảng thống kê sau chúng ta thấy:
- Kim ngạch xuất khẩu tăng dần qua các năm. Tỷ lệ tăng trởng bình quân
trong 10 năm (1976 - 1985) của xuất khẩu tăng cao hơn tỷ lệ tăng của tổng kim
ngạch buôn bán hai chiều và của nhập khẩu. Trong khi tỷ lệ tăng trởng bình quân
trong 10 năm của xuất khẩu là 13,5% thì của XNK cộng lại là 8,4%, và của nhập
khẩu chỉ có 7%/ năm.
- Trị giá xuất khẩu tuy có tăng nhng trong 10 năm (1976-1985) xuất khẩu
cũng chỉ đảm bảo đợc 30,8% tổng số tiền nhập khẩu.
- Cán cân thơng mại quốc tế luôn nghịch sai (nhập siêu) và nhập siêu có xu
hớng tăng.
Bảng 1: Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1976 -1985
Đơn vị: Triệu rúp USD
Năm Tổng
KNXNK
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thơng mại
Trị giá Tỉ lệ %
1976 1.226,8 222,7 1.004,1 -881,4 22,2
1977 1.540,9 322,5 1.218,4 -815,9 28,3
1978 1.630,0 326,8 1.303,2 -976,4 25,1
1979 1.846,6 320,,5 1.562,1 -120,5 21,0
1980 1.652,8 338,6 1.314,2 -975,6 25,8
1981 1.783,4 401,2 1.382,2 -981,0 29,0
1982 1.998,8 526,6 1.472,2 -945,6 35,8
1983 2.143,2 616,5 1.526,7 -910,2 40,4
1984 2.394,6 649,6 1.745,0 -1.095,4 37,2
1985 2.555,9 698,5 1.857,4 -1.158,9 37,6
Tổng số 18.773,0 4.423,5 14.349,5 -9.926,0 30,8
Nguồn: Giáo trình Kinh tế ngoại thơng - 1997
Hầu hết các loại hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống đều phải nhập

khẩu toàn bộ hay một phần di sản xuất trong nớc không đảm bảo.
Ngoài sắt thép, xăng dầu, máy móc thiết bị còn nhập khẩu cả hàng tiêu dùng.
Kể cả những loại hàng hoá lẽ ra sản xuất trong nớc có thể đáp ứng đợc nh lúa gạo,
vải mặc. Trong những năm 1976 -1985 đã nhập khẩu 60 triệu mét vải các loại và
gần 1,5 triệu tấn lơng thực quy ra gạo.
Xuất khẩu tuy có tăng nhng trị giá xuất khẩu quá thấp. Hàng xuất khẩu chủ
yếu dựa vào thu gom sản phẩm từ nền sản xuất hàng hoá kém phát triển: 63% trị
giá xuất khẩu của năm 1985 là nông, lâm, thuỷ sản: 28,9% là hàng công nghiệp
nhẹ và thủ công nghiệp.
2. Nội dung cơ bản của đổi mới chính sách thơng mại:
2.1. Mở rộng quyền tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cho các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 của Chính phủ về quản lý Nhà nớc đối với
hoạt động xuất nhập khẩu là một bớc ngoặt quan trọng đánh dấu sự thay đổi tơng
đối cơ bản về chính sách xuất nhập khẩu nớc ta. Từ năm 1994 trở về trớc, có thể
nói Nhà nớc ta độc quyền về ngoại thơng, hoạt động xuất nhập khẩu hầu nh chỉ
thực hiện theo cơ chế Nghị định th và giao cho các doanh nghiệp Nhà nớc thực
hiện; các biện pháp quản lý chủ yếu là phi thuế quan.
Từ năm 1994 trở đi, với sự ra đời của Nghị định 33/CP, công cụ phi thuế
quan chỉ còn giá trị đối với một số mặt hàng thuộc danh mục cấm xuất khẩu,
nhập khẩu, còn tất cả hàng hoá đều đợc xuất, nhập khẩu và chịu điều tiết bằng
thếu theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trừ một số mặt hàng thuộc danh
mục còn chịu sự điều chỉnh bằng những biện pháp quản lý phi thuế quan (Điều 4
Nghị định 33/CP) áp dụng với các mặt hàng: hàng cấm xuất, nhập khẩu, hàng
quản lý bằng hạn ngạch, hàng chuyên dụng và hàng có liên quan đến các cân đối
lớn của nền kinh tế.
Nghị định 33/CP ra đời đã mở rộng quyền tham gia kinh doanh cho tất cả
các doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện mà Nhà nớc đặt ra. Thứ nhất, các doanh
nghiệp có vốn lu động bằng tiền Việt Nam tơng đơng 200.000 USD (với doanh
nghiệp lu thông), có u tiên cho các doanh nghiệp ở các tỉnh miền núi hoặc khó

khăn về kinh tế (100.000 USD), thứ hai, phải có đội ngũ cán bộ có đủ trình độ
kinh doanh, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thơng thì đợc Bộ Thơng
mại cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, ngoài giấy đăng ký kinh doanh
bình thờng.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài cũng đợc phép tham gia
kinh doanh xuất nhập khẩu. Mặc dù thời kỳ này cha có những cơ chế khuyến
khích xuất khẩu thích đáng. Các doanh nghiệp này chỉ đợc xuất khẩu những sản
phẩm hàng hoá do chính mình làm ra.
Việc xuất nhập khẩu do khu chế xuất thực hiện đã không đợc tính vào kim
ngạch xuất nhập khẩu chung của cả nớc. Tuy những năm này, kim ngạch xuất
nhập khẩu của các khu chế xuất cha đáng kể, nhng theo thông lệ ngoại thơng
quốc tế, kết quả xuất khẩu của khu vực này thuộc phạm vi của xuất nhập khẩu.
Hoạt động gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nớc ngoài ngày càng đợc
phát triển. Riêng về gia công, hàng năm kim ngạch hàng gia công của nớc ta
chiến không dới 20% tổng kim ngạch, còn hoạt động đại lý cũng đặt ra yêu cầu
ngày càng bức xúc, song trong nhiều năm qua, các lĩnh vực hoạt động này cha có
những quy chế điều hành một cách có hệ thống, nên các doanh nghiệp cũng nh
các cấp quản lý còn nhiều lúng túng.
Bên cạnh những điểm tích cực, Nghị định 33/CP còn nhiều hạn chế và trên
thực tiễn hoạt động xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trờng đã dần dần bộc lộ
những tồn tại. Đó là quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp bị
hạn chế bởi những yêu cầu mang nặng tính thủ tục. Việc cấp giấy phép xuất nhập
khẩu theo quy định trên tuy có mặt tích cực nhất định trong giai đoạn đầu để tiếp
tục quản lý chặt chẽ hoạt động ngoại thơng ở nớc ta nhng tác động rõ nét nhất là
gây phiền hà cho doanh nghiệp, phải mất nhiều thời gian lo các thủ tục để đợc
giấy phép xuất nhập khẩu, kể cả có nhiều doanh nghiệp phải tìm mọi cách để đối
phó với các yêu cầu về vốn, về trình độ cán bộ Đồng thời cũng là điều kiện làm
xuất hiện nhiều thủ tục hành chính rờm rà, tạo kẽ hở cho sự hối lộ, tham nhũng
phía ngời xin giấy phép lẫn ngời cấp giấy phép.
Trớc những vấn đề đó Nghị định 57/CP ngày 31/07/1998 của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành Luật Thơng mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia
công và đại lý mua bán hàng hoá với nớc ngoài; Quyết định 55/QĐ-TTg ngày
03/03/1998 của Thủ tớng Chính phủ về việc phê duyệt Danh mục hàng hoá xuất
khẩu có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đã giải phóng xuất khẩu cho các
doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế và việc ban hành Quyết
định 0321/1998/QĐ-BTM ngày 14/03/1998, Quyết định 0625/1998/QĐ-BTM
ngày 03/06/1998 của Bộ Thơng mại về xuất nhập khẩu, tiêu thu sản phẩm tại Việt
Nam và gia công của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, là hết sức cần thiết
và đáp ứng đợc những nhu cầu rất bức xúc của thực tiễn.
Nghị định 57/CP đã quy định rộng hơn nhiều so với Nghị định 33/CP trớc
đây và vấn đề quan trọng nhất là từ năm 1998, Nhà nớc đã ban hành Luật Thơng
mại Việt Nam điều chỉnh mọi hoạt động thơng mại.
Tại Điều 5 Luật Thơng mại quy định thơng nhân đợc hiểu gồm cá nhân,
pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thơng mại
một cách độc lập, thờng xuyên. Điều kiện để trở thành thơng nhân cũng hết sức
đơn giản Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp
nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để kinh doanh thơng mại theo quy
định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động thơng mại thì đợc cơ quan Nhà nớc
có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thơng
nhân. (Điều 17 Luật Thơng mại)
Đối với thơng nhân Việt Nam, xuất nhập khẩu hàng hoá kể cả xuất nhập
khẩu uỷ thác và uỷ thác xuất nhập khẩu, đợc thực hiện theo giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh (Điều 3 Nghị định 57) không cần phải xin giấy phép xuất nhập
khẩu qua Bộ Thơng mại nữa. Các chi nhánh công ty, công ty cũng đợc xuất nhập
khẩu hàng hoá thích hợp, theo uỷ quyền của tổng giám đốc, giám đốc doanh
nghiệp. Những hàng hoá cấm xuất nhập khẩu hoặc xuất nhập khẩu có điều kiện sẽ
do Chính phủ trực tiếp phê duyệt hoặc uỷ quyền cho các cấp có thẩm quyền phê
duyệt. Trong trờng hợp cần thiết, Chính phủ có thể quyết định tạm ngừng xuất
khẩu, nhập khẩu với một thị trờng hoặc với một số mặt hàng nhất định để thực
hiện quyền tự vệ theo pháp luật và thông lệ quốc tế.

Mọi thơng nhân kinh doanh cùng ngành hàng đều đợc phép thành lập hội
liên hiệp hội ngành hàng xuất khẩu, nhập khẩu theo quy chế của Bộ Thơng mại.
Mọi thơng nhân Việt Nam đợc phép nhận gia công cho thơng nhân nớc
ngoài, không hạn chế số lợng, chủng loại; những mặt hàng cấm xuất khẩu, nhập
khẩu hoặc tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu đợc điều chỉnh thông qua Bộ Thơng
mại, đồng thời đợc quyền gia công ở nớc ngoài các loại hàng hoá đã đợc phép lu
thông trên thị trờng Việt Nam để kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, doanh nghiệp đợc phép
xuất khẩu, tiêu thụ những sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất hoặc không do
doanh nghiệp sản xuất theo quy định của giấy phép đầu t, trên tinh thần mở rộng
tối đa quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp FDI và khuyến khích mạnh mẽ
hoạt động xuất khẩu đối với khu vực này.
2.2. Chính sách đa dạng hoá mặt hàng và thị trờng.
Đại hội lần thứ VII của Đảng (1991) thông qua cơng lĩnh xây dựng đất nớc
trong 10 năm trong bối cảnh mới của đất nớc và của thế giới. Đại hội đã nhất trí
với chủ trơng đa dạng hoá và đa phơng hoá các quan hệ đối ngoại, thực hiện
chính sách mở cửa để phát triển kinh tế, xuất nhập khẩu đợc xác định là khâu đột
phá đầu tiên trong tiến trình Việt Nam làm bạn với tất cả các nớc.
Hội nghị Trung ơng 3 (khoá VII) đã đa ra một nghị quyết riêng về kinh tế
đối ngoại theo hớng xây dựng một nền kinh tế mở, hớng mạnh về xuất khẩu.
Nh vậy, từ đây chiến lợc công nghiệp hoá hớng về xuất khẩu đã đợc khẳng định,
điều này cũng đồng nghĩa với việc coi thị trờng bên ngoài là một động lực quan
trọng để tăng trởng kinh tế của Việt Nam.
Nớc ta tiếp tục mở rộng quan hệ buôn bán với tất cả các nớc (không phân
biệt chế độ chính trị) theo phơng thức đa dạng hoá và đa phơng hoá thị trờng. Mở
rộng thị trờng mới, khai thông những thị trờng cũ đã bị ách tắc.
ở giai đoạn này các chính sách nhằm vào đa dạng hoá các mặt hàng xuất,
khẩu khai thác tiềm năng các mặt hàng truyền thống và các mặt hàng mới mà nớc
ta đang có lợi thế.
Trong những năm 1991-1995, nhờ chuyển hớng kịp thời sang thị trờng các n-

ớc trong khu vực, nớc ta khắc phục đợc tình trạng hẫng hụt khi mất thị trờng các
nớc XHCN trớc đây, nhờ đó hoạt động xuất nhập khẩu vẫn đạt đợc mức tăng trởng
cao. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, nớc ta lại bị rơi vào thế phụ thuộc
nặng nề vào thị trờng các nớc châu á. Trong khi đó, các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của nớc ta với nhiều nớc trong khu vực lại tơng đồng, các nớc này chỉ nhập
khẩu hàng hoá của nớc ta ở dạng thô để chế biến và tái xuất đi các thị trờng khác
nên hiệu quả xuất khẩu của nớc ta rất thấp. Mặt khác, nhập khẩu của nớc ta từ các
nớc này cha phải là các công nghệ nguồn nên ảnh hởng của nhập khẩu đến biến
đổi cơ cấu kinh tế còn rất hạn chế.
Đứng trớc tình hình đó, Đảng và Nhà nớc ta kiên trì đờng lối đa dạng hoá và
đa phơng hoá thị trờng, tìm cách để doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập vào
thị trờng tiềm năng ở các khu vực địa lý khác nhau. Bên cạnh việc tiếp tục khôi
phục các thị trờng truyền thống, Nhà nớc đã quan tâm đặc biệt đến các thị trờng
không đòi hỏi hạn ngạch và những thị trờng ít chịu ảnh hởng của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ vừa qua.
Nhà nớc tăng cờng vai trò của hệ thống thơng vụ Việt Nam ở nớc ngoài;
ngoài việc cung cấp thông tin thờng xuyên còn đợc giao nhiệm vụ tìm kiếm thị tr-
ờng, kể cả việc đăng ký chỉ tiêu xuất khẩu vào thị trờng để trực tiếp giúp các
doanh nghiệp xuất khẩu.
Những năm cuối của thập kỷ 90, nớc ta đã tích cực nối lại các mối quan hệ
hợp tác toàn diện với các nớc XHCN trớc đây, đồng thời thúc đẩy việc mở rộng thị
trờng sang các thị trờng quan trọng nh EU, Nhật, ASEAN
Đặc biệt là việc ký kết Hiệp định thơng mại Việt Nam Hoa Kỳ đã mở ra
một thị trờng đầy tiềm năng đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Về chính sách mặt hàng: Nhà nớc bắt đầu chú ý đến việc xây dựng các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực, tạo mọi điều kiện đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu tối đa
các mặt hàng chủ lực nh dầu thô, dệt may, thuỷ sản, gạo, cà phê, giày dép, cao su,
hạt điều, than đá, thủ công mỹ nghệ; đồng thời khuyến khích mở rộng thêm các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới nh rau, hoa quả, thịt, hàng chế tạo cơ khí, hàng
điện tử tin học vào các thị tr ờng truyền thống nh Liên bang Nga, cộng đồng

các quốc gia độc lập SNG, Đông Âu và khu vực, nhằm tạo cơ sở vững chắc cho
tăng trởng xuất khẩu.
Đối với những loại vật t hàng hoá đợc đáp ứng chủ yếu từ nguồn sản xuất
trong nớc nh thép xây dựng, xi măng đen các loại, giấy viết, giấy trong và giấy
bao bì, đờng kính, giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu t chủ trì cùng Bộ Tài chính và
các bộ sản xuất, Bộ Thơng mại xác định nhu cầu nhập khẩu bổ sung và xây dựng
quy chế điều hành theo nguyên tắc: chỉ nhập khẩu những vật t, hàng hoá với
chủng loại, quy cách sản phẩm trong nớc cha sản xuất đợc hoặc sản xuất cha đủ
nhu cầu. Đối với loại trong nớc cha sản xuất, sẽ điều tiết chủ yếu bằng thuế.

×