Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

SỰ VẬN ĐỘNG CỦA THỂ LOẠI TRUYỀN KỲ TỪ TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ĐẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 99 trang )

QU
N



O

N


N

N

N

-----------------------

PH M THỊ LAN ANH

SỰ VẬN

NG CỦA THỂ LO I TRUYỀN KỲ TỪ

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ

N

LUẬN




huyên ngành: Văn học Việt Nam

N

– 2019


QU
N



O

N


N

N

N

-----------------------

PH M THỊ LAN ANH

SỰ VẬN


NG CỦA THỂ LO I TRUYỀN KỲ TỪ

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ

N

LUẬN



huyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Ngọc Vương

N

- 2019


LỜI CẢM ƠN

Đề tài này được thực hiện dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của
GS.TS Trần Ngọc Vương cùng sự góp ý của các Giáo sư – Tiến sĩ trong
hội đồng chấm luận văn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn những sự giúp
đỡ chân thành và quý báu đó.
Dù đã rất nỗ lực, song do khả năng và thời gian có hạn nên luận
văn không tránh khỏi những điểm khuyết thiếu. Kính mong nhận được sự
đóng góp chân thành từ các Giáo sư – Tiến sĩ cũng như quý học giả quan
tâm.

Người thực hiện

Phạm Thị Lan Anh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ẦU .............................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề....................................................................... 4
3. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 8
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 8
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài .................................................................... 9
6. Cấu trúc luận văn................................................................................... 10
hương 1:

Á L ỢC CHUNG VỀ THỂ LO I TRUYỀN KỲ.......... 11

1.1. Khái niệm thể loại ............................................................................. 11
1.2. ặc trưng của thể loại truyền kỳ ........................................................... 12
1.2.1. Đặc trưng về nội dung ...................................................................... 12
1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật .................................................................... 13
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyền kỳ ở Việt Nam 16
1.3.1. Giai đoạn thế kỷ X-XIV ...................................................................... 16
1.3.2. Giai đoạn thế kỉ XV - XVII ................................................................. 19
1.3.3. Giai đoạn thế kỷ XVIII – cuối thế kỷ XIX .......................................... 24
hương 2:

N

ỰU CỦA TRUYỀN KỲ VIỆ N M ẾN TRUYỀN


KỲ MẠN LỤC................................................................................................. 27
2.1. Tích hợp kinh nghiệm truyền kỳ khu vực...................................... 27
2.1.1. Sự tích hợp trong cốt truyện .......................................................... 27
2.1.2. Sự tích hợp trong kỹ xảo xây dựng nghệ thuật............................. 36

1


2.2. Bàn về khả năng thâu hóa thành tựu của văn học dân gian Việt
Nam trong Truyền kỳ mạn lục ................................................................... 41
2.2.1. Sự thâu hóa về chủ đề, đề tài ......................................................... 42
2.2.2. Sự thâu hóa về cốt truyện .............................................................. 45
2.2.3. Sự thâu hóa trong trình bày nhân vật ........................................... 46
2.3. Thành tựu của Truyền kỳ mạn lục................................................... 47
hương 3: SỰ TÍCH HỢP CỦA CÁC YẾU TỐ TRUYỀN KỲ TỪ SAU
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ ............................ 63
3.1. ình hình văn bản của Truyền kỳ tân phả ........................................ 63
3.2. Những xu hướng mới của truyện truyền kỳ tích hợp trong Truyền
kỳ tân phả .................................................................................................... 64
3.2.1. Quá trình “tục hóa” để tiến tới ........................................................ 64
3.2.2. Những xu hướng mới trong nội dung ............................................. 68
3.2.3. Những xu hướng mới về nghệ thuật biểu hiện ............................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92

2


PHẦN MỞ ẦU

1. Lý do chọn đề tài
Truyền kỳ là một thể loại văn học đặc trưng của văn học Việt Nam thời
kỳ trung đại. Khởi nguồn của thể loại này ở nước ta xuất phát từ nền văn học
cổ đại Trung Hoa. Từ đây, nó trở thành một thể loại mang lại nhiều thành tựu
cho nền văn học của các nước

ông Á như Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn

Quốc… với những Kim ngao tân thoại (Kim Thời Tập – Hàn Quốc), Gia tì tử
(Asai Ryohi – Nhật Bản), Tiễn đăng tân thoại (Cù Hựu – Trung Quốc)… Khi
mới hình thành ở Việt Nam, tiêu biểu là Thánh Tông di thảo tương truyền của
vua Lê Thánh Tông, truyền kỳ chưa được coi là một thể loại mà mới chỉ được
xem xét trên phương diện tác phẩm. Chỉ đến khi Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ ra đời ở thế kỷ XVI, tạo thành một tiếng vang lớn thì truyện
truyện truyền kỳ mới gây được sự chú ý. Từ đây truyền kỳ trở thành một thể
loại xuyên suốt trong tiến trình văn học Trung đại Việt Nam với lần lượt các
tác phẩm ra đời sau đó như Truyền kỳ tân phả của

oàn Thị

iểm, Lan Trì

kiến văn lục của Vũ Trinh, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích…
Từ thế kỷ thứ XV ra đời tác phẩm gây tiếng vang lớn là Truyền kỳ mạn
lục - đánh một dấu mốc quan trọng cho chặng đường phát triển của thể loại
truyền kỳ phải trải qua hai thế kỷ “im ắng”, chúng ta mới lại thấy sự xuất hiện
tiếp tục của thể loại truyền kỳ với Truyền kỳ tân phả ( oàn Thị

iểm). Như


vậy, Truyền kỳ mạn lục không phải là một dấu son rực rỡ chấm hết cho truyện
truyền kỳ ở Việt Nam. Mặc dù, truyện truyền kỳ trước và sau Truyền kỳ mạn
lục khá phát triển nhưng khi nhắc đến thể loại truyền kỳ, người ta không biết
nhiều đến các tác phẩm khác mà chỉ tập trung chú ý vào ngôi sao sáng nhất
của thể loại này.

ây là một thiệt thòi đáng kể của truyền kỳ trong sự phát

triển đa dạng và không ngừng của nền văn học Việt Nam nói chung và nền

3


văn học trung đại Việt Nam nói riêng. Sau gần hai thế kỷ để xuất hiện một tác
phẩm mới chắc chắn Truyền kỳ tân phả sẽ có những sự vận động và biến đổi
so với sáng tác của giai đoạn trước. Ngay ở nhan đề tác phẩm, chữ “tân” đã
cho chúng ta thấy điều ấy.
Quá trình hình thành, phát sinh, phát triển, hoàn thiện và tiêu vong là lẽ
tất nhiên của mọi hiện tượng đời sống xã hội. Các sáng tạo tinh thần không
nằm ngoài quỹ đạo ấy. Thể loại truyền kỳ hình thành và phát triển ở thời kỳ
văn học trung đại Việt Nam, mặc dù không còn xuất hiện trong văn học hiện
đại nữa nhưng đó chính là một tiền đề quan trọng cho sự hình thành và phát
triển của truyện ngắn và tiểu thuyết. Truyện truyền kỳ ở Việt Nam mặc dù
được các nhà nghiên cứu quan tâm khá nhiều nhưng họ chủ yếu khai thác ở
khía cạnh từng tác phẩm cụ thể, riêng lẻ là chính, nhất là dành sự quan tâm
đặc biệt cho Truyền kỳ mạn lục hoặc nghiên cứu truyền kỳ ở mức độ khái quát
hóa cao theo cả một giai đoạn hay một khía cạnh chung cùng xuất hiện ở các
tác phẩm truyền kỳ. Vì thế, luận văn của chúng tôi ra đời với mong muốn
bước đầu tìm hiểu về sự vận động của thể loại thông qua hai tác phẩm cụ thể
là Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả để thấy được con đường đi của

truyền kỳ qua hai thế kỷ, cũng từ đó dần định hình được hướng phát triển của
thể loại trong bối cảnh văn hóa, văn học chung của nước nhà.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Truyện truyền kỳ là một đề tài rộng lớn và đã được nhiều người nghiên
cứu khai thác trên nhiều phương diện khác nhau, có thể nghiên cứu từng tác
phẩm nhỏ lẻ hoặc nghiên cứu các phương diện cụ thể cùng xuất hiện ở nhiều
tác phẩm hay tiến trình hình thành, phát triển của thể loại từ khi hình thành
đến khi phát triển… ác bài nghiên cứu này xuất hiện khá nhiều trên các tạp
chí, sách báo và công trình khoa học… Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ và

4


Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm đã được khá nhiều nhà nghiên cứu lựa
chọn làm đối tượng nghiên cứu nhưng chưa có công trình nào lựa chọn hai tác
phẩm để nhìn ra sự vận động trong thể loại truyền kỳ. Về Truyền kỳ mạn lục,
phương diện tên tác giả, niên đại tác giả sống, số lượng tác phẩm... là những
vấn đề gây ra nhiều tranh cãi của các nhà nghiên cứu. Ngoài ra, những đóng
góp của Truyền kỳ mạn lục cho thể loại, mối tương quan giữa Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ và Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc)… cũng
rất được quan tâm. Có thể kể những nghiên cứu như: “Bàn thêm về tác giả,
tác phẩm Truyền kỳ mạn lục” của Lại Văn

ùng trên Tạp chí văn học số

10/2002; “Truyền kỳ mạn lục có 20 hay 22 truyện?”, “Truyền kỳ mạn lục
dưới góc độ so sánh văn học” của Nguyễn

ăng Na in trong Con đường giải


mã văn học trung đại của NXB Giáo dục năm 2006, “Tìm hiểu khuynh hướng
sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ” in trên Tạp chí văn học số
7/1987 của Nguyễn Phạm Hùng, “Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại
truyền kỳ Đông Á” của Vũ Thanh, bài viết “Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục
với Tiễn đăng tân thoại” của Trần Nghĩa in trên Tạp chí Hán Nôm số 1 năm
1987… Trong chương trình Trung học phổ thông, các em học sinh cũng mới
chỉ được tiếp cận với tác phẩm nhỏ lẻ nằm trong Truyền kỳ mạn lục (là
Chuyện người con gái Nam Xương và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên)
chứ chưa được tìm hiểu khái quát về sự phát triển chung của thể loại truyền
kỳ. Như vậy các em mới được giới thiệu về một sô tác phẩm được coi là kiệt
tác của thể loại truyền kỳ trong kho tàng văn học dân tộc.
Truyền kỳ tân phả của

oàn Thị

iểm cũng được khá nhiều các nhà

nghiên cứu lựa chọn làm đối tượng, có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu về tác phẩm như “Đoàn Thị Điểm và Truyền kỳ tân phả” của Bùi Thị
Thiên Thai in trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An tháng 9 năm 2010; “Mối liên hệ
giữa Truyền kỳ tân phả và lễ hội văn hóa dân gian” của Trần Thị Băng Thanh

5


và Bùi Thị Thiên Thai trên trang báo điện tử của Viện Văn học tháng 8 năm
2011 hay Luận văn Thạc sĩ “Khảo sát giá trị văn bản Truyền kỳ tân phả của
Đoàn Thị Điểm” của Trần Thị Hải Bình năm 2009…
Xét trên phương diện nghiên cứu về thể loại, các nhà nghiên cứu,
những người soạn sách cũng đã có ý thức tổng hợp, tập hợp các tác phẩm

được gọi chung là truyền kỳ. Ở nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa
học đã có công xác lập tên gọi của tác phẩm cũng như đánh giá về tình trạng
lưu giữ văn bản của các tác phẩm truyền kỳ.

iển hình có công trình luận án

Tiến sĩ “Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kỳ viết bằng chữ Hán
ở Việt Nam thời trung đại” của Phạm Văn Thắm năm 1996.

ông trình đã

xác lập được những tiêu chí để nhận diện và xác lập danh mục truyện truyền
kỳ đồng thời nghiên cứu tình trạng văn bản, xác định niên đại, tác giả của tác
phẩm, từ đó nêu nhận xét về nội dung và nghệ thuật của truyện truyền kỳ, góp
phần xác định giá trị của truyện truyền kỳ. Một công trình khác cũng có vai
trò tập hợp các tác phẩm truyền kỳ đó là bộ sách Truyện truyền kỳ Việt Nam
của Nhà xuất bản Giáo dục, phát hành năm 1999. Bộ sách là công trình biên
soạn, dịch và tổng hợp các tác phẩm truyền kỳ, đưa ra những khái quát chung
về cuộc đời tác giả, nội dung tư tưởng của tác phẩm chứ chưa có sự nhìn
nhận, so sánh các tác phẩm truyền kỳ với nhau để thấy mối tương quan và sự
phát triển trên phương diện thể loại của các truyện truyền kỳ. Như vậy bộ
sách này cũng mới chỉ mang chức năng tổng hợp và giới thiệu là chính.
Xét trên phương diện nghiên cứu về đặc điểm, sự vận động của thể loại,
chúng ta có thể kể đến những trang viết về một số vấn đề lí luận của văn học
trung đại Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa, trong đó có nhắc đến thể loại
truyền kỳ trong cuốn “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa”
của GS.TS Trần Nho Thìn, NXB Giáo dục, năm 2008; bài nghiên cứu “Thể

6



loại truyện kỳ ảo Việt Nam trung đại – quá trình nảy sinh và phát triển đến
đỉnh điểm” của P S. TS Vũ Thanh in trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ X
đến thế kỷ XIX – Những vấn đề lý luận và lịch sử - Trần Ngọc Vương (chủ
biên), NXB ại học quốc gia Hà Nội, năm 2015. Ở bài viết này, Vũ Thanh có
đề cập đến sự vận động của thể loại truyện kỳ ảo trong đó có nhắc đến truyền
kỳ, mà cụ thể là Truyền kỳ mạn lục – được coi là đỉnh điểm của sự phát triển
này. Ông tập trung đi sâu vào tìm hiểu sự vận động từ văn học dân gian ảnh
hưởng đến thể loại truyện kỳ ảo, cho đến khi Truyền kỳ mạn lục ra đời và bỏ
ngỏ giai đoạn sau đó từ sau Truyền kỳ mạn lục cho đến cuối thế kỷ XIX. Ông
là một người dành khá nhiều tâm huyết khi nghiên cứu về thể loại truyền kỳ
với nhiều những bài viết khác như “Những biến đổi của yếu tố “kì” và „thực”
trong truyện truyền kỳ Việt Nam” in trên Tạp chí Văn học số 6 năm 1994,
“Truyền kỳ Việt Nam thế kỷ XIX”, “Dư ba của truyện truyền kỳ, chí dị trong
văn học Việt Nam hiện đại” in trong công trình Những vấn đề lí luận và lịch
sử văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2001… Và nhiều bài viết
khác phân tích tác giả, tác phẩm truyền kỳ cụ thể. Các công trình của ông
mang tính khái quát chung cho một hoặc một vài giai đoạn lịch sử phát triển
của truyền kỳ, những đặc điểm đặc trưng của thể loại hoặc đi vào phân tích
từng tỉ mỉ tác phẩm, mở ra nhiều luận giải sắc bén cho những người muốn tìm
hiểu về thể loại truyền kỳ tham khảo.
Ngoài ra còn có một số công trình luận văn thạc sĩ như “Đặc điểm
truyện truyền kỳ Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX” của Lương Thị
Huyền Thương năm 2009 đã trình bày được các đặc trưng cụ thể của thể loại
truyền kỳ và đưa ra những so sánh cho thấy những điểm mới trong truyện
truyền kỳ giai đoạn thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, “Vị trí của thể loại
truyền kỳ trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam” của Trần Nghi
Dung năm 2012 nghiên cứu về vai trò của thể loại truyền kỳ vừa là cầu nối

7



giữa văn học dân gian với văn học viết vừa là thể loại đánh dấu sự phát triển
của văn xuôi trung đại và ảnh hưởng đến văn học hiện đại.
Có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, luận văn, luận án viết về
các tác phẩm truyền kỳ, các khía cạnh về đặc trưng thể loại, về quá trình hình
thành, phát triển của thể loại truyền kỳ, tuy vậy, vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu về sự vận động của thể loại thông qua hai tác phẩm nổi bật là
Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả. Luận văn “Sự vận động của thể loại
truyền kỳ từ Truyền kỳ mạn lục đến Truyền kỳ tân phả” hi vọng đóng góp
được một cái nhìn mới mẻ trên phương diện thể loại thông qua hai kiệt tác
truyền kỳ của dân tộc.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chính của chúng tôi khi thực hiện luận văn này là
văn bản tác phẩm Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả in trong cuốn Tổng
tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam Tập 1, do Trần Nghĩa chủ biên, NXB Thế
giới, năm 1997 và cuốn Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam của

ỗ Thị Hảo

chủ biên, NXB Khoa học Xã hội, năm 2010. Theo đó, tổng số truyện chúng
tôi khảo sát sẽ là 26 truyện: Truyền kỳ mạn lục (20 truyện), Truyền kỳ tân phả
(6 truyện). Ngoài ra là một số tác phẩm khác được sử dụng trong quá trình
phân tích, so sánh là Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Lĩnh Nam chích quái
lục (Trần Thế Pháp), Việt điện u linh tập (Lý Tế Xuyên)…
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi tiếp cận vấn đề bằng sự kết hợp của nhiều phương pháp khác
nhau để có cái nhìn bao quát toàn diện rồi đi đến phân tích, lý giải và đưa ra
những lí luận cụ thể cho công trình nghiên cứu.
dụng sẽ là:


8

ác phương pháp được sử


Phương pháp so sánh, đặt hai tác phẩm văn học trong một mối tương
quan dựa trên các phạm trù cụ thể để so sánh, đối chiếu cho thấy sự vận động,
biến đổi từ Truyền kỳ mạn lục đến Truyền kỳ tân phả, ngoài ra còn có sự so
sánh văn học dưới cái nhìn tương quan với văn hóa và lịch sử để thấy được sự
tác động qua lại giữa lịch sử, các vấn đề đời sống với văn học.
Phương pháp thống kê: sử dụng phương pháp này chúng tôi nhằm
hướng tới chỉ ra và so sánh cụ thể các luận cứ để tìm ra đặc điểm cho thấy sự
vận động về thể loại của truyền kỳ.
Phân tích – tổng hợp: Thao tác này nhằm đi vào nghiên cứu từng tác
phẩm cụ thể để đưa ra những luận cứ và lí luận cho vấn đề mình cần giải
quyết. Sau đó tổng hợp lại các ý kiến để khái quát, bao quát vấn đề. Sử dụng
phương pháp này chúng tôi muốn có một sự nhìn nhận đa chiều để không bị
bỏ sót ý.
Bằng sự kết hợp của nhiều phương pháp khoa học, chúng tôi muốn xác
lập được hệ thống luận điểm, luận cứ khoa học, từ đó lí giải và làm sáng tỏ
vấn đề.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận văn là một công trình tìm hiểu về quá trình vận động về thể loại
truyền kỳ dựa trên hai tác phẩm cụ thể là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
và Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm. húng tôi cũng hi vọng luận văn sẽ
đưa ra một kiến giải về sự vận động và biến đổi của một hiện tượng văn học
được khá nhiều người quan tâm.
Luận văn hi vọng sẽ là một đóng góp tích cực cho sự khẳng định giá trị
của một thể loại đã từng ít được quan tâm trong quá khứ.


9


6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
Phần Nội dung của luận văn chia làm ba chương:
hương 1: Khái lược chung về thể loại truyền kỳ
hương 2: Thành tựu của truyền kỳ Việt Nam đến Truyền kỳ mạn lục
hương 3: Sự tích hợp của các yếu tố truyền kỳ từ sau Truyền kỳ mạn
lục đến Truyền kỳ tân phả.

10


hương 1:
1.1.

Á L ỢC CHUNG VỀ THỂ LO I TRUYỀN KỲ

Khái niệm thể loại

Khái niệm truyền kỳ dựa trên nhiều cách diễn đạt khác nhau, tuy nhiên
cái cốt lõi để tạo nên truyện truyền kỳ chính là yếu tố “kỳ” và “ảo”. Theo lời
iáo sư Vũ Ngọc Khánh: “Theo đúng nghĩa đen của nó, truyền kỳ chỉ có
nghĩa là truyền đi, kể lại một sự lạ. Sự lạ này có thể là chuyện của thần thánh
của ma quái, chuyện có những thông tin dị biệt đối với việc đời. Bao nhiêu
những vấn đề ứng mộng mị, huyền ảo, hư thực hàm hồ đều có thể gọi là kỳ
cả”. (Kho tàng truyện truyền kỳ Việt Nam – GS. Vũ Ngọc Khánh - Nguyễn
Quang Ân, NXB Văn hóa - Thông tin, HN, 1995).

Truyền kỳ là một thể loại văn học được bắt nguồn từ Trung Quốc. ây
là một thể loại thịnh hành và phát triển nhất là vào đời

ường. Theo Từ điển

thuật ngữ văn học thì “truyền kỳ” có nghĩa là “thể loại tự sự ngắn cổ điển của
văn học Trung Quốc thịnh hành ở đời

ường. Tên gọi này cuối đời

ường

mới có. Kỳ có nghĩa là không có thực, nhấn mạnh tính chất hư cấu”(Lê Bá
Hán, Trần

ình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điển thuật ngữ văn học,

NXB Giáo dục).
Theo Từ điển Văn học (bộ mới) thì Truyền kỳ là “một hình thức văn
xuôi tự sự Trung Quốc, bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau các nhà văn nâng
lên thành văn chương bác học, sử dụng các môtip kỳ quái, hoang đường lồng
vào trong cốt truyện của ý nghĩa trần thế” [10] theo
Huệ



ức Hiểu, Nguyễn

hi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển Văn học (bộ mới),


NXB Thế giới).
Khi du nhập vào Việt Nam, truyện truyền kỳ có một dạng thức ngắn
gọn giống như một truyện ngắn của thời kỳ hiện đại. ó là sự tiếp thu từ một

11


nền văn học gốc, dựa trên các yếu tố văn hóa, đặc trưng dân tộc và cảm quan,
ý thức sáng tạo của tác giả mà truyện truyền kỳ của các tác giả Việt Nam giữ
được nét riêng của người Việt, gắn với truyền thống, văn hóa người Việt.
1.2. ặc trưng của thể loại truyền kỳ
1.2.1. Đặc trưng về nội dung
Truyện truyền kỳ là một thể loại sử dụng nhiều yếu tố kỳ ảo, ly kỳ làm
nên những câu chuyện đặc sắc để từ đó thể hiện những tâm tư, tình cảm của
tác giả, thường là những suy nghĩ, phản ánh về hiện thực đương thời. Hiện
thực đó có thể là một hiện thực tối tăm, đầy rẫy chiến tranh đấu đá như trong
Nam Xương nữ tử lục, chiến tranh loạn lạc khiến người chồng Vũ Thị Thiết
phải xung quân ra chiến trận. Trong xã hội ấy cũng có những thành phần tham
quan tham nhũng, sự bất công xã hội hiển hiện rõ rệt, điển hình như trong Túy
Tiêu truyện, nàng Túy Tiêu bị quan Trụ quốc họ Thân nhìn trúng, bị bắt về
làm vợ ông.

ến khi Dư Nhuận hi làm đơn kiện cáo lên tận triều đình cũng

không ai giải quyết cho chàng vì uy thế của quan Trụ quốc quá lớn, không ai
dám động vào. Rồi hiện thực những đời vua gần hết thời, vua quan trụy lạc,
như hình ảnh của vua Hồ án Thương trong Na Sơn tiều đối lục. ó là một vị
vua“ tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn
kho của để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng
vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan

chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay bị giết, kẻ nói điều nịnh thì được
thưởng, lòng dân động lay…”. òn quan lại trong triều thì tham của đút lót,
chạy chọt khắp nơi để hòng có chức cao, ăn chơi xa hoa vô độ, “kêu xin chạy
chọt lúc nào cũng rộn rịp những người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà
chồng chất đầy rẫy”, “khoản đãi khách khứa mỗi ngày tốn phí đến hàng
chuông thóc”, hay như trong Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, vua Trần Phế

12


ế bị con cáo vạch trần là kẻ có những việc làm tàn bạo: “đương mùa hạ mà
giở những công việc khổ dân không phải thời; giẫm trên lúa để thỏa cái ham
thích săn bắn không phải chỗ, quanh đầm mà vậy, bọc núi mà đốt, không phải
lẽ […] tạm quay xe giá, để khiến người và vật đều được bình yên?”.
Không chỉ ở chốn trần gian, nơi quan trường, kể cả trong nơi thờ cúng
như đền thờ miếu mạo, tình trạng tham ô, ăn của đút lót cũng xảy ra liên
miên. Tên Bách hộ họ Thôi chiếm đoạt ngôi đền của thần nước Việt rồi tha hồ
hưng yêu tác quái mà không ai trong đấng tối cao biết đến chỉ vì các đền miếu
xung quanh đều ăn của đút lót của hắn trong Tản Viên từ phán sự lục. Ngay
cả hiện thực về một xã hội hỗn loạn về luân thường đạo lý cũng được thể hiện
trong truyện truyền kỳ, đó là bạn bè thấy vợ bạn đẹp bèn bày cách chơi cờ bạc
để bạn cược vợ, rồi khi bạn thua âm mưu cướp vợ bạn trong Người nghĩa phụ
Khoái Châu.
Truyện truyền kỳ còn mang đậm giá trị nhân văn.

ó là niềm cảm

thương sâu sắc của tác giả đối với các nhân vật của mình, đặc biệt là người
phụ nữ trong xã hội đương thời. Người phụ nữ hiện lên trong các tác phẩm
truyền kỳ phần lớn mang trong mình nét đẹp nết na, là người phụ nữ của gia

đình, hết mực vì chồng, vì con, thậm chí còn hi sinh thân mình vì quốc gia đại
sự. Tuy vậy, số phận của họ lại gặp nhiều ngang trái, thường không có cái kết
suôn sẻ như là bị hàm oan phải chết oan nghiệt, có tài năng nhưng không
được dùng (nàng Phù Dung trong Truyện đền thiêng nơi cửa bể thuộc Truyền
kỳ tân phả có ý dâng biểu và Kê minh tập sách).
1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật
Dùng cái ảo kết hợp với cái thực làm phương thức truyền tải nội dung,
thể hiện giá trị nội dung là giá trị hiện thực và nhân văn. Yếu tố kỳ ảo được sử
dụng như một phương thức kể chuyện làm cho câu chuyện được kể thêm hấp

13


dẫn. Thông qua cái kỳ ảo, các tác giả truyện truyền kỳ kể về một thế giới
khác, vừa là qua thế giới đó để lột tả thế giới hiện thực, lại vừa là một khát
vọng ở một cuộc sống khác (cuộc sống chốn thiên cung, thần tiên…). Thế
giới tình cảm phong phú của con người với yêu ma cũng là một đặc trưng cho
sự kết hợp giữa hiện thực và kỳ ảo, điển hình là trong sáng tác Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ.

ó là cuộc tình của hai nàng yêu hoa Liễu và

chàng học trò Hà Nhân ở phía trại Tây, chàng

ào với

à Nhân đắm đuối trong cuộc

tình ấy cho đến khi được ông già hàng xóm nói cho biết là khu vườn ấy của
một nhà quan đã bị bỏ hoang 20 năm nay không có ai ở thì lấy đâu ra hai

người con gái đẹp.

ay như chàng Từ Thức vì may mắn trong một lần giải

cứu cho một cô gái lại chính là nàng tiên rồi được lấy tiên làm vợ. Chàng
Phạm Tử

ư được một lần lên du ngoạn ở chốn thiên cung để có cái nhìn về

một thế giới khác hoàn toàn mới mẻ, đây cũng chính như khát vọng của
Nguyễn Dữ muốn được thoát ra khỏi cuộc sống đầy u tối của một xã hội
đương thời mà ông đang sống, muốn bước ra khỏi tối tăm, loạn lạc để được
thỏa sức vẫy vùng…
Những motip có từ trong dân gian cũng xuất hiện nhiều ở trong các tác
phẩm truyền kỳ, bởi đây được coi là một trong những cội nguồn quan trọng
nhất của thể loại truyền kỳ ở nước ta. Tiêu biểu nhất đó là hiện tượng sinh đẻ
kỳ lạ khi bà mẹ của gã trà đồng thấy một ngôi sao rơi vào bụng mà đẻ ra một
cậu con trai (Chuyện gã trà đồng giáng sinh – Truyền kỳ mạn lục), vợ quan
Hành khiển đêm hôm ấy chiêm bao thấy rắn cắn vào mạng sườn ở dưới nách
bên tả sau đó có mang sinh ra hai người con trai (Chuyện nghiệp oan của Đào
Thị - Truyền kỳ mạn lục)… cho chúng ta nhớ đến truyện cổ tích Sọ Dừa nổi
tiếng. ay như truyện Chồng dê trong Thánh Tông di thảo gợi cho ta nhớ đến
câu chuyện Lấy vợ cóc, Lấy chồng dê trong dân gian… Motip truyện ở hiền
gặp lành, ác giả ác báo cũng có xuất hiện ở trong các tác phẩm truyện truyền

14


kỳ, như là trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Truyền kỳ mạn lục,
chàng Tử Văn vì nỗi bất bình tên Bách hộ họ Thôi cướp đền của thần người

Việt, hưng yêu tác quái, làm hại đến dân, chàng bèn mang lửa đến đốt đền.
Mặc dù bị tên Bách hộ họ Thôi kiện dưới âm ty, nhưng vì là làm việc nghĩa
nên kết cục hắn ta mới là người bị nhốt lại. Nàng Vũ Thị Thiết trong Chuyện
người con gái Nam Xương nết na, thùy mị, là nàng dâu hiếu thảo, nhưng vì bị
oan mà phải tự vẫn. Tuy vậy kết cục, nàng cũng được minh oan và yên phận
với cuộc sống cung nữ dưới thủy cung.
Nhân vật truyện truyền kỳ hiện lên chủ yếu qua sự miêu tả về ngoại
hình bên ngoài, qua tài năng, ngôn ngữ của nhân vật chứ không chú trọng vào
miêu tả diễn biến tâm lý, nội tâm nhân vật. Vẻ đẹp phẩm chất thể hiện qua
những hoàn cảnh mà nhân vật đó phải trải qua, thông qua những cử chỉ, lời
nói của nhân vật ấy, giống như nàng Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con
gái Nam Xương, nàng yêu chồng, thể hiện nỗi nhớ chồng bằng cách hằng đêm
chỉ lên vách mà nói với bé ản đó là cha bé, hay khi bị chồng nghi oan thì hết
sức muốn giải thích nhưng không được thì đành tuẫn tiết…

ay như nàng

Giáng Kiều trong Cuộc kỳ ngộ ở Bích Câu vì muốn khuyên can Tú Uyên bớt
rượu chè bê tha thì xướng những bài thơ nhắn nhủ, rồi khi bị chàng đuổi đi
cũng chỉ khóc mà van xin ở lại. Người phụ nữ liễu yếu đào tơ thể hiện qua cử
chỉ nhẹ nhàng, lời nói mềm mỏng, còn như xây dựng nhân vật nam nhi lại chú
tâm vào tài năng của nhân vật đó, như là tài thơ mà nhất là tài nhạc của Dư
Nhuận

hi, tài thơ không ai sánh bằng của Tú Uyên,…

ó là cách thể hiện

của mỗi nhân vật ở trong các câu chuyện này của các tác giả truyện truyền kỳ.


15


1.3. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyền kỳ ở
Việt Nam
1.3.1. Giai đoạn thế kỷ X-XIV
Chiến thắng năm 938 trên sông Bạch

ằng của Ngô Quyền mở ra một

trang sử mới cho dân tộc ta. Từ đây dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ
một nghìn năm Bắc thuộc, đánh dấu thời kỳ hòa bình, độc lập, tự chủ. Ý thức
độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ ngày càng được đề cao, không chỉ ở
phương diện chính trị, quân sự mà còn cả trong văn hóa, văn học. Nhất là khi
có sự xuất hiện của văn học viết.
Văn học viết Việt Nam khi mới ra đời còn chịu nhiều ảnh hưởng từ văn
học dân gian và có sự tiếp thu về thể loại từ nền văn học Trung

oa như thơ

phú, văn chính luận, văn xuôi viết về lịch sử... Những tác phẩm thời kỳ này
chủ yếu được sưu tầm từ truyện dân gian, được ghi chép, chỉnh lý hoặc gắn
liền với chức năng tôn giáo, lễ nghi, ghi chép hành trạng các vị cao tăng...
Một số tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này đó là Lĩnh Nam chích quái lục (Trần
Thế Pháp); Việt điện u linh tập (Lý Tế Xuyên); Báo cực truyện; Thiền uyển
tập anh… Nét đặc trưng nhất của thể loại truyền kỳ đã bắt đầu xuất hiện trong
các tác phẩm này chính là yếu tố hoang đường, kỳ ảo. Dù mới chỉ là những
manh nha ban đầu, chủ yếu là những ghi chép, tính sáng tạo còn chưa nhiều
nhưng những tác phẩm này lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo bước tiền
đề, đặt nền móng cho sự phát triển của thể loại truyền kỳ ở những kỷ tiếp đó.

Việt điện u linh tập kể về các vị thần linh được thờ cúng ở Việt Nam,
trong đó có các nhân quân (vua chúa), hạo khí anh linh(thần sông, thần núi),
quân thần (bề tôi trung liệt)… Theo bài Tựa đề năm Khai

ựu nguyên niên

(1329, đời Trần Hiến Tông) của Lý Tế Xuyên thì ông đã chọn kể theo phương
châm: "những bậc sáng suốt, ngay thẳng mới gọi là thần; không phải những

16


loại dâm tà, yêu quái, ma quỷ cũng gọi là thần đâu!” 27 vị thần được thờ cúng
ở Việt Nam xuất hiện trong truyện không chỉ kể về công trạng của thần lúc
sinh thời mà còn kể về sự hiển linh độ dân giúp nước sau khi mất theo công
thức "dương trợ-âm phù". ây chính là những nét làm nên sự huyền ảo, kỳ lạ
của các câu chuyện. Và những chi tiết kỳ ảo trong Việt điện u linh tập thường
gắn với sự báo mộng, hiện hồn… Như Truyện Bố Cái Đại Vương (tức Phùng
ưng), Truyện Trương Hống, Trương Hát, v.v… là truyện kể về việc thần
linh đời trước đã "hiển linh" để "phù trợ" các anh hùng đời sau chống quân
xâm lược.
Thiền uyển tập anh viết về sự tích, hành trạng của 68 vị thiền sư nổi
tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời
Ngôn Thông, Tỳ Ni

a Lưu

hi, Thảo

inh, Lê, Lý, thuộc các phái Vô

ường. Theo lời của

òa Thượng

Thích Thanh Tứ, “Thiền uyển tập anh là một tác phẩm không những có giá trị
về lịch sử Phật giáo Việt Nam mà còn là một tác phẩm truyện ký có giá trị về
mặt văn học, triết học và văn hóa dân gian”. (Trích Lời Tựa của òa thượng
Thích Thanh Tứ in ở đầu sách Thiền uyển tập anh (bản dịch của Nguyễn ức
Thọ và Nguyễn Thúy Nga). Tác phẩm thường có những dữ kiện mang màu
sắc kỳ ảo, gắn liền với sự ra đời, hành trạng của các vị thiền sư, sự cứu độ cho
nhân dân và những phép biến hóa huyền bí... Theo nhận xét của các tác giả
trong Từ điển Văn học Việt Nam – từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX về Thiền
uyển tập anh thì “các thiên tiểu truyện, truyện ký lịch sử ở đây có thể đồng
thời được xem như những tác phẩm truyền kỳ” (Lại Nguyên Ân, Từ điển Văn
học Việt Nam, từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, NXB

Q

N, 2005;

t481). Sự đầu thai hóa kiếp, biết rõ về số kiếp của mình; sư chữa bệnh hủi cho
dân chỉ bằng niệm chú vào nước lá rồi phun lên người bệnh, sư đi lại không
cần mở cửa… là những yếu tố mang màu sắc kỳ lạ, hoang đường xuất hiện

17


trong những câu chuyện về các vị thiền sư ở Thiền uyển tập anh – những dấu
hiệu đặc trưng của thể loại truyền kỳ.
Lĩnh Nam chích quái lục của Lý Tế Xuyên là một tuyển tập ghi chép lại

những câu chuyện kỳ lạ lưu truyền trong dân gian.

ó là một tập hợp các

truyền thuyết và cổ tích dân gian Việt Nam được biên soạn vào khoảng cuối
đời nhà Trần – vì thế màu sắc kỳ ảo vô cùng đậm nét.

ó là những câu

chuyện gắn với nguồn gốc người Việt hay những phong tục tập quán của
người Việt (Truyện họ Hồng Bàng, Truyện Ngư tinh, Truyện Hồ tinh, Truyện
Mộc tinh, Truyện bánh chưng, Truyện trầu cau…); có chuyện lại là sự tích từ
thời Bắc thuộc (Truyện Nam Chiếu…); có chuyện là thần tích thời Lý – Trần
(Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không, Truyện Hà Ô Lôi)… Những
yếu tố hoang đường, kỳ ảo thường xuất hiện trong văn học dân gian đều dễ
nhận thấy trong Lĩnh Nam chích quái lục như là thụ thai thần kỳ, ra đời kỳ lạ,
sức mạnh phi thường, trừ diệt yêu quái, cái chết kỳ lạ… thể hiện thái độ yêu
ghét của nhân dân và đồng thờikhẳng định tinh thần tự tôn dân tộc, niềm tự
hào dân tộc.
Những tác phẩm văn xuôi thời kỳ này mặc dù chưa thoát li hoàn toàn ra
khỏi văn học dân gian nhưng lại là cái nôi cho sự phát triển của văn xuôi ở
các giai đoạn tiếp theo, trong đó có thể loại truyền kỳ cả về nội dung và nghệ
thuật. Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái… đều là
những tác phẩm mang màu sắc yêu nước, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, ca
ngợi những vị anh hùng, địa linh nhân kiệt… đã xuất hiện từ trong văn học
dân gian. Những yêu tố kỳ ảo, hoang đường ở những tác phẩm này sẽ là tiền
đề làm nên bước phát triển rực rỡ cho thể loại truyện truyền kỳ ở giai đoạn
sau.

18



1.3.2. Giai đoạn thế kỉ XV - XVII
Sau khi giành độc lập từ tay giặc phương Bắc, đất nước ta vẫn không
ngừng bị giặc ngoại xâm xâm phạm bờ cõi, từ giặc Tống, giặc Nguyên cho
đến giặc Minh. Trong bối cảnh đó, vua tôi đồng lòng chống giặc, quyền lợi
của giai cấp phong kiến và quyền lợi của nhân dân lúc này cùng nằm trên một
chiến tuyến, tất cả vì mục đích độc lập, chủ quyền dân tộc. hính điều này đã
một phần quyết định đến nội dung tư tưởng của các sáng tác văn học trong
thời kỳ này.
Khi Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa chống quân nhà Minh và cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn kéo dài suốt 10 năm (1418-1427) đã mang về độc lập một lần
nữa cho dân tộc. Lê Lợi lên ngôi mở ra triều đại Hậu Lê (1428-1789). Nhà Lê
đi vào xây dựng đất nước và đạt tới cực thịnh vào thế kỷ XV, dưới thời Lê
Thái Tông, Lê Thánh Tông. Tuy vậy, đến cuối thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI,
xã hội phong kiến bắt đầu bộc lộ sự suy thoái của nó. Bên trong cung đình
Hậu Lê không tránh khỏi xung đột.

ặc biệt là sau cái chết của Lê Thánh

Tông, quan lại nhiều lần chia bè phái đấu đá nhau.

ất nước lục đục, nhân

dân rơi vào cảnh lầm than, là những gì của hiện thực được phản ánh vào trong
tác phẩm văn học thời kỳ này, đặc biệt là trong văn xuôi. Nội dung yêu nước
với tinh thần ngợi ca dần lắng xuống nhường chỗ cho những sáng tác mang
âm hưởng phản ánh hiện thực cuộc sống của nhân dân với tinh thần nhân đạo.
Tinh thần đó cũng được thể hiện rõ trong các sáng tác truyền kỳ, làm nên
bước phát triển rực rỡ nhất của thể loại này với dấu mốc là sự ra đời của

Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ). Nhân vật trung tâm của những truyện này
không phải là những anh hùng hào kiệt, những cao tăng, thiền sư mà là những
người dân hết sức bình thường trong cuộc sống hiện thực đang đầy rẫy những
rối ren, lầm than, đen tối.

19


Không chỉ tác động tới nội dung đề tài phản ánh, hoàn cảnh xã hội thay
đổi còn ảnh hưởng đến các hình thức nghệ thuật. Trải qua năm thế kỷ phát
triển, văn học viết không còn dựa dẫm một cách thụ động vào văn học dân
gian nữa mà phát triển định hình, cứng cáp hơn, tạo ra những bước tiến mới,
thậm chí là có những đỉnh cao trong một số thể loại. Bên cạnh việc ghi chép,
sưu tầm các câu chuyện trong dân gian, các tác giả văn học đã bắt đầu có cái
nhìn sâu sắc hơn về vai trò của văn học trong giai đoạn này. Nhu cầu phản
ánh hiện thực xã hội đã tạo nên những chuyển biến trong nhận thức về sự đổi
mới trong sáng tác của các tác giả. Từ đây, những tác phẩm văn học ra đời
mang đậm tính sáng tạo và cá tính của người cầm bút.

ây là những tiền đề

để thể loại truyền kỳ phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn này.
Thế kỷ XV văn học viết còn kế thừa cảm hứng yêu nước và âm hưởng
còn sót lại của hào khí ông . Dần dần văn học Việt Nam chuyển sang cảm
hứng thế sự, đi vào chuyện đời, chuyện người, phê phán các tệ nạn xã hội, sự
suy thoái về mặt đạo đức.
Trong tình hình đất nước có nhiều biến động trải dài suốt hai thế kỷ,
đây lại là giai đoạn phát triển và đạt đỉnh cao của truyền kỳ Việt Nam. Ở giai
đoạn này, truyền kỳ đã thoát khỏi mối ràng buộc của văn học dân gian và văn
học chức năng và mang tính sáng tạo. Thành tựu nổi bật là hai tác phẩm

Thánh tông di thảo được cho là của Lê Thánh Tông và Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ…
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm truyện truyền kỳ của tác giả Nguyễn
Dữ, bao gồm 20 truyện ngắn, được viết bằng chữ

án.

ây được xem là tác

phẩm truyền kỳ tiêu biểu nhất, từng được ví như áng “thiên cổ kỳ bút” của
nền văn học trung đại Việt Nam. Hiện nay có nhiều dị bản mang các tên gọi
như Cựu biên truyền kỳ mạn lục, Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm

20


tập chú. Văn bản đã được khắc in và sao chép lại nhiều lần để đáp ứng nhu
cầu người đọc.
Truyền kỳ mạn lục tức là truyện ghi chép những câu chuyện tản mạn
được lưu truyền.

ách đặt tên như vậy thể hiện sự khiêm tốn của tác giả

Nguyễn Dữ khi đây là một tác phẩm rất kỳ công gọt giũa, là sự sáng tạo ra
những câu chuyện kỳ lạ của tác giả, dựa trên nền tảng văn học dân gian và
tinh hoa truyện truyền kỳ của Trung Hoa.
Thánh Tông di thảo là tác phẩm được viết bằng chữ Hán, gồm có 19
truyện. Tác giả tập truyện này vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Tuy
nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng đây là tập hợp của các truyện ký trong đó có
nhiều truyện là của Lê Thánh Tông. Những câu chuyện viết theo loại hình

truyền kỳ, tạp ký và ngụ ngôn. Theo Từ điển văn học: “người viết hoặc dựa
vào truyện dân gian, hoặc dựa vào những sự kiện lịch sử (có liên quan đến
thời kháng chiến chống Minh và thời của vua Lê Thánh Tông), hoặc dựa vào
văn liệu hay thực tế cuộc sống mà cấu tạo nên truyện mới. Vì vậy có thể nói
Thánh Tông di thảo là một sáng tác phẩm, trong đó có phóng tác, có tái tạo và
có cả hư cấu”. (Theo Bùi Duy Tân, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1637). Chính
những yếu tố hư cấu này làm nên thể loại truyền kỳ của Thánh Tông di thảo,
mặc dù trong nhan đề tác phẩm không hề nhắc đến “truyền kỳ”. Yếu tố truyền
kỳ đã xuất hiện rất rõ nét trong một số truyện như Duyên lạ xứ hoa, Chuyện lạ
nhà thuyền chài, Tinh chuột… Trong Thánh Tông di thảo có truyện đề cập
đến tình yêu lứa đôi với những nhân vật nữ nết na, đức hạnh và chung thủy
với cái nhìn bao dung, nhân đạo... Ngoài ra, tiếng cười trào phúng đầy chất trí
tuệ cũng là một đặc điểm khá nổi bật của Thánh Tông di thảo. Tác phẩm này
là một cột mốc đánh dấu bước tiến của văn tự sự, từ chỗ nặng về ghi chép sự
tích cũ đến chỗ sáng tạo những truyện mới.

21


Nam ông mộng lục là tác phẩm được Hồ Nguyên Trừng viết ở Trung
Quốc, nhưng nội dung vẫn bối cảnh, con người trong cuộc sống hiện thực của
thời Lý – Trần ở Việt Nam. Tác phẩm mang đậm tinh thần dân tộc khi Hồ
Nguyên Trừng thể hiện nỗi sầu xa xứ qua những hồi ức được ghi chép, từ đó
thể hiện lòng tự tôn dân tộc, ngầm ngụ ý với bạn bè Trung Hoa về một nền
văn hóa dân tộc không hề thua kém.
Trong giai đoạn này, con người bắt đầu được đưa vào làm trung tâm
phản ánh rõ nét hơn so với giai đoạn trước đó. Truyện truyền kỳ tận dụng tối
đa đặc trưng tiêu biểu của nó là yếu tố kỳ ảo để thông qua đó phản ánh giá trị
nội dung mà tác giả muốn được nhấn mạnh. Tình tiết câu chuyện ly kỳ, hấp
dẫn, cuốn hút, người đọc được đưa đến những vùng đất thần tiên, ma quỷ,

không có thật để đi từ hồi hộp này đến bất ngờ khác. Mọi sắc thái biểu hiện từ
thấp hèn đến cao sang như là yêu quái, ma cây, quỷ dạ xoa, thần, Phật… đều
đi vào các tác phẩm truyền kỳ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể chuyện và
miêu tả để đưa các yếu tố kỳ ảo gắn liền với những hành động của con người,
từ đó làm nổi bật lên nhiều bức tranh về cuộc sống và cả những ý đồ phản ánh
của tác giả về các hiện tượng đời sống, về con người… on người trở thành
trung tâm phản ánh, chính vì thế con người trong xã hội thực có vai trò khá
quan trọng trong mỗi tình huống, có ý nghĩa cả với những thế giới hư ảo. Khi
có con người, chuyện trắng đen nơi âm ti, đền thờ miếu mạo mới được làm
sáng tỏ như trong Tản Viên từ phán sự lục, nhờ có chàng Ngô Tử Văn đốt đền
thì tên Bách hộ họ Thôi mới bị vạch trần hành vi cướp đền, nhũng nhiễu nhân
dân nơi âm ti. Trong Dạ Xoa bộ soái lục, Dĩ Thành dù là người trần mắt thịt
nhưng vì có tính tình hào hiệp, đại nghĩa nên được bọn quỷ Dạ Xoa tôn lên
làm thủ lĩnh, hết sức tiến cử cho chàng với Diêm Vương, xin cho chàng chức
Tướng Dạ Xoa; về sau chàng được bạn lập đền thờ vì hiển linh báo hiểm họa
sắp xảy đến giúp bạn cứu được cả gia đình…

22


×