Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Ranh giới mở giữa xã hội học và các ngành khoa học khác: Tiềm năng cho những nghiên cứu liên ngành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 15 trang )

RANH GIỚI MỜ GIỮA XÃ HỘI
• KỌC
• VÀ CÁC NGÀNH KHOA HỌC

KHÁC: TIỂM NÂNG CHO NHỮNG NGHIÊN cứu LIÊN NGÀNH
ThS. Đặng Hoàng Thanh Lan*

1. Liên ngành, đa ngành và xuyên ngành
N hằm làm rõ hơn ý nghĩa của khái niệm liên ngành, m ở dầu bài viết này, chúng tôi sẽ
phân biệt các khái niệm liên ngành (interdisciplinarity), đa ngành (multidisciplinarity) và
xuyên ngành (transdisciplinarity) trước khi bàn luận đến các vấn để liên ngành của Xã hội học.
M ặc dù các khái niệm liên ngành; cỉa ngành vầ xuyên ngành

thường

xuyên bị sử

dụng lẫn lộn, tu y vậy thực tế là giữa chúng vẫn tồn tại những điếm khác biệt. Đa ngành
nhấn m ạn h vào tính đối chiếu của các góc nhìn, m ang các ngành học lại gần để cùng
nhau nói vế m ộ t vấn để nhưng dưới con m ắt khác nhau của nhữ ng ngành khoa h ọ c khác
nhau. Đ a n g àn h chứa đựng rất ít những tương tác vượt ra ngoài ranh giới của từng
chuyên ngành (R esnick, 2012 ). C hẳng hạn, nhằm cung cấp những trợ giúp tố t n h ất cho
m ộ t người th u ộ c n h ó m yếu th ế tro n g xã hội (người già, người nghiện, người có vấn để
vể sức khỏe tâm th ẩ n ...) , người ta có thể hinh th àn h m ộ t đội trự giúp đa ngành
(m ultidisciplinary team ) gổm nhà tâm lý học, nhân viên công tác xã hội, y tá, dược sĩ
hay nhà vật lý trị liệu. T ro n g khi y tá có trách nhiệm chăm sóc, cung cấp cho đối tượng
điếu kiện thoải m ái n h ất vế thê’ chất, dưới cái nhìn của góc độ b ện h h ọ c thì nhà tâm lý
chăm sóc vấn đ ể tin h thần, tâm thần; và nhân viên cóng tác xã hội thì quan tâm tới moi
vấn để m ôi trư ờ n g xung quanh việc chăm sóc đối tượng n hư cung cấp nhữ ng lời gợi ý,
giới thiệu, lập k ế h o ạch nhằm bảo đảm tính liên tục từ các dịch vụ chăm sóc, hoặc tư vấn
cho gia đình về n g u ồ n lực m à họ có thê’ tiếp cận, nhờ sự h ỗ trợ, cũng có thê’ là xem xét


những m ối q u an hệ xung quanh b ện h nhân như người thân, bạn bè nhằm thay đổi
những ảnh h ư ở n g tiêu cực đến b ện h nhân nếu có (M onroe, D eloach, 2 0 0 4 ); v .v ....

* K h o a X ã h ộ i h ọ c , T r ư ờ n g Đ ạ i h ọ c K h o a h ọ c X ã h ộ i và N h â n vãn , Đ H Q G H N .


796

Đ ặ n g Hoàng T h a n h Lan

N g h iên cứu liên ngành có phẩn khác với đa ngành. Đầu tiên nó cũng là đưa các
ngành h ọ c lại gần với nhau, nhưng sau đó, từ việc kết hợp những chuyên ngành tách
b iệt lại để dần d ần tạo ra những nhóm lý th u y ết mới, công cụ mới, hoăc mô hình, cách
tiếp cận mới. N ó i cách khác đó là tạo ra nhữ ng tri thức m ới - th ứ m à sẽ khó có thê’ có
được n ếu chỉ dựa trê n n ến tảng tri thức của m ộ t ngành học (Resnick, 2012 ). N h ư vậỵ,
th ay vì chỉ h ìn h th à n h những đội ngũ cộng tác với nhau như ờ nghiên cứu đa ng àn h thì
với tín h chất liên ngành, tri thức của các ngành học đã có sự tác động, ảnh hư ởng đến
n h au ; chồng lên n h au ở m ột p h ạm vi nào đó. Biên giới “cứng” cùa các ngành họ c bắt
đầu bị p h á vỡ và b iển th à n h những biên giới “m ề m ” có th ể kéo dãn, dịch chuyển. Đ ến

lượt xuyên

ngành (transdisciplinarity), thì nhữ ng lý thuyết không chỉ

được

“nâng tầm ”

lên n h ư ở nghiên cứu “liên n g àn h ” m à chúng đã thực sự giao nhau và biến đổi to àn diện,
từ đó sinh ra m ộ t cách tiếp cận hoàn toàn m ới mẻ, m ộ t thứ hoàn toàn khác b iệt và bất

ngờ. N ó i cách khác, liên ngànhchính là sự m óc nối tri thức của các ngành khoa họ c khác
nhau và là bước đ ệm chuyển tiếp từ cách thức hợp tác nhưng độc lập trong lý luận cùa
đa ngàn h với sự b iến chuyến to àn diện về lý luận tro n g xuyên ngành.
Trên thưc tế, vể sự cần thiết của nghiên cứu liên ngành, hiện vẫn còn đang tổn tại m ột số
tranh luận. N ên hay không nên - bước ra ngoài ranh giới “lãnh thổ” của ngành nghiên cứu mà
m ộ t cá nhân nào đó là chuyên gia để dấn bước nghiên cứu tại ‘lãn h th ổ ” của m ột ngành
nghiên cứu khác không hề thần thuộc? M ột số

người cho

rằng nghiên cứu theo từng chuyên

ngành chuyên biệt m ới đúng là chuẩn mực khoa học. Tưởng tượng gióng như chúng ta bước
vào m ột ngôi nhà chứa đẩy đủ m ọi dụng cụ, từ đồ m ộc cho đến đồ hàn, từ sơn cho tới cọ vẽ.
N hững công cụ đó giống như tri thức mà từng ngành khoa học sở hữu vậy. Mọi thứ thì sẵn
có: phương pháp, sách vở, m áy móc; tuy nhiên nếu không phải là chuyên gia trong lĩnh vực
đó thì dù cho có m ượn công cụ của người khác cũng chẳng thể làm được gì. N ếu khăng khăng
áp dụng những tri thức “trái ngành” khác nào m ột anh thợ sơn cứ cố gấng cắm bút chì để vẽ
tranh thay việc cho họa sĩ. Tuy nhiên, lại có ý kiến khác đông tình với việc nền tăng nghiên
cứu liên ngành lên, việc tăng cường nghiên cứu liên ngành là xu hướrig đang có (C oast et al.
2007). M ột giả định vể nguyên nhản của xu hướng gia tăng này có thé là nhờ vào sự phổ biến
rộng rãi của những thông tin khoa học trên internet và trên các cơ sở dữ liệu tinh vi mà các
nhà nghiên cứu dễ dàng tiếp cận

được với ý tưởng của các ngành khác nhưng có liên quan tới

vấn đê' mà họ đang nghiên cứu (Crance, 2014 ). Giả định khác đó là do có m ột sổ vấn để khoa
h ọc mà chỉ có thể giải quyế: bằng cách sử dụng ý tưởng và phương pháp của nhiểu hơn một
ngành nghiên cứu. T rong bài viết này, nhằm tìm hiểu sâu sắc hơn thực trạng của xu hướng



797

RANH GIỚI M ờ GIỮA XÃ HỘI HỌC VÀ CÁC NGÀNH KHO A HỌC KHÁC:

n g h iên cứu liên ngành, c h ú n g tôi giới hạn việc bàn lu ậ n sẽ chỉ x o a y q u an h các vấn đ ể nghiên

cứu liên ngàn h của ng à n h xã hội học.

2, Những ranh giới m ờ và liên ngành trong nghiên cứu Xã hội học
Khi điểm ngược lại những luận điểm thường được đưa ra để chứng m inh xã hội học là
m ộ t ngành khoa học độc lập (có nguồn gốc tư tưởng với các tác giả kinh điển riêng, có hệ
thống lý luận, phương pháp luận riêng và có đối tượng nghiên cứu riêng của m ình), chúng
ta lại có thể thấy xã hội học chia sẻ vài phần giống với những ngành khoa học khác.
2.1. Về đối tượng nghiên cứu
K hông th ế p h ủ n h ận rằng nhìn chung xã hội học hay các ngành kh o a học xã hội
khác đều quan tâm tới các vấn đề xã hội (social problem s), dù cách thức tiếp cận tới các
vấn để có thê’ khác nhau. Bởi vậy khó tránh khỏi việc m ộ t ph án p h ạm vi nào đó của các
ngành h ọ c nói chung và Xã hộ i học nói riêng, bị trùng lặp với nhữ ng ngành học khác.
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa Xã hội học và một số ngành khoa học xã hội khác

K in h t ế
học
Khoa
ú
M '
học J ề

_ A


I /

T a m lý

; ;7

c h ín h trị

Xã hội học
N h â n ìậ
chủng®
học

' p Ị- Đ ịa lỷ

V-

'N g à n h
ng hiên c ứ u
về giao
tiếp liên
K g u ổ n : ( Ferris, Kerrỵ; Ịill Stein, 2 0 0 8 : l )

T h ô n g thường, xã hội h ọ c được phân biệt với T riết học bởi T riết họ c thường được
dùng làm cơ sở lí luận và p h ư ơng pháp luận, trong khi Xã hội h ọ c nghiên cứu lĩnh vực cụ
thể của xã hội (p h ạ m T ấ t D ong, Lê Ngọc Hùng, 2008). So với N h ân học, Xã hội học

được

coi là có điểm khác ở chỗ nó quan tâm tới các xã hội h iện đại còn N h ân học lại


quan tâm tới th ế giới bộ lạc; hoặc trong lúc các nhà Xã hội h ọ c sử dụng những phương


D ặng H oàng Th anh Lan

798

pháp định lượng để th u thập th ô n g tin thì nhà N hân họ c lại sử dụng phương pháp định
tính; và Xã hội h ọ c nghiên cứu xã hội trong khi N hân họ c nghiên cứu vấn hóa (Tischler,
2011). Khác T âm lý học, các n h à Xã hội học luôn nhìn hướng tới m ột xã hội, m ột giai
cấp xã hội hay m ộ t n h ó m xã hội chứ không nghiên cứu riêng vể riêng lẻ m ộ t cá nhân;
cũng không quan tâm vào nhữ ng nguổn sản sinh nội tại của hành vi mà họ chú tâm tới
những yếu tố b ên ngoài sản sinh ra hàn h vi (Shepard, G reene, 2001: 7). So với Kinh tế
h ọ c thì Xã hội h ọ c khác với k in h tế, bởi m ộ t bên là khoa họ c về cách thức tận dụng
những ngu ồ n lực khan hiếm để sản xuất hàng hóa và dịch vụ nhằm đạt

được sự

thỏa

m ãn tối đa của n h u cấu kinh tế (K inh tế h ọ c)(M cC o n n ell: 13) còn m ột b ên lại là ngành
nghiên cứu các m ối quan hệ, các m ô hình tương tác trong kinh tế (Xã hội học). N ếu
n h ư tro n g cái nhìn của K inh tế học, các cá nhân và các thiết chế luôn tạo ra mọi quyết
định m ộ t cách lý tín h và dựa trê n sự so sánh giữa chi phí giới hạn, các ph ú c lợi bên lể
(M cC onnell: 13) thì cái nhìn của Xã hội học lại đa chiểu cạnh hơn vể các hành vi cùa
con người, tìm hiểu những yếu tố bên ngoài khác tác động tới hành vi của họ, chứ
không chi tập tru n g vào nhữ ng lý giải h àn h vi thuần lý tính.
Đ ây là nhữ ng đư ờng ran h giới m à người ta thư ờng h ay đặt ra, kẻ giữa Xã hội học và
m ộ t SỐ n g à n h k h o a h ọ c gầ n gũ i. T u y n h iê n , sự p h â n b iệ t n h i ề u khi c ũ n g c h ỉ m a n g tính


tương đối bởi k h ô n g phải lúc nào cũng có thê’ phân biệt được những ngành học ấy với
nhau m ộ t cách ràn h m ạch, th e o lý tưởng. Đ ặc biệt, đối với Xã hội học là ngành học bao
trùm khá n h iéu các m ặt của xã hội thì lằn ranh p hân b iệt của nó lại càng mờ. Riêng tên
gọi của những chuyên ngành Xã hội họ c đã phẩn nào thê’ hiện điểu này như: Xã hội học
văn hóa, Xã hội h ọ c tô n giáo, Xã hội học giáo dục, Xã hội học m ôi trường, v .v ...
Gần đây có m ộ t bộ sách được dịch ra tiếng Việt tên là “Kinh tế học hài hước” và “Siêu
Kinh tế học hài hước”(Levitt, 2005, 2009). Lời chào mời ngoài bìa cuốn sách ghi: “Khảm
phá những khía cạnh bất ngờ còn ẩn khuất đâng sau mọi hiện tượng xã hội từ quan điểm Kinh tế
học”. Bộ sách là tập hợp từ đa dạng các chủ để: từ sự gian lận của các giáo viên phổ thông,
những ẩn ý nằm dưới quảng cáo m ua bán nhà, kết bạn qua mạng cho đến nguyên nhân dẫn
đến hiệu ứng “ngược” từ Đạo luật về người tàn tật (Disabilities Act) và Đạo luật các giống
loài bị đe dọa (Endangered Species Act), từ lý do khiến cho những tên buôn bán ma túy
vẫn sống cùng mẹ cho tới mối liên hệ giữa luật cho phép phá thai và tỉ lệ tội phạm giảm, v.v...
N h ư vậy, với m ộ t cuốn sách được trông đợi là viết từ góc nhìn của các nhà Kinh tế học
thì nó

được coi là “không có chủ đề thống nhất" - như lời của các biên

tập viên nhà xuất bản


RANH GIỚI Mờ GIỮA XÃ HÔI HỌC VÀ CÁC NGÀNH KHOA hỌC KHÁC:

799

đã nhận xét. Thật đáng tiếc cho các tác giả khi họ nhận được lời nhận xét như vậy. Bởi nếu
soi xét mọi chủ đề được nêu ra dưới ánh sáng của lý thuyết xã hội học, thì chúng là một
mạch rất xuyên suốt của câu chuyện"Con người hành động vì động cơ"(\ý thuyết hành động
xã hội), đúng như các tác giả đã tự nhận. Hơn nữa, các chủ đề và cách tiếp cận của một

cuốn sách ‘lạ ” đối với Kinh tế học lại thực sự là rất “quen” đối với Xã hội học. Sự lúng túng
của nhà xuất bản và một số độc giả trong việc nhận ra sợi chi kết nối “mạch” của các câu
chuyện xã hội đến từ việc họ không được cung cấp nến tảng về lv thuyết xã hội. Ý nghĩa của
những phân tích xã hội bị giảm đi, thậm chí là bị coi thường: “ Chẳng có nên tảng lý thuyết kỳ
diệu nào ảược xây dựng dựa trên cơ sở là những câu chuyện này hết, chỉ có một con số đáng kể
đượctính bắng tổng số các câu chuyện cộnglại (Levitt, 2009:12-13)”.

V í dụ trên đây đã thể hiện được hai điếu: thứ nhất, trong một số trường hợp, đối tượng
nghiên cứu của Kinh tế học chỉ cần thay đổi đi một chút là nó thậm chí đã có thể trở thành
đối tượng nghiên cứu của Xã hội học. Hai ngành học này gần gũi hơn chúng ta vẫn tưởng.
T h ứ hai, việc thiếu kết hợp giữa hai ngành, trong trường hợp cụ thể này, là thiếu kết hợp nền
tảng lý thuyết của Xả hội học với những gi các tác giả Levitt và Dubner tìm được dẫn tới việc
lảng phí - hoặc chí ít củng là sử dụng chưa đạt đượcđến hiệu quảmong muốn - số lượng dữ
kiện khổng lổ về xã hội mà các tác giả đã bỏ công nghiên CƯU.
T ớ i đây, một câu hỏi nữa được đặt ra là: Phải chăng “khám phá những điểu ẩn
khuất” trong những sự kiện dường như là bình thường, diẽn ra hàng ngày là đặc quyền
riêng của Xã hội học? Không. Câu trả lời rút ra được từ hai cuốn sách “Kinh tế học hài
hước” và “Siêu Kinh tế học hài hước” (Levitt) đã cho thấy không hẳn là như vậy. Bởi
thế, nếu chăng có ai cố tình kẻ đậm lằn ranh phân biệt giữa Xã hội học và các ngành học
khác bằng cách này thì có lẽ người đó sẽ không thành công.
T á c giả Peter Berger của cuốn Invitation to sociologỵ: a humanistic perspective
(L ờ i mời đến với Xã hội học: một góc nhìn nhân văn) dã so sánh những phát hiện gây
sốc của Xã hội học với khám phá của các nhà Nhân học (một ngành khoa học vốn tìm
hiểu các nền văn hóa xa lạ và thường tìm ra cái gọi là “cú sốc văn hóa”, ví dụ tục ăn thịt
người) (Berger, 1963: 35). “Khác với Nhân học, nhà X ã hội học không đi tìm hiểu những
xã hội khác lạ, mà thường say mê với cái quen thuộc. Sự độc đáo ìà nhãn quan X ã hội học
giúp ta nhìn cái đã quen thuộc - thậm chí nhàm chán - dưới một ánh sáng mới mẻ và thanh
tân (Phạm Văn Bích; 2 0 1 2 )”. T u y nhiên, cách phần biệt này lại khó có thể giải thích cho

những chủ để nghiên cứu gắn đầy của ngành Nhân học xã hội. Nhân học đã không chỉ



800

Đặng Hoàng Thanh Lan

dừng việc nghiên cứu lại ở những tộc người thời nguyên thủy, bộ lạc hoặc thời kỳ tiến
văn tự nữa mà đã có bộ phận Nhân học ứng dụng (applying anthropology), Nhân học
văn hóa, Nhân học xã hội. Những quan tâm của các bộ phận Nhân học nàv cũng chẳng
khác nhiều so với ngành Xã hội học. Dưới đây là bảng so sánh một số vấn để được coi là
cốt lõi, nhập môn nằm trong hai cuốn sách đại cương vế Nhân học và Xã hội học:
Bảng 1. So sán h nội dung tổng q u á t của m ột số c h ư ơ n g g iữ a 2 cuố n sách "N hân học:
S ự kh ám phá đa dạng loài n g ư ờ i" (K o tta k , 2008) và "X ã hội h ọ c" (S c h a e íe r, 2008)
Nhân học: Sự khám phá đa dạng loài
người (Kottak, 2008)

Trang

Xã hội học (Schaefer, 2008)

Trang

Giáo dục

390-409;

(Nhân học và giáo dục, Nhân học đô

Kỉnh tế và nơi làm việc


432-499

thị, Nhân học y tế, Nhân học kinh

Sức khỏe và y tế

doanh)

Các cộng đồng và đỏ thị hóa

Phần 1.2. Nhân học ứng dụng

23-35

Phần 111.13: Đa dạng văn hóa

279-298;

(Văn hóa là gi - Là học tập, biếu

327-354

trưng, chia sẻ...; Văn hóa và cá nhân;
Tính phổ biến, tổng quát và đặc thù,

Văn hóa (Văn hóa và xã hội;
Sự phát triển của văn hóa trên
thế giới; Các thành tổ của văn

khuôn mẫu văn hóa; Biến đồi cơ giới


hóa - ngôn ngữ, chuẩn mực,
giá trị, thưởng phạt; Đa dạng

của văn hóa; Toàn cầu hóa)

văn hóa; Văn hóa và sự thống

111.13: Ngôn ngữ và giao tiếp

trị của tư tưởng), Xã hội hóa

(Cơ cấu xã hội theo chủng tộc; Phân

Bất bình đằng sắc tộc và
chủng tộc (Nhóm dân tộc, sắc

tầng và "trí thông minh"; Nhóm/Quốc

tộc, thiểu số; Định kiến và

gia/Quốc tộc theo chủng tộc; Cùng
chung sống hòa bình; Nguồn gốc của

quan hệ trong nhóm)

111.14: Sắc tộc và chủng tộc

299-326


56-107

266-287

phân biệt; Các khuôn mẫu

xung đột chủng tộc)
Nhóm và tố chức

134-155;

(Loại hình và xu hướng; Thị tộc và bộ

(Các loại nhóm, Các tố chức

182-211

lạc; Thủ lĩnh; Nhà nước; Kiểm soát

chính thức và quan liêu; Văn

xã hội)

hóa tổ chức và quan liêu...)

111.17: Hệ thống chính trị

381-408

Lệch chuẩn và kiểm soát xã hội

111.18, 19, 20, 21. Gia đình, họ tộc, các

409-506

thể hệ; Hôn nhân; Giới; Tôn giáo
IV. Thế giới thay đổi
(Hệ thống thế giới hiện đại; Chủ

Gia đình và các mối quan hệ

338-389

thân thiết; Tôn giáo
529-590

Toàn cầu hóa, công nghệ và

544-561

biến đổi xã hội

nghĩa thực dân và sự phát triển; Trao
đổi và Lưu giữ văn hóa)

Bảng so sánh trên đã phần nào thê’ hiện được sự đồng quan tầm của Xã hội học và
Nhân học đổi với một số chủ đế như tổ chức, thiết chế, văn hóa, các khuôn mẫu,... Trong
bài viết "Xã hội học và Nhân học có thực sự ỉà hai ngành khoa học riêng biệt không?”, tác giả


801


RANH Giới Mờ GIỮA XÃ HỘI HOC VÀ CÁC NGÀNH KHOA HỌC KHÁC:

Annuska Derks ( 2011) đã lấy ví dụ vế một số quyển sách mà nếu chỉ nghe tên thì đến các
nhà nghiên cứu cũng rất dễ để xếp nhấm chuyên ngành của nó. Chẳng hạn, cuốn “Lễ hội và
khỏng gian văn hóa công cộng” có thê’ bị nhầm là sách Nhân học, thực ra là một cuốn thuộc
bộ “Những bước tiến trong Xã hội học” (Advances in Sociology); hay cuốn “Giới trẻ đô thị
ở Trung Qụốc: Hiện đại hóa, internet và cái tôi” dễ bị lấm là sách Xã hội học thì lại do tác
giả là người có bằng tiến sĩ vế Nhân học viết (Derks, 2011). Đây là một minh chứng rõ ràng
cho cái gọi là ranh giới mờ về đối tượng nghiên cứu giữa Xã hội học và Nhân học. Nhiều khi
rất khó để phân biệt được giữa công trình của các nhà Xã hội học và Nhân học bởi họ
nghiên cứu những vấn để tương tự nhau.
T ó m lại, ở phần này, chúng tôi đã trình bày về sự chổng đè trong ranh giới của
X ã hội học và một số ngành khoa học xã hôi khác. Sự trùng lặp này có thê’ trở thành một
điểu kiện đê’ các ngành khoa học cùng hợp tác nghiên cứu những vấn để xã hội mà họ
chia sẻ sự quan tâm với nhau.
2.2. Sự kết hợp về lý thuyết và phương pháp luận
Nhấc tới nền tảng lý thuyết của Xã hội học, không thể không nhắc tới các tác giả kinh điển
của ngành học này. Dưới đây là sơ đồ “cây phả hệ” của ngành Xã hội học mà các tác giả của
cuốn “Thế giới thực: Một giới thiệu vế Xã hội học” (Perris, Stein, 2008) đã lập ra:

(

]
\ỵ r i

/4
KaudnlUrd Ị




I PPltMntẬchỆe

li-

K ..../Ị

M ũỉhtl Koucault

1 Hiroldliiríinkcl
ị ơ ilh n « n iíih iX to !f l» \ ]

\

Truùiiii ị'hái C lik ã g o I

\ỳ
Jac\|Uffs ĨXtniiU

~N

\

^

E n m ạ GolYman

DiỉiMAtiBtty

1


tãe h i t t t

...............
I Rolicil Mcitiai

kì Y..



)

\

... — —;■
......— A

r "

>

--ị ị

ự-



( ÌHI* tíK xa tiọi Ị/

tn m g


Chú ttghìa h4u hi
ị VV.E.B.DuBois V )
Ị ĩbuyíl Itưquyin
' '\ ’ 1 Wiluutt ĩữutíi
1írooiựtpháifrankfurt \y
Vhuvátxiutí-.tột i
1Cểc \; ị
K » l Msre
Smicv dioiiormv
l nhể
Ị XI hột ;
V___1
/ ^
; siíímund Frtud Ị
J«IXÌC» D tv v ie v

M kx \ V í b e r

!/

Ị r.rniỉe Diniheim

Chailcs

Auịíuưc

\


Danvìn ỵ '

Ccmic

Hrtbcri ' '

H m ĩic i
Martincan

Các nha

MÍhọc

Các uhá
kinh fc hoc

( k lihà
V

S ơ đồ 2: Cây phả

. S i’“ c a .

C ảcnhà

, thánhoc

tricihọc

hệ của ngành Xã hội học

Nguồn: ( FerriSj Stein, 2 0 0 8 :3 4 )


802

Đăng Hoàng Thanl Lan

K h i đưa sơ đổ cây phả hệ này vào bài viết, chúng tôi có niếm tin rằng các nhà râm
lý học, Nhân học, Dân tộc học,Triết h ọ c... có thể đã biết đến một hoặc một vài cá tên
bên trên.
Kê’ về “gốc cây” - đó là những tác giả được coi là đặt nền móng cho sự ra đờ của
ngành Xã hội học. Cũng bởi vậy mà đa số họ hầu như đều không phải nhà chuyên nôn
Xã hội học (vì Xã hội học lúc đó còn chưa ra đời). Họ xuất phát từ nhiều ngành ìhoa
học khác như T riế t học, Thần học, Kinh tế học, Sử học, nhưng cách họ tìm kiếm một
cái nhìn mới để khám phá xã hội đã tạo ra những khởi đầu cho một số trường phá Xã
hội học vẫn còn tổn tại cho tới ngày nay (Ferris, Stein, 2008: 35) như: Auguste Cunte
(1798-1857) - nhà T riế t hpc, Harriet Martineau (1802-1876) - phóng viên và nhà
K in h tế học chính trị, Herbert Spencer - nhà T riế t học, Xã hội học.
“T á c dụng” của liên ngành tại thời điếm này cũng đã thấy được tương đối rõ. Liên
ngành góp phần đặt nển tảng tạo ra các ngành học mới từ những ngành học cũ. Nlững
con người thuộc thế hệ vế sau sáng tạo ra phương pháp mới để tiếp cận với nghiên cứu
khoa học xã hội, trưởng thành từ cái nển tảng là những tri thức của ngành học (ó từ
trước mà họ kế thừa.
Lấy một ví dụ điển hình như sau: Ngay tại tòa soạn báo Xã hội học, L ’ /nnée
Sociologique do Em ile Durkheim làm chủ bút, một phần nhân loại học đã được hình tlành.

Bộ phận Xâ hội học tôn giáo do Marcel Mauss đảm nhiệm đã “điểm chuyển từ Xã hộ học
sang Nhân loại học” bởi nghiên cứu tôn giáo “mở đầu sự phân tích phương diện biếu tưng
của xã hội” (Lojkine, Treglode, 1997: 18-19). Ngược lại, Xã hội học của Durkheim :ũng
chịu ảnh hưởng của những quan điểm mang đặc trưng của Nhân học: “Chính sự nịhiên

cứu tôn giáo đã bắt Durkheim phải quan tâm tới Dân tộc học miêu tả, môn học lúc bar đầu
ông rất ít quan tâm”(Lojkine, Treglode, 1997: 18-19). Lấy ví dụ, nghiên cứu nổi bật ve tôn
giáo của Durkheim - Những hình thức sơ đẳng của đời sổng tôn giáo đã cho thấy chức lăng
gắn kết xã hội của tôn giáo. Đê’ làm được điểu này, ồng chọn nghiên cứu những ngii lẻ
trong T ô Tem giáo của người Mélanésie (châu Đại Dương) - như vậy là áp dụng phíơng
pháp nghiên cứu định tính Dân tộc học khá đặc trưng của Nhân loại học.
Năm 1892, trong "Những quy tắc của phương pháp Xã hội học”, ông đố lập
“những quan sát lộn xộn và nhanh chóng của các nhà du lịch với những văn bản cúnh
xác của lịch sử”. Hai mươi năm sau, năm 1912, ông đặt lịch sử và Dân tộc học mi;u tả
ngang hàng với nhau và nhấn mạnh tính chất bổ ích của những quan sát Dân tộc học


RANH GIỚI Mờ GIỮA XÃ HỘI HỌC VÀ CÁC NGÀNH KHOA HOC KHÁC:

8 03

đối với nhà Xã hội học. Sự quan tâm ngày càng tăng đối với tôn giáo đã làm cho D ân tộc
học thành một trong những bộ môn quan trọng bậc nhất trong lâu đài Xã hội học
(Lojkine, Treglode, 1997: 18-19).
Marcel Mauss (cháu của Durkheim), người được coi là nên được kể đến trong việc dẫn
tới sự ra đời của Nhân loại học Pháp cũng là một thành viên của báo L ’ Année sociologique,
là một minh chứng cho sự “thừa kế” và “biến đổi” “kế hoạch” của Durkheim. Nói cách khác,
yếu tố liên ngành được nhận thấy rất rõ ràng trong trường hợp này: từ những lý luận,
phương pháp luận Xã hội học kế tục từ Durkheim, Mauss đã phát triển tạo thành khung lý
luận của Mauss. Một mặt “không bao giờ Mauss có cảm giác rằng mình tách rời khỏi đường
đi của Durkheim” (Lévi-Strauss); mặt khác “Mauss quay về phía các sự kiện” đúng như một
nhà “Nhân loại học thực địa”. Nếu như Durkheim nghiên cứu T ô Tem giáo chi giới hạn
khách thê’ nghiên cứu duy nhất là nhóm thổ dân châu ứ c, thì Mauss trong các thảo luận nổi
tiếng nhất, dùng phương pháp so sánh, là phương pháp Durkheim đã phê phán nghiêm khãc...
Trong Khảo luận vê' quả tặng, Mauss đưa ra rất nhiều thí dụ: từ người Đ a Đảo, tới các cư dân

Andaman, người Mélanésie, Indian, cho tới L a M ã, Ân Độ, Giccman, Celte, Trung Quốc cổ đại
và các xã hội hiện đại chúng ía(Lojkine, Treglode, 1997: 32-33). phương pháp xã hội học

gốc mà Mauss học tập từ Durkheim (chỉ chọn một đại diện để nghiên cứu, ví dụ Durkheim
chọn duy nhất T ô Tem giáo - là trường hợp giản đơn, sơ đẳng đê’ giải mã xem mọi tôn giáo
là gì), đã chuyển đổi thành sự quan tâm tới cái đa dạng, cái khác biệt. Ông chọn cách đưa ra
rất nhiểu ví dụ trong Khảo ỉuận về quà tặng nhằm đảm bảo tính chất phổ biến của những sự
kiện ông miêu tả, chứng minh rằng quà tặng không phải là một điều kỳ quặc, nó lả một lối trao
đôi - buôn bán. Ông cũng góp phân trong sự phủ nhận tiến hóa luận - một điều kiện chủ yếu
cho sự xuất hiện của một tư duy nhân ỉoại luận. Mauss không sùng bái đơn giản sự tiến bộ như
Auguste Comte hay Durkheim làm (Lojkine, Treglode, 1997: 48). Những nghiên cứu của

Marcel Mauss (1872-1950) có thể được coi là một “khía cạnh Xã hội học của đời sống kinh
tế dược tiết lộ qua cách nghĩ của Nhân học” (Smelser, 1963: 18).
Tro ng tòa soạn báo do D urkheim chủ biên, không chỉ có sự tương tác riêng giữa
Xã hội học và Nhân học mà các thành viên của báo Ư Antíée Sociologique đã thực sự tạo
ra một nhóm làm việc liên ngành điển hình.Dưới đây là sơ đồ thê’ hiện cấu trúc của tòa
soạn báo L ’ Année Sociologique, qua đó, cho thấy các tác giả đã cùng nhau xây dựng một
“lầu đài” Xã hội học từ tập hợp tri thức của rất nhiều ngành nghiên cứu khác nhau:


Đặng Hoàng Thanh Lan

804

S ơ đô 3 : N hóm làm v iệ c liên ngành: Các tác giả báo L' A n n ée Sociologique
(E m ile D u rk h e im ch ủ b ú t)

Neòn ngừ học


Triết học

Paul

'"P

Giáo dục đạo đửc.
vấn để thực dàn

\
Đạo đức bọc

Arrarte

OommQu* Parcel
Các nén tảnc triết học

/

Khu \1K ngón
ngừ

E n tíí
OỤRKHẸIM



c itó n B o ú i

Chùng tộc, tu tucmg. hệ tư tường.

phản còng lao đỘ02, giá trị P n ẩ

.s
F*»£ổnn«t

Có két. đòng ahàt.
lý tuớiig đạo đức,
các thict chc

lụ c ađạo
ạ o đức
aưc
Giáo dục

-----------Tội phạin học

Sj*iỊHLỄj£hinj
0 . 9 w D if .- y

Chủ quyền, cic
thiết chế

JcanRây
Luật quốc te, các
quoc gia

Issiarvii
Chế độ
XHCN


/

René ttaumer
vắn để thực dán.
phần khúc, phản
loại

Fr«ncữi»

s

X

S“ hpCVảW n
tộc học vê tôn

I

giáo dân gian
_

Hy sinh, chủ nghía anh
hùnỉ
Trí nhớ tập thê, quản lý
xà hội (cadrcs), van đc
táiig lớp

BovrgỊn...

Luật



L

Robert Htyti

Kinh tế chinh ưị


lèw

Chính trị

. Anh hùng, truyền
thuyct. ứiản
thoại, biều tượne

Mềurkt Hềlbwảch» \

£ đ m ù n 3

Emmanuírt
Luật

Toàn thẻ
thé
cóng đán,
quỏc gia.
phán loại


Luật quổc té, đạo đức
O

Stetan &A3nxw5*Ị....

/
MarceỉLMttítt



Khao cỏ học

Htnrt HuOtrt
Than thoại, sự hy
sinh, nen V ẳn
minh

_

_

Matoeỉ Granet

Văn minh, nghi
lễ. dán gian

Ar*>r* Vacn#

\\
A&êít Dema^geộrt


B iê n giớ i, khu \-ực

Địa lỷ chinh trị.
ranh eiới và giới
hạn. ngòn ngừ
Kiiih tể học

Địa lý

Nguồn: (jennifer Mergy, 2004)

Trên đây chi là một ví dụ nhỏ trong thực tế chứng minh rằng: quan hệ trong truyền
thống học thuật giữa các ngành họclà mối quan hệ qua lại. Chính từ những phát triển
liên ngành mà những hệ thống lý thuyết

được

“nâng cấp”, “rẽ nhánh”, biến chuyển

thành những nhóm lý thuyết hay hệ thống lý thuyết mới, thậm chí là trở thành một môn
học, ngành học mới. Những ví dụ vể “nhánh cây”, bởi vậy càng có nhiếu hơn.
Phải chăng đây chính là cách mà Xã hội học đã phát triển: T ừ những điểm giao
thoa với các ngành học khác mà dần dần Xã hội học xây dựng nên bức tường lịch sử của
chính mình? T ừ chủ để phân công lao động - như điểm nút giữa Xã hội học, Kinh tế
học và khoa học chính trị mà Herbert Spencer tìm thấy 2 quy tắc quản lý với mức độ tự
do khác nhau tương ứng với 2 kiểu hình xã hội công nghiệp và quân sự, Em ile Durkheim
lại chia ra xã hội thành hai với nguyên tắc đoàn kết của tính đổng nhất và tính khác biệt.
T ừ chủ đề tôn giáo - vừa là Xã hội học nhưng lại vừa gần với Nhân học và T ô n giáo học,
thậm chí gần với Kinh tế học mà những tác phẩm Xã hội học nổi tiếng được ra đời nhu’:

Các hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo (Em ile Durkheim ), Đạo đức Tin lành và tinh
thần cùa chủ nghĩa tư bản (M ax W e b e r),...


RANH GIỚI Mờ GIỮA XÃ HỘI HOC VÀ CÁC NGÀNH KHOA HỌC KHÁC:

805

Ngày nay, các ngành học được ghép với nhau nếu như những người tổ chức cảm
thấy điều đó là cần thiết. Giống như trong khi chữa bệnh thì người ta có thê’ nhắc tới
cụm từ đông - tây y kết hợp, thì Xã hội học củng có thê’ kết hợp với một ngành học như
Nhân học đế tạo ra một cách nhìn mới.
T rê n website của Trường Đại học Stockton (N e w je rse ỵ), từ ngày 21 tháng 3 năm
2015, có đăng lời giới thiệu như sau:
Chương trình xã hội học tập trung vào phân tích loài người vôi tư cách là thành viên của xã
hội. Các nhà xã hội học nghiên cứu nhiếu hiện tượng khác nhau: sự tương tác xã hội xung quanh
các cá n\\ần, nhóm và xã hội; các thiết chế cấu thành xã hội; các quá trình tạo ra và duy trì bất
bình đẳng xã hội. Bên cạnh đó, những phân tích xã hội học cũng mài dũa hiểu biết vế đời sống xã
hội trên đa dạng các mức độ, từ tương tác liên cá nhân (như trong gia đình, trong nhóm làm việc
nhỏ, bạn bè, và những gặp gỡ tình cờ); qua tổ chức và hoạt động của các thiết chế xã hội (như gia
đình, tôn giáo, giáo dục) chính trị v à y tế); cho tới cấu trúc và chức năng của cà hệ thống xã hội
( kết cấu giai tầng, quan hệ dân tộc, hệ tư tưởng và các quá trình chính trị khác nhau).

Chương trình Nhản học mở rộng ĩụ íịúủn tâm củã Hổ Uuừ nghiên cứu các nên vãn hóa
cùa con người khắp nơi trên thế giới. "Người” được hiểu theo nghĩa mang cả đặc tính sinh học
và hành vi, qua thời gian biến đổi, giao thoa văn hóa.
Chương trình X ã hội học/Nhân học của Stockton nhấn mạnh vào phương pháp nghiên cứu
thường gặp của cà X ã hội học và Nhân học - phương pháp nghiên cứu của hai lỉnh vực - nhưng
cung cấp bài học thông qua các phương pháp điểu tra, phân tích lịch sử cũng như thực nghiệm.
Điểm trọng yếu là chương trình đặc biệt quan tâm tới cách thức mà con người chịu ảnh hưởng và

phản ứng đối với các mối quan hệ phụ thuộc, chi phối họ như biểu hiện chủng tộCj tăng lớp, giới,
tuổi tác. Cách tiếp cận bao trùm của chương trình là so sánh vù liên quốc gia.

Như vậy, dựa trên ý tưởng của Trường Đại học Stockton thì một khóa học kết hợp cả
dặc tính của Xã hội học và Nhân học sẽ là một khóa học học tập vé mối quan hệ giữa hành
vi của con người với xã hội và đặt trong khung cảnh so sánh liên quốc gia, thay vì chi riêng lẻ
xem xét những sự kiện xảy ra tại một quốc gia xác định, tại một thời điểm xác định nào đó.
Nói cách khác, Nhân học kết hợp với Xã hội học có thể trở thành một cái nhìn vừa đặt
trọng tâm vào sự đa dạng văn hóa, vừa quan tâm tới các vấn dề chung của xã hội.
Thật khó để có thê’ kể hết được những để tài Xả hội học hiện nay đang được biết
bao các nhà X ã hội học đã và đang triển khai nghiên cứu có liên quan tới các ngành


806

Đặng Hoàng Thanh Lan

khoa học xã hội khác và phải sử dụng các kiến thức liên ngành. V í dụ như, những để tài
điều tra mức sống dân cư rất cần có tri thức của ngành kinh tế học; một để tài tìm hiếu
hành vi tín ngưỡng của một nhóm người mộ đạo thì lại đòi hỏi người thực hiện phải có
phần nào hiểu biết như một nhà tôn giáo học; hay một nhà Xã hội học sẽ không thể
thiếu tri thức cơ bản của khoa học môi trường nếu muốn điếu tra về vấn để sử dụng
nước sạch của người dân ở đô thị, v .v ...
Ngoài việc góp phần hoàn thiện cái nhìn của nhà nghiên cứu thông qua việc kết hợp tri
thức các ngành học lại với nhau, nghiên cứu liên ngành còn có ý nghĩa giúp tạo ra bước
chuyến biến cho nghiên cứu xuyên ngành đê’ sinh ra những tiếp cận hoàn toàn mới. Lấy ví
dụ, khoa học Tâm lý học xã hội là một sản phẩm minh chứng cho quá trình nghiên cứu liên
ngành và xuyên ngành Xã hội học với một ngành học khác còn đ ư ợ c chứng minh bởi sự ra
đời của ngành khoa học Tâm lý học xã hội. Nhiểu nhà Tâm lý học phương Tây cho rẳng Tâm
lý họcxã hội được hình thành trên cơ sở củ aX ã hội học và Tâm lý học (Bùi Văn Huệ, Vũ Dũng,


2003: 26). Nền tảng Xã hội học đ ư ợ c tận dụng triệt để khi người ta xây dựng một ngành
học mới từ nó: Auguste Comte (chia Tâm lý học theo hai khía cạnh: Sinh học và Xã hội học),
Gabriel Tarde (tác giả của cuốn “Những quy luật của sự bắt chước”); Durkheim (người đề
cao “ý thức tập thể” thay vì Tâm lý học cá nhân), G. Lebon (chú ý đến tâm lý nhóm, tác giả
của cuốn “Đám đông”), Albert Schaffle (nghiên cứu tương tác trong quan hệ giữa cá nhân
và xã hội), Ludwig Gumplowicz, Ratzenhofer (lý luận về xung đổi, thay đổi xã hội), Georg
Simmel (quan tâm đến hành vi tập thể, chuẩn mực xã hội, quan hệ xã hội và cá nhân),
Charles Horton Cooley (không tách rời yếu tố xã hội và yếu tố cá nhân khi nghiên cứu),
v .v ... (Bùi Văn Huệ, Vũ Dũng, 2003: 17-21).
Xã hội học cũng là các gốc để Công tác xã hội phát triển từ lý thuyết chuyển đến các
ứng dụng thực hành trong ngành của mình. Một người làm Công tác xã hội tốt cắn phải là
một người “hiểu rõ những khái niệm về xã hội con người như nó vốn có” và “nắm được
những kỹ năng thực tế vể tổ chức, nghiên cứu, lập chương trìn h ... ” (M ai T h ị Kim Thanh,
2011: 13-14).
Đến dầy, chúng ta đã có thê’ hình dung được phấn nào hiệu quả “tạo ra những
nhóm lý thuyết mới, công cụ mới, hoặc mô hình, cách tiếp cận m ới” (Resnick, 2012)từ
nghiên cứu liên ngành Xã hội học. Liên ngành khơi gợi cho các nhà Xã hội học những ý
tưởng mới. Nó cũng là thứ kéo gần những người xuất phát từ các ngành học khác lại gần
với Xã hội học. T ro n g quá khứ, đã có một nữ văn sĩ Virgina W o o lf thành công với


807

RANH GIỚI Mờ GIỮA XÃ HÔI HOC VÀ CÁC NGÀNH KHOA HOC KHÁC:

Căn phòng riêng, đặt nền móng cho thuyết nữ quyển, có Pierre Bourrdieu sử dụng

những ví dụ mạnh mẽ của Ngôn ngữ học trong Sự thống trị của nam giới đê’ phản ánh
quan hệ giới theo cách của Xã hội học, có luật gia David Riesman bắt tay sang thực hiện

dự án nghiên cứu cấu trúc xã hội và tâm thế người M ỹ (tác giả của cuốn Xã hội học nổi
tiếng Đám đông cô đơn ) thì hiện nay cũng có những, Levitt, Dubner - những nhà Kinh
tế học đang hình dung vế xã hội theo cách của một nhà Xã hội học chính gốc.
T ấ t nhiên, vẫn còn nhiểu điểm cẩn bàn về nghiên cứu liên ngành chẳng hạn như
những hạn chế của nó liên quan đến vấn để tài chính, phát triển sâu chuyên m ô n ...
T u y nhiên, trong bài viết này, ở một chừng mực nào đó, chúng tôi muốn nhấn mạnh
rằng sự kết hợp giữa nền tảng tri thức của Xã hội học với các ngành học khác, với mục
đích làm mạnh lên từng ngành học, không phải là không có ích trong nhiều trường hợp.
Như Ferris và Stein (2 0 0 8 ) đã lấy hình ảnh ẩn dụ câu chuyện thấy bói mù xem voi mà
ám chi vị trí của những người nghiên cứu khoa học (con voi khổng lồ là ẩn dụ cho xã
hội. Chúng ta là những thấy bói mù, bởi vì không ai có thế quan sát một cách bao quát
toàn vẹn m ộ t thứ cực kỳ rộng lớn và phức tạp như xẫ hội, nến dành phải xem xét vô vàn
bộ phận riêng lẻ của nó và cố gắng tìm hiểu chính xác thì nó có hình dạng như thế nào),
mỗi một ông thầy lại mò mẫm một bộ phận khác nhau của con vật và tin rằng mình biết
cả con voi sẽ trông như thế nào. Họ thậm chí nghĩ rãng cách nhìn của mình là đúng và
cách nhìn của người khác là sai, nhưng kỳ thực các ông thấy bói nên suy ngẫm từ cả
điểm “nhìn” của nhau, giống như việc trợ giúp liên ngành cũng chính là một phẩn của
việc bổ sung cho cái nhìn trọn vẹn về một tổng thè’ xã hội.

TÀI LIỆU TRÍCH DÂN


1. Phạm T ấ t Dong, Lê Ngọc Hùng, X ã hội học, Nxb Đại học Quốc gia H à N ội, 2008.
2. Bùi Văn H u ệ , Vũ Dũng, Tầm ỉý học xã hội, Nxb Đại học Quốc gia H à Nội, 2003.
3. Mai T h ị K im Thanh, Giáo trình nhập môn Công tác xã hội, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2011.
4. Berger, p, Invitation to Sociology: a Humanistic Perspective. Harmondsworth: Penguin
Books Ltd, theo Pham Văn Bích. “Lờ i mời đến với X ã hội hộc...
Tạp chí X ã hội học, số 3 ( l 19) 2012; tr. 105-119, 1963.

Một lời mời cuốn hút.



Đặng Hoàng Thanh Lan

808

5.

Coast,

E.,

Hampshire,

Katherine

and

Randall,

Sara

2007. “Disciplining

Anthropological Demography”. Demographic Research 16: 493-518. Cited by Diana
Crance ( 2010) Cultural Sociologỵ and Other Disciplines. Sociology Compass 4/3
(2 0 1 0 ): 169-179,10.111 l/j,1751-9020.2009.00273.x.
6.

Derks, Annuska, "Xã hội học và Nhân học có thực sự là hai ngành khoa học riêng

biệt không?”, Tạp chí Nguyên cứu Con người, V iện Nghiên cứu Con người - Viện
Khoa học Xã hội V iệt Nam, Số 5(56); 2011.

7.

Ferris, Kerry & J ill Stein, The Real W orld: An Introduction to Sociologỵ. U SA : Inc.
Norton & Company, 2008.

8.

Jennifer Mergy, Team work across ảisciplines: Durkheim ian sociology and the study o f
nations. Revue européenne des sciences sociales - European Journal of Sođal

Sciences.

X LII-1 2 9 .

La

sociologie

durkheimienne:

tradition et

actualité

Top of FormBottom ofFcsrm, 2004.

9.


Kottak, Conrad p, Anthropology: The Exploration o f Hum an Diversỉtỵ. Twelfth
edition. U S A : M cG raw -H ill CompanieS; 2008.

10. Levitt, Steven D .; Stephen J. Dubner, Kinh tế học hài hước. Nxb Lao động. T P . Hồ
C hí M inh. Nguyễn T h ị Huỵển Trang, Lẻ Tường Vân dịch ( 2012); 2005.
11. Levitt, Steven D.J Stephen J. Dubner,. Siêu Kinh tế học hài hước, Nxb Lao động, T P .
Hổ C h í M inh. Nguyền Kim Ngọc, Đào T h ị Hương Lan dịch ( 2012), 2009.
12. Lévi-Strauss, c . Thao trường của nhân loại học. Bài giảng khai mạc tại Pháp quốc
học viện, Nhản loại học cấu trúc II, tr.13. T ríc h theo Boris Lojkine, Benoit de
Treglode. 1997. M ộ t số vãn đề vê'Xã hội học và Nhân loại học, Nxb Khoa học Xã hội.
13. Lojkine, Boris; Benoit de Treglode, M ộ t số vấn để vế X ã hội học và Nhân loại học,
Nxb Khoa học Xã hội, 1997.
14. M cConnell, Campbell R .; Brue, Stanley L ( Econom ics: Principles, Problems, and
Policies. M cG raw - H ill Companies. Inc. International Edition, 2005.

15. Monroe, Jacquelyn; Roenia Jittaun Deloach; Job Satisịaction: How do Social
Worlcers Fare with other Interdisciplinarỵ Teatn Members in Hospice Sctting ?.

O M E G A - T h e International Journal of Management Science. Editor Ben Lev,
USA. Vol. 4 9 (4 ) 327-34Ó, 2004.


RANH GIỚI Mờ GIỮA XÃ HỔI HỌC VÀ CÁC NGÀNH KHOA HOC KHÁC:

809

16. Resnick, Jacqueline, Interdisciplinarỵ and M ultidiscíplinarỵ Research. T ru y cập ngày
08/04/2015, 2012.
17. />18. Schaefer, Richard T , Sociology l l th edition. USA: M cG raw -H ill, 2008.

19. Shepard, Jo n M .; Robert w . Greene, Sociology and You. U S A : National Textbook
Companỵ, 2001.
20. Smelser, N e ilJ, The Sociology oỷEconomic Life. U SA : Prentice-Hall, 1963.
21. Tischler, H enry L (2 0 1 1), “Introduction to Sociology". Relmont: Wadsworth, trích
theo Annuska Derks (2011 ). "Xã hội học và Nhàn học có thực sự là hai ngành khoa
học riêng biệt không?”. Tạp chí Nghiên cứu Con người, Viện Nghiên cứu Con người
- V iệ n Khoa học Xã hội V iệt Nam, số 5 (5 6 ) 2011.
22. Website của Trường Đ ại học Stockton (N ew Ịersey). T ru y cập ngày 25/3/2015
T ru y cập từ />


×