Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư : Luận văn ThS. Văn học : 60 22 34

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN NGỌC TƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành:Văn học Việt Nam

Hà Nội – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

ĐẶC ĐIỂM SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN NGỌC TƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành:Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS Mai Hương
Nơi công tác

: Viện Văn học



Hà Nội – 2012


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài...........................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề: ........................................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ........................................................... 13
4. Phương pháp nghiên cứu: ......................................................................... 14
5. Những đóng góp mới của đề tài ............................................................... 14
6. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 14
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................. 16
CHƯƠNG 1: NHÌN LẠI CHẶNG ĐẦU SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN
NGỌC TƯ ............................................................................................................... 16
1.1 Đôi nét về con người và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ....................... 16
1.2. Quan niệm văn chương và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ................... 18
1.2.1. “Tôi viết như cảm xúc của mình” ....................................................... 18
1.2.2. “Tôi như kẻ đẽo cày giữa đường” ...................................................... 21
1.2.3. Cái “Tôi” nhà văn là cái “Tôi” cô đơn ............................................ 23
1.2.4 “ Con đường viết lách là con đường nhọc nhằn khủng khiếp…" .... 24
1.2.5 “Chậm thôi, giữ lửa và chờ đợi” ......................................................... 26
1.3. Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư.................. 27
1.3.1. Con người sống là để yêu thương ....................................................... 27
1.3.2. Con người “Sống là luôn hy vọng…” ................................................ 29
1.3.3. “Tình cảm phải xuất phát từ tấm lòng mới quý” ............................. 30
1.4. Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư trong dòng văn xuôi nữ thời kì đổi mới . 31
1.5. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút độc đáo đậm chất Nam Bộ .................... 35
CHƯƠNG 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN NGỌC TƯ ............................................................................................. 38

2.1 Khái lược về thế giới nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư ....... 38
2.1.1. Quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư về nhân vật văn học......................... 39
2.1.2. Nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư với nhân vật của
một số nhà văn nữ cùng thời ............................................................................ 40
1


2.2. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ........................... 42
2.2.1. Nhân vật kiếm tìm ................................................................................... 43
2.2.2. Nhân vật sám hối .................................................................................... 47
2.2.3. Nhân vật lưu lạc ...................................................................................... 50
2.2.4. Nhân vật cô đơn ...................................................................................... 55
2.2.5. Nhân vật nghèo khổ, bất hạnh ............................................................... 62
Tiểu kết .......................................................................................................... 65
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN NGỌC TƯ ............................................................................................. 66
3.1 Người kể chuyện ...................................................................................... 66
3.1.1. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất ........................................................... 66
3.1.2. Người kể chuyện ở ngôi kể thứ ba ......................................................... 67
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 68
3.2.1. Đặt nhân vật vào những tình huống “có vấn đề”................................. 68
3.2.2. Chú ý đến ngoại hình và nội tâm nhân vật trong xây dựng tính cách
nhân vật.............................................................................................................. 69
3.2.3. Các nhân vật bộc lộ tính cách của mình qua lời nói và hành động. ... 72
3.3 Giọng điệu trần thuật................................................................................ 74
3.3.1 Giọng điệu dân dã, mộc mạc, tự nhiên ................................................... 74
3.3.2. Giọng điệu ấm áp, chan chứa yêu thương ............................................ 78
3.3.3. Giọng điệu trữ tình, mượt mà ................................................................ 81
3.4. Ngôn ngữ ............................................................................................... 84
3.4.1 Ngôn ngữ đời thường đậm chất Nam Bộ ................................................ 84

3.4.2 Ngôn ngữ của một vùng “văn hóa sông nước” ..................................... 88
Tiểu kết .......................................................................................................... 89
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 92

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hơn hai mươi năm trở lại đây, văn học Việt Nam có nhiều biến
chuyển đa dạng và phức tạp. Khác với văn học của những thời kì trước,
văn học thời kì này đã thể hiện những cái nhìn mới về hiện thực đời sống,
về con người. Đề tài thay đổi và mở rộng, cảm hứng đời tư, thế sự được đề
cao. Cái nhìn của tác giả cũng có sự thay đổi, hiện thực được khai thác sâu
hơn, chân thực hơn, đa chiều hơn. Bởi thế văn học thời kì này có những
màu sắc phong phú đồng thời cũng từng gây nhiều tranh luận.
Sự chuyển đổi của văn học có được nhờ sự đóng góp của nhiều cây
bút ở các thế hệ khác nhau, trong đó có phần đóng góp đáng quý của
những cây bút nữ trẻ và đầy sáng tạo. Thế mạnh của những cây bút nữ
ngày càng được khẳng định. Từ sáng tác của những cây bút quen thuộc:
Dạ Ngân, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo, Phan
Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Thuận…đến những cây bút mới xuất hiện
như Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư… đều thực sự gây được sự chú ý của
công luận. Sự gia tăng một cách đáng kể và nét riêng đặc sắc trong sáng
tác của những cây bút nữ trên văn đàn khiến nhiều ý kiến cho rằng, văn
học thời kì đổi mới là nền văn học “mang gương mặt nữ”.
Trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới, khoảng mười năm đầu
thế kỷ XXI người yêu văn chương cũng như giới phê bình nghiên cứu
không còn xa lạ với Nguyễn Ngọc Tư. Tên tuổi của chị gắn với những tác

phẩm có dấu ấn với bạn đọc và giới phê bình. Ngay từ những tác phẩm đầu
tiên, Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến những “hương vị lạ” và nhanh chóng
tạo được một phong cách riêng độc đáo. Từ đó, Nguyễn Ngọc Tư đã có
những bước tiến khá tự tin và vững chắc trong văn đàn Việt Nam. Dường
như mỗi tác phẩm của chị đều được công chúng đón đọc, quan tâm, đặc
3


biệt Cánh đồng bất tận đã tạo được những cuộc tranh luận khá thú vị trên
văn đàn, đã được chuyển thể kịch bản điện ảnh và đoạt giải thưởng cao
trong Liên hoan phim. Là cây bút trẻ nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã đoạt
được nhiều giải thưởng cao quý của Hội Nhà văn Việt Nam và các cơ quan
ngôn luận, diễn đàn văn nghệ có uy tín. Chị cũng là cây bút trẻ nhất được
vinh dự nhận giải thưởng văn học Asean. Với những thành công và đóng
góp của chị, Nguyễn Ngọc Tư thực sự là một “hiện tượng” rất cần được
quan tâm nghiên cứu thấu đáo. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù số lượng
bài viết về Nguyễn Ngọc Tư khá nhiều, nhưng chủ yếu vẫn là các bài viết
về những tác phẩm cụ thể đăng tải trên một số báo, tạp chí và Internet.
Thực tế cũng đã có một vài luận văn, khóa luận, báo cáo khoa học nghiên
cứu về sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, nhưng cũng mới chỉ đi vào một số
phương diện cụ thể. Chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư xứng đáng là
một đối tượng cho một đề tài nghiên cứu kĩ càng hơn, hệ thống và đầy đủ
hơn. Hơn nữa, từ sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư cũng có thể thấy được
phần nào những vấn đề chung của văn xuôi đổi mới. Những lý do đó, cùng
với sự yêu thích đặc biệt đối với nhà văn nữ này, khiến chúng tôi chọn
nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ”.
2. Lịch sử vấn đề:
Ngay từ đầu, Nguyễn Ngọc Tư đã thu hút được công chúng với một
phong cách mới lạ và độc đáo đậm dấu ấn Nam Bộ. Khi tập Ngọn đèn
không tắt đến với công chúng, “Nhiều bài báo, nhiều tiếng khen trong

Nam ngoài Bắc phát hiện về Nguyễn Ngọc Tư, một hiệu ứng đọc ít thấy từ
lâu” (Dạ Ngân - Nguyễn Ngọc Tư điềm đạm mà thấu đáo). Huỳnh Kim
trong bài Gặp Nguyễn Ngọc Tư nhận xét: “Văn chương sâu sắc mà dung
dị, tinh tế mà tràn đầy tính nết của người dân Nam Bộ trong khi tác giả
mới hai mươi bốn tuổi…Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là những câu
chuyện nhà quê. Ở trong đó, ai đọc, dù không hợp gu cũng như tìm được
4


bóng dáng nhà quê của riêng mình”. Đối thoại với Cánh đồng bất tận,
Chu Lai đánh giá “Nguyễn Ngọc Tư là cây bút tiêu biểu của miền Tây Nam
Bộ, một tài năng văn học hiếm có hiện nay của văn học Việt Nam”. Trong
bài Khi cánh đồng mở ra, Phạm Xuân Nguyên khẳng định bút lực của
Nguyễn Ngọc Tư trong việc “đào sâu vào hiện thực đời sống và khơi sâu
vào thân phận con người…” “Nguyễn Ngọc Tư có tài năng văn chương và
có lòng thương người…Thương người bằng những nỗi đau của con người,
bằng cái cách nhìn thẳng vào những vùng sáng tối chồng chéo trên những
khuôn mặt người và trong những cõi lòng người ”. Trong Lời giới thiệu
tập truyện, nhà văn Nguyễn Quang Sáng nhận xét: Ngọn đèn không tắt “đã
tạo nên một không khí rất tự nhiên về màu sắc, hương vị của mảnh đất
cuối cùng của Tổ quốc – mũi Cà Mau, của những con người tứ xứ, về mũi
đất của rừng, của sông nước, của biển cả mà cha ông ta đã dày công khai
phá…Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, những con người lam lũ, giản dị,
bộc trực ấy chứa đựng bên trong cả một tâm hồn vừa nhân hậu, vừa tinh
tế qua cách đối nhân xử thế”. Trần Phỏng Diều trong bài Thị hiếu thẩm mĩ
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đặc biệt quan tâm đến “vùng thẩm mĩ
” đặc sắc trong sáng tác của chị: “Có thể nói, thị hiếu thẩm mĩ trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư được biểu hiện qua hình tượng người nghệ sĩ, hình
tượng người nông dân và hình tượng con sông uốn khúc chở nặng tình
người”. Cũng đã có những ý kiến quan tâm đến vấn đề nhân vật của

Nguyễn Ngọc Tư. Trong bài Hãy nâng niu và trân trọng một nhân tài, Lê
Vĩnh Trang nhận xét: “Những nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư giống như bức ảnh chân dung nghệ thuật của một nhà nhiếp ảnh
cừ khôi. Sống động và ấn tượng. Là người thấm nhuần tư tưởng Phật giáo,
Nguyễn Ngọc Tư bao dung trong xây dựng nhân vật của mình, cái xấu cái
tốt cũng đều có nguyên nhân của nó, nhưng không vì thế mà nó làm giảm
đi giá trị của câu chuyện, trái lại, nó làm tăng thêm tính nhân bản của con
người”. Coi Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn trẻ tài năng của Nam Bộ, Huỳnh
5


Công Tín đánh giá “Nhân vật trong tác phẩm của chị là những con người
Nam Bộ với những cái tên hết sức bình dị, chân chất kiểu Nam Bộ…Họ
mang những tâm tư, nguyện vọng hết sức đời thường. Đó là những người
sinh sống bằng những ngành nghề cũng gắn liền với quê hương sống nước
Nam Bộ. Đặc biệt, vùng đất và con người Nam Bộ trong sáng tác của chị
được dựng lại bằng chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều
chất Nam Bộ của chị”.
Yêu mến văn tài của Nguyễn Ngọc Tư, Giáo sư Trần Hữu Dũng –
một Việt kiều tại Mỹ đã lập riêng một trang web có tên là:
www.Vietstudies.org để thu thập các bài viết, tác phẩm của Nguyễn Ngọc
Tư. Chính ở trang web này, trong bài viết Nguyễn Ngọc Tư – Đặc sản
miền Nam Giáo sư Trần Hữu Dũng đã đánh giá về nghệ thuật viết truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Theo ông “Cái mới trong văn Nguyễn Ngọc Tư
chính là cái cũ, cái lạ ở cô là tài khai mở những sinh hoạt trước mắt.
Nguyễn Ngọc Tư không “vén màn” cho người đọc thấy cái hay từng có, cô
không dẫn dắt ta khám phá những ngõ ngách của nội tâm mà chưa từng
thấy. Cô đưa ra một tấm gương rất trong, thật sáng. Và qua đó lạ thay,
như một tiếng đàn cộng hưởng, ta khám phá cái phong phú của chính
chúng ta. Cái khác biệt của Nguyễn Ngọc Tư với các nhà văn khác ở chỗ

đó”. Riêng về nhân vật, ông nhận xét: “Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư hay
khóc và nhiều khi cô khuyến khích nhân vật của mình khóc…nhưng để ý,
cái khóc của Nguyễn Ngọc Tư là vì yêu thương, không oán giận. Không
phải cái khóc nghẹn ngào, day dứt. Đây là cái khóc ào ào như cơn mưa
miền Nam, và người đọc biết (hay mong mỏi) chỉ khoảnh khắc thì mưa sẽ
tạnh, nắng sẽ lên và nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sẽ quẹt nước mắt xông
vai trở lại cuộc sống bận rộn của mình ”.
Trong bài Im lặng thế đấy Đỗ Hồng Ngọc đã nhận xét: “Người đọc
bất ngờ trước những kiếp người, phận người hôm nay, tại đây như trong
6


truyện kể, và bất ngờ trước một văn bút khá lạ của người viết truyện.
Nguyễn Ngọc Tư đã bắt đầu chạm vào những vỉa tầng cuộc sống của
những vùng đất cô sống và viết văn. Dữ dội và nhân tình, văn Tư bắt đầu
là như thế”.
Truyện ngắn Cánh đồng bất tận được coi là một hiện tượng của năm
2005, đã tiêu tốn bao giấy mực của bạn đọc và các nhà nghiên cứu văn
học. Dư luận nhiều chiều khen có, chê có nhưng nhìn chung là tác phẩm
đã được đánh giá cao và đã nhận được giải thưởng cao.
Nguyễn Hòa – nhận xét: “Trong bối cảnh văn chương năm 2005
truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư trở thành một điểm
sáng không cần tới bất cứ sự lăng xê nào”.
Trong cuộc trao đổi cùng các nhà văn Trung Trung Đỉnh và Chu
Lai, nhà thơ Hữu Thỉnh nhấn mạnh: “Nguyễn Ngọc Tư đã có sự bứt phá
rất ngoạn mục, tự vượt lên chính mình và tạo nên bất ngờ thú vị cho giới
nhà văn…Cánh đồng bất tận viết về những con người Nam Bộ với tính
cách đặc thù: Chân thực, chất phác, hồn nhiên và bản năng…Hai nhân
vật đứa trẻ trong tác phẩm là nạn nhân lớn lên tự nhiên như đàn vịt, thiếu
thốn sự quan tâm và những cử chỉ yêu mến của người thân. Điều đó đã lay

động trái tim của hàng nghìn độc giả”. Hữu Thỉnh đặc biệt quan tâm và
đánh giá cao “không khí của tác phẩm: cuộc sống Nam Bộ, hơi thở Nam
Bộ, nhân vật Nam Bộ, ngôn ngữ Nam Bộ thấm đẫm, nồng nàn trong “cánh
đồng”. Đi sâu vào nội dung của tác phẩm Cánh đồng bất tận tác giả Hữu
Thỉnh viết: “Thông điệp của Tư ở đây là con người sống phải biết khoan
dung và tha thứ. Chỉ có lấy ân báo oán thì con người mới có thể nguôi
ngoai được lòng thù hận nỗi đau, nhờ đó người sẽ người hơn, sẽ lớn lên ”.
Hữu Thỉnh cũng đánh giá cao nghệ thuật thể hiện của Nguyễn Ngọc Tư
trong Cánh đồng bất tận. Theo Hữu Thỉnh, Nguyễn Ngọc Tư “đã tiến

7


thêm một bước về nghệ thuật và xây dựng được những nhân vật đa diện;
nhiều góc cạnh và xây dựng được bối cảnh của câu chuyện rất Nam Bộ”.
Từ Australia, Phạm Tuấn trân trọng và yêu quý sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư, đặc biệt Cánh đồng bất tận: “Đọc toàn bộ tác phẩm tôi thấy rõ mồn
một những cảnh đời có thực xung quanh tôi được tái hiện đầy đủ
nhất…Nhân vật trong tác phẩm dù được miêu tả một cách đê hèn, nghèo
nàn, lạc hậu thì thẳm sâu trong tâm khảm họ vẫn còn cháy bỏng lên một
khát vọng tình cảm lớn lao”. T.Phương trong bài Đẹp - xấu trong “Cánh
đồng bất tận” nhận xét “Nhân vật trong tác phẩm vẫn thật nhân hậu, biết
yêu thương, biết tha thứ và khao khát một cuộc sống không thù hận”.
Tác giả Hoàng Thiên Nga với bài Cánh đồng bất tận và những vấn
đề liên quan dành cho Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm của chị những nhận
xét thiện cảm: “Vẫn bút pháp giản dị, gọn ghẽ đầy âm sắc Nam Bộ, cách
chọn lọc ngôn ngữ, cử chỉ sống động như đẽo như tạc, trên bối cảnh tiêu
sơ ruộng đồng sông nước Cửu Long vẫn là những mảnh đời nghèo khó
xiêu dạt bơ phờ vì áo cơm. Nhưng không cũ mòn, không nhàm chán, mạch
văn liên kết bởi nhiều chi tiết, hình ảnh thú vị, cốt truyện hình thành theo

dòng suy tưởng của nhân vật xưng “tôi” nhẫn nhịn lặng lẽ mà xuyên mỗi
lúc một sâu phơi mở tận đáy tâm hồn, tính cách, số phận con người”.
Và cuối cùng tác giả dành những lời nhận xét đầy hi vọng cho
Nguyễn Ngọc Tư “Tôi tin với tư chất thông minh và văn tài thiên phú,
Nguyễn Ngọc Tư đủ bản lĩnh để tỉnh táo trên quãng đường dài văn nghiệp
vốn không hiếm cạm bẫy danh vọng và vô số khen chê luôn dễ khiến người
nghe ngộ nhận đánh mất mình”.
Bài viết: Ngày đầu năm đọc Cánh đồng bất tận với sức hút kì lạ
nhận xét: “…đọc văn của Nguyễn Ngọc Tư người đọc chỉ nên đọc một
truyện rồi gấp lại, ngẫm nghĩ về nỗi đau thân phận người, thấu hiểu tâm

8


trạng của nhân vật và một chút trải nghiệm của tác giả hơn phần nào
thấm thía cái giọng văn đặc sệt miền Tây. Đó chính là nỗi đau mà dẫu vô
tình hoặc cố ý xây dựng nhân vật, Tư tạo nên một phong cách không lẫn
vào ai - ấy là chỗ văn Tư đọng vào lòng người sau những giờ phút mệt
nhọc với cuộc sống cơm áo gạo tiền, đọc thư giãn, đọc nghiền ngẫm thấy
thật hay và tinh tế ” (66).
Nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư được đặt dưới góc nhìn văn
hóa. Tác giả Nguyễn Trọng Bình trong Bài viết truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư từ góc nhìn văn hóa đã viết: ý thức trân trọng, giữ gìn truyền thống văn
hóa dân tộc trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trước hết được thể hiện ở
sự khẳng định và niềm tự hào của nhà văn về những phẩm chất và giá trị
văn hóa của vùng sông Cửu Long. Hay tác giả Phạm Phú Phong lại đi sâu
vào lời đề từ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư . Tác giả nhận thấy lời đề
từ có thể là danh ngôn, một câu hát dân gian, ... thể hiện chiều sâu của tư
tưởng, ý đồ sáng tạo của tác giả và tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm
Nhà văn Dạ Ngân đánh giá cao tài năng của Nguyễn Ngọc Tư. Theo

Dạ Ngân: “Nguyễn Ngọc Tư giỏi ở chỗ cái tưởng không có gì mà Tư cũng
viết được, lại viết rất có duyên, nhân hậu. Đọc cái nào cũng phải nhoẻn
miệng cười sung sướng, sung sướng mà lại ứa nước mắt, thấy nước mắt
của mình cũng trong trẻo và đẹp đẽ, ấy là cái đáng giá mà Tư cho người
đọc hôm nay”. Theo Dạ Ngân, truyện của Nguyễn Ngọc Tư là “chuyện về
những cảnh ngộ, những thân phận, những mảnh đời thường nhật. Nó cho
thấy tác giả có thể dài hơi về kiểu nhân vật này. Tất cả được diễn đạt bằng
thứ ngôn ngữ Nam Bộ lấp lánh và một giọng văn dung dị, đặc biệt ấm áp ”.
Tác giả còn khen ngợi khả năng vận dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư:
“Cái cách của Tư là tuyệt vời. Tôi thấy phương ngữ mà Nguyễn Ngọc Tư
đưa vào truyện bao giờ cũng có sự cân nhắc cho sự đóng góp vào vốn
liếng chung của ngôn ngữ quốc gia. Những người bẩm sinh có tài năng
9


lớn thì họ mới làm được cái đó chứ! Nó tự nhiên như không thôi! Thả cái
chữ ra thì đúng là cái chữ đó thôi không phải cái chữ nào khác”. Quả thực
Nguyễn Ngọc Tư đã có sự sáng tạo về ngôn ngữ dựa trên nền chung là
ngôn ngữ mang đậm bản sắc Nam Bộ.
Tác giả Văn Công Hùng cũng có nhận xét về góc độ ngôn ngữ trong
tác phẩm Hai đứa trẻ “Các câu thoại cũng thế. Đầy bất ngờ và lí thú, đậm
đặc bản sắc Nam Bộ. Đậm đặc tới mức dẫu chưa một lần tới Nam Bộ cũng
thấy nó hiện ra mồn một khi đọc văn Nguyễn Ngọc Tư. Chất Nam Bộ ấy ẩn
chứa trong tâm hồn những con người sống nơi tận cùng của Tổ quốc,
phóng khoáng và nhân hậu, thẳng thắn, trung thực hết mình trong cuộc
sống… Số phận cột họ vào mảnh đất này và sống chết với nó một cách
dung dị, cương trực”(52).
Báo Tiền phong ra ngày 31 tháng 1 năm 2006 có bài đánh giá về văn
Nguyễn Ngọc Tư “Văn phong giản dị, ngôn ngữ truyện cứ như được kể
vào từ đời thường, nhưng chính những nỗi đau của những kiếp người,

những số phận nhỏ bé ở một vùng quê nghèo và triết lí nhân quả của cuộc
đời làm nên sức ám ảnh lớn cho truyện” (47).
Nhìn chung, Nguyễn Ngọc Tư là một trong số hiếm những tác giả
trẻ nhận được những lời nhận xét, đánh giá cao, được coi là một “hiện
tượng” của đời sống văn học.
Trong một bài viết của mình, tác giả Bùi Đức Hào khẳng định
“Nguyễn Ngọc Tư là một tài năng. Cô ấy không còn là người của một vùng
đất Cà Mau cụ thể nữa. Cô ấy là tài sản quốc gia, là của Việt Nam. Mà tài
năng dù ở đâu cũng vậy, chỉ có thể phát triển được nếu được sự phát hiện,
nâng niu, bồi dưỡng, vun đắp của toàn xã hội”.

10


Tác giả Lê Thiếu Nhơn trong bài Nguyễn Ngọc Tư – Nhìn từ đỉnh
cao văn chương đánh giá Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ xứng tầm
với các tác giả Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Thịệp, Bảo Ninh… Cũng
như vậy, nhiều độc giả chọn chị là người của thế hệ kế tục nhà văn Sơn
Nam.
Bà Quách Thu Nguyệt, Giám đốc nhà xuất bản Trẻ cảm nhận: “Tôi
thích những sáng tạo trong phong cách của tác giả trẻ như Nguyễn Ngọc
Tư. Tác phẩm của họ nuôi dưỡng tâm hồn trẻ và tạo văn hóa đọc”.
Năm 2008 là năm đánh dấu thành công của Nguyễn Ngọc Tư. Chị là
một tác giả trẻ vinh dự giành được giải thưởng văn học ASEAN 2008.
Cuốn sách Cánh đồng bất tận đã gây được ấn tượng tốt. Không chỉ dừng
lại ở đó, tác phẩm này đã được chuyển thể thành kịch bản sân khấu và kịch
bản phim nhựa. Điều đó chứng tỏ Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm của chị
đang ngày càng có một vị thế cao.
Năm 2008, cũng được coi là một năm đặc biệt với Nguyễn Ngọc Tư.
Chị cho xuất bản tập truyện ngắn Gió lẻ và chín câu chuyện khác. Tác

phẩm này cũng nhận được sự quan tâm của các nhà phê bình và đông đảo
bạn đọc. Trong bài viết dài Thử nhận định về Gió lẻ sau hiện tượng Cánh
đồng bất tận, Bùi Đức Hào cho rằng đây là một sự sáng tạo mang tính đột
phá “Nguyễn Ngọc Tư là một hiện tượng, là cơ may cho một nền văn học
dễ chừng đang bí lối, trong một xã hội buông chèo, mắc cạn”.
Những tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, Biển người mênh mông,
Gió lẻ và chín câu chuyện khác, Cánh đồng bất tận đem lại cho Nguyễn
Ngọc Tư nhiều giải thưởng cao. Bên cạnh đó chị còn là một cây bút viết
tạp văn, tản văn khá hay. Một số tạp văn :Ngày mai của những ngày mai
(2007), Sống chậm thời @ (In chung với Lê Thiếu Nhơn), Tạp văn Nguyễn
Ngọc Tư (2005), Biển của mỗi người (2008), Yêu người ngóng núi (2009),
11


Khói trời lộng lẫy (2010) và Gáy người thì lạnh (2012) có sức thu hút
đông đảo bạn đọc. Những vấn đề được đặt ra trong tản văn của Nguyễn
Ngọc Tư tưởng như rất nhỏ nhặt, nhưng đầy suy ngẫm. Tất cả đều bắt
nguồn từ những gì chị từng nếm trải, chứng kiến và chiêm ngưỡng. Các
bài viết về tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư đều khá thống nhất trong sự
khẳng định: Nguyễn Ngọc Tư là một trong những cây tạp bút nổi bật trên
văn đàn hiện nay.
Các bài viết phê bình, nghiên cứu còn nhiều song chúng tôi xin dừng
lại ở những bài tiêu biểu. Cùng với những bài viết đó, còn có một số công
trình khoa học, luận văn, khóa luận về Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm của
chị như:
1. Tiếp cận sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy từ
phương diện giá trị văn học, văn hóa, Luận văn thạc sĩ văn học, của
Dương Thị Kim Thoa.
2. Quan niệm nhân sinh của người phụ nữ qua các sáng tác văn xuô i
thời kì đổi mới qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo,

Nguyễn ngọc Tư, Luận văn Thạc sĩ văn học của Bùi Phương Anh.
3 Gia đình hiện đại trong truyện ngắn một số cây bút nữ Dạ Ngân,
Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu,
Khóa luận tốt nghiệp của Hoàng Lan Phương.
4. Khám phá thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,
Khóa luận tốt nghiệp của Vũ Thị Thu Hà, 2006.
5. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Khóa luận
tốt nghiệp của Lương Thúy Hà, 2009.

12


6. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, Khóa
luận tốt nghiệp của Phú Thùy Hương.
7. Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một
số cây bút nữ thời kì 1986 – 2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc
Tư, Đỗ Bích Thúy)…
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, có thể
thấy, các bài viết, các công trình nghiên cứu về tác phẩm của tác giả
Nguyễn Ngọc Tư khá phong phú, tuy nhiên chủ yếu mới dừng lại ở từng
tác phẩm, hoặc đi vào một số khía cạnh trong sáng tác của chị. Với luận
văn này, chúng tôi sẽ cố gắng khảo sát một cách hệ thống, thấu đáo sáng
tác của Nguyễn Ngọc Tư, từ đó đúc rút những nét riêng độc đáo cả về nội
dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện, khẳng định những đóng góp đáng
quý của tác giả Nguyễn Ngọc Tư với nền văn học nước nhà.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi sâu tìm hiểu ba vấn đề cơ bản:
- Quan niệm văn chương và chặng đầu sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư.

- Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
- Đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn khảo sát toàn bộ sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư ở các thể
loại truyện ngắn, ký, tản văn, tạp văn. Tuy nhiên trong khuôn khổ có hạn,
luận văn chủ yếu tập trung vào thể loại truyện ngắn.

13


- Để có điều kiện so sánh làm nổi bật nét riêng trong phong cách
sáng tạo của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi cũng khảo sát một số tác phẩm
tiêu biểu của các cây bút chuyên viết về Nam Bộ như Sơn Nam, Phi Vân,
Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Đoàn Giỏi, Dạ Ngân…và một số nhà
văn nữ cùng thời.
4 . Phương pháp nghiên cứu:
4.1. Phương pháp phân tích tác phẩm
4.2. Phương pháp cấu trúc hệ thống
4.3. Phương pháp phân loại, thống kê
4.4. Phương pháp so sánh.
5. Những đóng góp mới của đề tài
Với đề tài Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, luận văn sẽ làm
nổi bật một số vấn đề sau đây:
1. Làm rõ quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư về văn chương, con
người và sự chi phối của những quan niệm đó đến sáng tác của Nguyễn
Ngọc Tư.
2. Khảo sát và hệ thống các kiểu nhân vật và những đặc điểm nổi
bật trong thế giới nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư.
3. Chỉ ra những đặc điểm nghệ thuật đặc sắc trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư.

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được triển khai trong ba chương:

14


Chương 1: Nhìn lại chặng đầu sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Chương

2:

Thế

giới

nhân

vật

Đặc

điểm

nghệ

thuật

trong


sáng

tác

của

sáng

tác

của

Nguyễn Ngọc Tư
Chương

3:

Nguyễn Ngọc Tư

15

trong


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHÌN LẠI CHẶNG ĐẦU SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN NGỌC TƯ
1.1 Đôi nét về con người và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 trong một gia đình nghèo tại xã
Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Nguyễn Ngọc Tư có một tuổi

thơ khá vất vả. Khi còn nhỏ chị vừa học vừa phải làm việc nhà, việc ruộng
vườn giúp gia đình. Đến năm 15 tuổi, khi chị mới học hết lớp 9 thì gia
đình gặp biến cố: Ông ngoại mất, kinh tế gia đình vô cùng khó khăn nên
chị phải rời ghế nhà trường. Tuy vậy, Nguyễn Ngọc Tư vẫn không hề nản
lòng. Chị bắt đầu viết tại làng quê với sự động viên của người cha: “Nghĩ
gì viết nấy, viết những gì con đã trải qua”. Và cũng chính cha của chị đã
mang ba truyện đầu tay của chị gửi đến tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau
và được chọn đăng. Sau đó chị được nhận vào làm văn thư và học làm
phóng viên tại báo này. Sau chuyến đi công tác trong cơn bão số năm tại
Đất Mũi chị đã hoàn thành tập kí sự mang tên Nỗi niềm sau cơn bão dữ.
Tác phẩm này đoạt giải ba Giải Báo chí toàn quốc năm 1997 và chắp cánh
cho những mơ ước của chị. Nguyễn Ngọc Tư chính thức bước vào nghề
văn với nhiều giải thưởng: Giải nhất văn học tuổi hai mươi do báo Tuổi trẻ
tổ chức; giải B của Hội Nhà văn Việt Nam về truyện ngắn 2000 với tác
phẩm Ngọn đèn không tắt; giải tác giả trẻ nhất của Ủy ban toàn quốc Liên
hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Chị đã gia nhập Hội Nhà văn
Việt Nam, được đánh giá là một trong những nhà văn trẻ được chú ý ở
Việt Nam hiện nay. Chị lập gia đình với một thợ kim hoàn và hiện đang
cùng chồng con cư ngụ tại thành phố Cà Mau, làm phóng viên cho tạp chí
Văn nghệ bán đảo Cà Mau và Hội Văn học Nghệ thuật Cà Mau.
16


Trong bút kí của Trần Hữu Dũng - một Việt kiều tại Mỹ, tác giả đã
nhận xét về Nguyễn Ngọc Tư “phong cách ngoan hiền nhưng kiên quyết,
cuộc sống giản đơn nhưng thấp thoáng một nội tâm phức tạp và bí ẩn ”.
Đó là trong đời thường còn trong văn chương, Nguyễn Ngọc Tư thường ví
truyện của mình “như trái sầu riêng” – nhiều người thích nhưng cũng
không ít người dị ứng. Mỗi trang văn của Nguyễn Ngọc Tư không đơn
giản là một bức tranh để ngắm mà ở mỗi câu mỗi chữ đều ẩn chứa những

tiếng lòng, tiếng thổn thức về cuộc sống của những số phận, những mảnh
đời”.
* Các tác phẩm chính đã xuất bản:
1. Ngọn đèn không tắt (Tập truyện – NXB Trẻ - 2000)
2. Ông Ngoại (Tập truyện thiếu nhi – NXB trẻ - 2001)
3. Biển người mênh mông (Tập truyện – NXB Kim Đồng – 2003)
4. Giao thừa (Tập truyện – NXB Trẻ - 2005)
5. Nước chảy mây trôi (tập truyện và kí – NXB Văn nghệ thành phố
Hồ Chí Minh - 2004)
6. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (tập truyện – NXB Văn hóa Sài
Gòn – 2005)
7. Cánh đồng bất tận (Tập truyện - NXB Trẻ - 2005)
8. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (NXB Trẻ - 2005)
9. Ngày mai của những ngày mai (Tạp văn – NXB Phụ nữ - 2007)
10. Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Tập truyện – NXB Trẻ - 2008)
11. Yêu người ngóng núi (Tản văn – Nhà xuất bản Trẻ - 2009).
12. Khói trời lộng lẫy (tập truyện hay tạp văn? – Sài Gòn truyền
thông và Nhà xuất bản Thờì đại – 2010).
13. Gáy người thì lạnh (Tạp văn – Nhà xuất bản (tên ?) – 2012).

17


* Giải thưởng:
1. Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20 lần II – Tác
phẩm Ngọn đèn không tắt – 2000.
2. Giải B Hội Nhà văn Việt Nam – tập truyện Ngọn đèn không tắt –
2000.
3. Giải ba cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ với truyện Đau gì như
thể.

4. Tặng thưởng dành cho tác giả trẻ, Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các
Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Một trong mười gương mặt trẻ tiêu
biểu năm 2003 do Trung ương Đoàn trao tặng.
5. Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 2006, Tác phẩm Cánh
đồng bất tận.
6. Giải thưởng văn học các nước Đông Nam Á (ASEAN) 2008.
Thời gian gần đây tác phẩm Cánh đồng bất tận đã được chuyển thể
thành phim và được công chúng nồng nhiệt đón nhận.
1.2. Quan niệm văn chương và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn nữ luôn có ý thức bộc
lộ một cách thẳng thắn những quan niệm về văn chương và sáng tác của
mình. Qua khảo sát, chúng tôi thấy có một số quan niệm độc đáo và nổi
bật sau:
1.2.1. “Tôi viết như cảm xúc của mình”
Cho dù viết về mảng nào, lĩnh vực nào thể loại nào thì với Nguyễn
Ngọc Tư, điều quan trọng vẫn là cảm xúc. Cảm xúc thật từ đời sống chỉ có
được khi trực tiếp sống, thực sự hòa nhập với đời sống.
Trong một bài phỏng vấn Nguyễn Ngọc Tư, người phỏng vấn đặt
câu hỏi : “Các nhà văn hay nói về kĩ thuật viết. Chị có nghĩ mình cũng tạo
“kĩ thuật “viết riêng” gây hấp dẫn bạn đọc”. Nguyễn Ngọc Tư thẳng thắn
18


trả lời: “… một trang viết chỉ có kĩ thuật thôi mà không có thế thái nhân
tình, không hồn vía con người thì ai mà chịu đọc”.
Trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư “Sáng tác thì cứ lúc nào thấy
xúc động, đủ cảm xúc, có suy nghĩ về cái mình trải qua, có nhu cầu phải
viết, nếu không viết chắc…tự tử mất thì viết thôi”. Văn chương của
Nguyễn Ngọc Tư dung dị mà không kém phần sâu sắc bởi nó được viết từ
những cảm xúc thôi thúc tự trong lòng. Chị bộc bạch: “Bao giờ khi bắt tay

vào viết, tôi cũng nghĩ thoáng qua tác phẩm mới này ai sẽ khen, và biết cả
một vài khuôn mặt những người chê. Lần nào cũng nghĩ nhưng lần nào
cũng viết như cảm xúc của mình bởi trước khi viết cho ai đó thì tôi viết
cho mình”. Ở một chỗ khác, chị tâm sự: “Trong văn chương, tôi thường
không có kế hoạch gì, tùy vào cảm hứng” . “Tôi là đứa viết văn không
chuyên, dựa vào cảm xúc mà viết”. Nhìn như vậy có thể thấy, trước sau
Nguyễn Ngọc Tư vẫn coi trọng cảm xúc, lấy cảm xúc làm điểm tựa cho
văn chương.
Nói đến văn là nói đến cảm xúc. Nguyễn Ngọc Tư cũng không ép
mình viết khi không thực sự có cảm xúc. Chị mong muốn những trang văn
chị dành tặng cho độc giả phải là những trang thấm đẫm cảm xúc của
chính chị. Với Nguyễn Ngọc Tư, một truyện được viết ra là trút bỏ một cái
gì đó từ cảm xúc của mình. Sau tác phẩm Cánh đồng bất tận nhiều ý kiến
phản hồi thậm chí trái chiều, nhiều ý kiến phê phán gay gắt, nhưng
Nguyễn Ngọc Tư vẫn bình tâm bởi với chị, điều quan trọng là chị đã viết
những gì mà chị cảm nhận được. Sau này số lượng tác phẩm có tăng lên,
nội dung phong phú hơn, chị vẫn viết theo cảm xúc hồn nhiên của mình.
Nguyễn Ngọc Tư cũng đã từng tâm sự, chị lấy cảm hứng từ cuộc
sống và số phận của những nhân vật nhỏ bé, những người nông dân nghèo,
lam lũ, những người nghệ sĩ nghèo khổ bất hạnh, những đứa trẻ đáng

19


thương, những người đàn bà tội nghiệp…ở chính vùng quê Nam Bộ của
chị. Chính những tình cảm, số phận trớ trêu của họ đã tạo cảm xúc cho
Nguyễn Ngọc Tư sáng tác.
Chị cũng tâm sự “Chưa có bao giờ má dạy tôi viết văn nhưng những
gì mà tôi viết ra đều mang hơi thở cuộc sống mà má trao tặng”. Những
con người, những kỷ niệm, cuộc sống Nam Bộ với biết bao lam lũ, vất vả

nhưng cũng vô cùng thú vị đã nuôi dưỡng tâm hồn, vun đắp tài năng, vốn
sống và khơi nguồn cảm hứng dồi dào cho sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
Chính nhờ vậy, trang viết của Nguyễn Ngọc Tư đậm chất Nam Bộ, làm
xúc động bao trái tim độc giả, đủ sức đánh thức những kỷ niệm về Nam
Bộ của những người xa quê. Đúng như Trần Hữu Dũng nhận xét “ Trong
văn chương Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta ở khắp mọi phương trời tìm lại
được cái quê hương đích thực trong tâm tưởng, những tình tự ngủ quên
trong lòng mình, những kỷ niệm mà mình tưởng như không ai chia sẻ”.
Không phải ngẫu nhiên mà những năm gần đây Nguyễn Ngọc Tư
thấy hứng thú và gửi gắm cảm xúc của mình vào thể loại tản văn, tạp văn.
Trong quan niệm của chị “… viết tản văn như một kiểu nhật kí để người
viết gửi gắm những điều mình nghĩ. Bằng cách này em gửi gắm được
nhiều thông điệp, giải tỏa những cảm xúc đầy ứ trong lòng, mà truyện
ngắn không làm được. Truyện của em toàn ảo, không gian và người ảo,
không có hoặc rất ít Nguyễn Ngọc Tư ở đó. Em cho rằng tản văn gần với
người viết nhất, bộc lộ tâm tư tình cảm của người viết nhiều nhất” (52).
Cũng vì những cảm xúc ấy mà Nguyễn Ngọc Tư đã tạo ra một
không gian đồng quê êm ả nhưng cũng nhiều đổi thay của nông thôn thời
đô thị hóa trong Yêu người ngóng núi; những câu chuyện đời trong Gáy
người thì lạnh: “Một cuốn sách thì cả khi chìa gáy ra, người ta cũng nhận
được một cái gì đó ấm áp, trao gửi”.

20


Chính vì thế, Nguyễn Ngọc Tư thực sự thích thú và tâm đắc với thể
loại tản văn bởi nó truyền tải được những cảm xúc của chị. “Có thể tôi viết
truyện là dành cho ai đó nhưng viết tản văn là viết cho mình. Tản văn như
là một giải pháp để tôi giải tỏa những suy nghĩ…”
Những nhà văn thế hệ trước Nguyễn Ngọc Tư như Sơn Nam, Đoàn

Giỏi cũng lấy bối cảnh từ mảnh đất Nam Bộ thân yêu nhưng họ thường
nhìn nhận cảnh vật con người dưới góc độ văn hóa. Trong khi đó trang văn
của Nguyễn Ngọc Tư lại đi sâu vào hoàn cảnh, tâm trạng, những cảm xúc
chân thực của những người dân vùng đất này.
Chính quan niệm “viết như cảm xúc của mình” thấm nhuần trong
ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư khiến trang viết của chị giản dị, tự nhiên, đầy
ắp cảm xúc. Dường như với Nguyễn Ngọc Tư, viết văn trước hết là viết
cho mình, viết để giải tỏa những điều chất chứa trong lòng mình. Khởi
nguồn từ những tình cảm chân chất, văn chương Nguyễn Ngọc Tư do vậy
đã đến được và tạo được sự xúc động sâu xa trong lòng người đọc.
1.2.2. “Tôi như kẻ đẽo cày giữa đường”
Cũng chính bởi quan niệm “Tôi viết như cảm xúc của mình” Nguyễn
Ngọc Tư thẳng thắn viết văn là vì mình cảm nhận thế nào thì sẽ viết như
thế, sống với tất cả những gì chị có. Bản thân Nguyễn Ngọc Tư cũng thừa
nhận “Đôi lúc vì văn mình như quả sầu riêng, người thích thì nói nó thơm,
người không thích thì cho rằng thối”. Chị cảm nhận rõ: “Tôi như một kẻ
đẽo cày giữa đường, ai qua cũng ngó nghiêng chỉ trỏ một tý. Cái tôi buồn
không phải vì những lời nói chân thành của bạn, mà là tôi thấy mất tự do.
Mọi người cứ gào thét đòi tự do sáng tác, nhưng lại băn khoăn trước việc
cô ta viết như cô ta thích” (39).

21


Thực tế, Nguyễn Ngọc Tư không chạy theo một trào lưu sáng tác
nào mà cứ tự nhiên đến với văn học với những ấn tượng riêng của mình.
Những tác phẩm của chị vẫn được độc giả đón nhận một cách háo hức.
Tác phẩm của chị đã đưa lại những phát hiện thú vị về một vỉa tầng của
cuộc sống, của môi trường sống. Khác với lối văn chương ưa cầu kì, bóng
bẩy của những con chữ, tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư không màu mè mà

vẫn luôn tạo được dấu ấn đậm, có sức hấp dẫn, thậm chí ám ảnh người
đọc.
Nguyễn Ngọc Tư không muốn ngồi mãi ở một nơi nào đó để chờ
đợi. Đón nhận dư luận sau những tác phẩm của chị, thậm chí là trái chiều
Nguyễn Ngọc Tư vẫn thẳng thắn trả lời “Tôi không đi trên con đường mà
tôi không thích” và nhà văn cũng không phải là người viết những gì mà
độc giả thích. Những tác phẩm văn học chỉ chạy theo trào lưu, theo “mốt”
thì còn đâu là những tác phẩm văn học đích thực nữa?”.
Với Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn phải luôn là chính mình cho dù có
những dư luận thậm chí trái chiều. Chị nhận mình là “kẻ đẽo cày giữa
đường” phải chấp nhận những khen chê cho dù hay hay dở của dư luận.
Tuy vậy chị vẫn cố gắng được là chính mình. Sau thành công của Cánh
đồng bất tận chị viết “sung” hơn. Cho đến khi tập truyện Gió lẻ ra đời,
nhiều ý kiến cho rằng tập truyện làm Nguyễn Ngọc Tư mờ nhạt hơn bởi
phong cách từ Cánh đồng bất tận không còn rõ nữa, chị có ý kiến lại:
“Cánh đồng bất tận không đại diện duy nhất cho tôi. Mười năm tôi viết
những cái người ta thích, giờ đây tôi viết những gì chính mình thích …”
Chị còn nhấn mạnh “Tôi muốn tùy nghi sống và viết theo đúng như bản
chất thất thường vô chừng của mình. Tôi biết không ít người đang băn
khoăn bởi ý nghĩ họ đã mất tôi rồi. Nhưng tôi đi đến đâu đó không có
nghĩa là không quay lại. Con cá quẫy để khỏa bèo vì nó cần thở ở một
khoảng rộng hơn. Tôi cũng vậy” (39).
22


Chính quan niệm như vậy nên Nguyễn Ngọc Tư bao giờ cũng tôn
trọng cảm xúc của chính mình. Nếu như nhiều người viết rất quan tâm đến
thị hiếu của người đọc, thậm chí “chiều nịnh” theo thị hiếu của người đọc
đến đánh mất mình thì Nguyễn Ngọc Tư khẳng định: Không thể viết để
chiều nịnh thị hiếu bạn đọc. Khi được hỏi về vai trò của bạn đọc, chị cho

biết: “Mình không thể hiểu hết bạn đọc, có khi viết xong cái truyện mà bản
thân mình thấy thích lắm nhưng bạn đọc lại chê…Với lại, Tư cũng không
có ý tìm hiểu bạn đọc của mình”. Trong quan niệm của chị, nhà văn viết là
do nhu cầu tự thân, do tình cảm thôi thúc. Bạn đọc tìm đến tác phẩm là để
giải trí, cách đánh giá tác phẩm do vậy khác nhau thậm chí trái chiều nhau.
Để giữ tính độc lập của ngòi bút, Nguyễn Ngọc Tư chủ trương không tìm
hiểu và chiều theo thị hiếu người đọc “Vì nếu biết người ta muốn cái gì,
thích cái gì có khi mình lại viết chiều theo ý họ. Thôi thì cứ đường ai nấy
đi, nếu gặp nhau là tốt”. Nguyễn Ngọc Tư coi trọng trước hết là cảm xúc
của mình, nhưng chị luôn trân trọng và hy vọng có được sự đồng điệu,
đồng cảm giữa nhà văn và công chúng.
1.2.3. Cái “Tôi” nhà văn là cái “Tôi” cô đơn
Nguyễn Ngọc Tư sớm cảm nhận và ý thức về sự khắc nghiệt của
nghề văn, về sự cô đơn trong sáng tạo của người nghệ sĩ. Khi được hỏi:
“Chị đã sống trong tâm trạng như thế nào cùng các nhân vật của mình
trong suốt hành trình câu chuyên Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư
trả lời: “Trong cõi văn chương, tôi là đứa cực kì cô đơn. Nên tôi rất dễ
dàng để nhân vật của mình sống trong cô đơn tận cùng, trong hoang hoải,
chán chường. Tôi cũng như những con người trong “Cánh đồng bất tận”
sống giữa nhiều người, sống giữa cộng đồng, sống giữa biển người nhưng
có cảm giác bị bỏ rơi”. Thực tế, đây cũng là cảm giác phổ biến của nhiều
người nghệ sĩ.

23


×