ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
TIỂU LUẬN
Đề tài: Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến
qua đó khái quát đặc điểm văn học VN nửa cuối thế kỷ XIX
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thu Hương
Sinh viên thực hiện: Đặng Thị Thu
Lớp: K52- SP văn
Năm 2008
1
MỞ ĐẦU
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ có tên tuổi của văn học dân
tộc, ông là một trong những đại diện lớn nhất và cuối cùng của văn học Việt
Nam trung đại. Ông là người chứng kiến những bước thăng trầm bi thương vào
loại bậc nhất của lịch sử dân tộc, tận mắt chứng kiến sự thất bại của triều đình
nhà Nguyễn và các phong trào yêu nước trước một kẻ thù hoàn toàn xa lạ và ông
cũng là người nhận thấy một cách đau xót nhất sự sụp đổ của một hệ tư tưởng đã
lỗi thời, cũng như sự bất lực đến hài hước của một loại hình tri thức đại diện cho
hệ tư tưởng ấy trước thực tế lịch sử. Tưởng rằng cùng với sự kết thúc của thể
chế xã hội lạc hậu ấy, nền văn học Việt Nam trung đại sẽ rơi vào ngõ cụt của sự
bế tắc với một phương thức phản ánh đã lỗi thời. Nhưng thật kỳ lạ là từ trong sự
suy thoái tưởng chừng như đã đến đỉnh điểm lại xuất hiện một tài năng thơ ca
vào loại xuất chúng như Nguyễn Khuyến. Ông giống như một dấu chấm cảm
thán khẳng định tính chất cổ điển có sức làm lay động lòng người của văn học
trung đại vào giai đoạn cuối cùng của thời kỳ văn học dài hàng chục thế kỷ này
của dân tộc. Nguyễn Khuyến may mắn làm sao vừa đỗ: Tam nguyên thừa đủ để
tự đắc với đời bằng con đường khoa cử, vừa hằn đậm tên tuổi trong lịch sử văn
học, như một trong dăm ba tên tuổi đứng đầu của văn học Việt Nam qua mọi
thời kỳ. Những sáng tác bằng chữ Nôm và chữ Hán của Nguyễn Khuyến mang
những nét riêng, nét độc đáo của một nhà thơ tài ba đồng thời vẫn mang những
dấu ấn và đặc điểm chung của văn học trung đại giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.
Tìm hiểu về thơ văn Nguyễn Khuyến sẽ cho thấy được những đặc điểm chung
của văn học thời kỳ này.
2
NỘI DUNG
1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Năm 1858, thực dân Pháp lấy cớ triều đình Nguyễn ngăn cản việc thông
thương và giết giáo sĩ, ngày 1 tháng 8 chúng đã nổ súng vào cửa biển Đà Nẵng,
mở đầu cuộc xâm lược chính thức nước ta. Sau năm tháng nhận thấy cuộc chiến
tranh do mình phát động vẫn dậm chân tại chỗ nên thực dân Pháp đã thay đổi kế
hoạch, chúng chỉ để lại một lực lượng nhỏ ở Đà Nẵng để giam chân quân đội
triều đình, còn lại kéo vào Nam mở cuộc tiến công Gia Định. Ngày 10 tháng 2
năm 1859 từ Vũng Tàu chúng pháo kích các công sự bảo vệ con đường thuỷ vào
Gia Định, và vài ngày sau đó chúng chiếm được thành Gia Định. Trải qua hơn
bốn mươi năm thực dân Pháp đã hoàn toàn đặt được ách thống trị trên đất nước
ta. Trong thời gian ấy chúng lần lượt chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và ba
tỉnh miền tây Nam Kỳ. Sau khi toàn bộ Nam Kỳ đã rơi vào tay giặc, chúng bắt
đầu đánh ra Bắc Kỳ, rồi đánh Trung Kỳ. Thắng lợi của thực dân Pháp được đánh
dấu bằng những hàng ước mà triều đình Nguyễn lần lượt ký kết với chúng.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, cả dân tộc ta với tinh thần yêu
nước đã tiến hành một cuộc chiến đấu quyết liệt chống lại kẻ thù. Và cuộc chiến
đấu chống thực dân Pháp nửa cuối thế kỷ XIX là những trang rực rỡ về lòng yêu
nước của nhân dân ta. Trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp giai đoạn nửa
cuối thế kỷ XIX, giai cấp phong kiến lúc đầu còn chống đối một phần nào
nhưng dần dần về sau đã thoả hiệp và từng bước đầu hàng thực dân Pháp. Trong
triều bộ phận đầu não của nhà nước phong kiến lúc đầu đã chia thành hai phái,
một phái với tư tưởng chủ hoà và một phái với tư tưởng chủ chiến. Phái chủ hoà
thì chủ trương giữ thế thủ. Họ đề nghị kéo dài tình trạng giằng co để đợi cho
thực dân Pháp “mỏi”. Trái lại, phái chủ chiến gồm những người yêu nước nhưng
mang nặng tư tưởng bài ngoại, như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất
Thuyết… nói chung kém thế lực.
3
Trong khi Nam Kỳ đang dồn sức chống ngoại xâm thì ở miền Trung và
miền Bắc chưa có ngoại xâm, bọn phong kiến tăng cường bóc lột nhân dân một
cách thậm tệ. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân vì thế đã nổ ra. Nhà nước
thống trị đứng trước hai mâu thuẫn, bên ngoài thì mâu thuẫn với bọn thực dân
xâm lược, bên trong lại mâu thuẫn với phong trào khởi nghĩa của nông dân.
Triều đình nhà Nguyễn đã thoả hiệp với bọn thực dân để quay lại đàn áp phong
trào nông dân trong nước. Hàng ước 1862 đã ra đời trong bối cảnh như vậy. Sau
năm 1862, triều đình nhà Nguyễn đã không còn vai trò gì trong cuộc kháng
chiến chống Pháp nữa. Và như vậy là cuộc kháng chiến chống Pháp sau năm
1862 không những tập trung vào thực dân Pháp mà còn bắt đầu đả kích cả triều
đình phong kiến đầu hàng. Nhưng phải đến hàng ước năm 1884, sự đầu hàng
của triều đình mới hoàn toàn bộc lộ và từ đây triều đình thực sự trở thành mục
tiêu đả kích của nhân dân bên cạnh việc đả kích thực dân Pháp.
Cuộc kháng chiến chống Pháp trong phong trào Cần Vương tiếp sau đó
vẫn chịu sự chi phối ít nhiều của ý thức hệ phong kiến nhưng không phải do
những người đại diện chính quyền phong kiến cầm đầu, mà do các văn thân và
sĩ phu yêu nước chống Pháp lãnh đạo. Phong trào rầm rộ từ Bình Định, Quảng
Bình ra đến Hưng Yên, Thái Bình, Tây Bắc và kéo dài đến gần hết thế kỷ XIX.
Tiếng súng Cần Vương tắt dần, cuộc chiến đấu gần như không còn phương
hướng nhưng lòng yêu nước của nhân dân ta thì không bao giờ tắt. Không bốc
lên thành ngọn nửa thì nó cháy âm ỉ trong lòng, để chờ một ngọn gió mới sẽ lại
bùng lên mãnh liệt
Đây là những diễn biến lịch sử cơ bản đã diễn ra trong giai đoạn nửa cuối
thế kỷ XIX. Đây là giai đoạn lịch sử dân tộc trải qua những biến cố thăng trầm,
bắt đầu rơi vào sự thống trị của thực dân Pháp, nhân dân phải chịu đồng thời
nhiều tầng áp bức từ triều đình phong kiến và đế quốc thực dân. Bối cảnh lịch sử
này đã chi phối tới đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân
trong xã hội; tới mọi khía cạnh của đời sống. Và đặc biệt nó có ảnh hưởng rõ rệt
và trực tiếp đối với sự phát triển của văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.
4
Do sự ra đời và phát triển trong điều kiện xã hội có những biến cố trọng
đại và sau lưng nó có một truyền thống lâu đời về văn học và văn hoá dân tộc,
văn học giai đoạn cuối thế kỷ XIX có những nét đặc thù riêng và có những đóng
góp nhất định cho lịch sử dân tộc. Trên quan điểm vận động của lịch sử, có thể
nói giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XIX đã có những thành tựu đáng kể cho
nền văn học nước nhà.
Văn học giai đoạn này bắt đầu bằng thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình
Chiểu và và kết thúc bằng thơ văn tố cáo hiện thực xã hội của Tú Xương và
Nguyễn Khuyến. Đây chính là giai đoạn cuối cùng của thời kỳ thứ nhất trong
lịch sử văn học dân tộc. Cũng là giai đoạn mà ở đó nổi bật lên tên tuổi của
những nhà văn nhà thơ với những tác phẩm thể hiện rõ nét tinh thần yêu nước
của mình.
Một ai đó đã nói rằng: văn học là tấm gương phản ánh hiện thực. Quả
đúng như vậy, tấm gương hiện thực này được chiếu lên bởi sự đóng góp của mỗi
nhà văn, nhà thơ chân chính. Ở giai đoạn văn học này nổi lên rất nhiều tên tuổi
của những nhà văn, nhà thơ có tinh thần yêu nước. Nguyễn Khuyến là một trong
những nhà thơ tiêu biểu đó, thông qua những tác phẩm của Nguyễn Khuyến
chúng ta có thể hiểu được phần nào đặc điểm văn học giai đoạn này.
2. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN
Nguyễn Khuyến sinh năm Ất Mùi (1835) ở Hoàng Xá, huyện Ý Yên,
Nam Định nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu ở làng Yên Đổ, huyện Bình Lục
tỉnh Hà Nam.
Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo nhưng có
truyền thống học hành thi cử. Ông nội Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Tích đỗ
nho sinh, cha là Nguyễn Tông Khải đỗ liền ba khoa tú tài, nhưng trượt cử nhân.
Từ nhỏ Nguyễn Khuyến đã nổi tiếng là người chăm chỉ học hành giỏi giang.
Năm mười bảy tuổi ông đi thi Hương với cha nhưng không đậu, sau đó cha mất
vì nhà nghèo nên ông đã phải thôi học để đi dạy thuê kiếm tiền nuôi mẹ. Lúc
bấy giờ có ông Nghè là Vũ Văn Lý, người làng Vĩnh Trụ, huyện Thanh Liêm
5
tỉnh Hà Nam thấy ông học giỏi mà phải bỏ dở giữa chừng nên đã đem về nuôi và
cho ăn học tiếp. Năm Giáp Tý (1864), Nguyễn Khuyến đi thi Hương đậu giải
nguyên trường thi Nam Định. Năm sau Nguyễn Khuyến đi thi Hội không đỗ,
ông ở lại Huế học trường Quốc Tử Giám để chờ kỳ thi khác. Năm Tân Mùi
(1871), Nguyễn Khuyến thi hội lần thứ hai, đỗ Hội Nguyên sau đó vào thi đình,
đỗ Đình Nguyên. Như thế là cả ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ
đầu nên người ta gọi ông là Tam nguyên Yên Đổ.
Sau khi đậu xong, Nguyễn Khuyến được bổ làm quan ở Nội các Huế, năm
sau đổi làm Đốc học Thanh Hoá, rồi sát Nghệ An, nhưng được mấy tháng thì mẹ
mất và ông xin về quê để chịu tang mẹ. Mãn tang ông vào kinh làm Biện lý bộ
Hộ. Năm 1877, đổi làm Bố chánh Quảng Ngãi, năm 1879, Nguyễn Khuyến bị
điều về Kinh sung chức Trực học sĩ và làm Toản tu ở Quốc sử quán. Năm 1883
triều đình Huế cử ông làm phó sứ cùng với Lã Xuân Oai, tuần phủ Lạng Bình
làm chánh sứ đi công cán nhà Thanh, nhưng tình hình biến đổi đến tháng 8 năm
1883 Thuận An thất thủ, việc đi sứ bị đình lại và ông trở về với chức cũ. Tháng
12 năm ấy thục dân Pháp đánh Sơn Tây, Nguyễn Hữu Độ đã cử Nguyễn Khuyến
lên làm quyền Tổng đốc nhưng ông dứt khoát từ chối, lấy cớ đau mắt nặng xin
cáo quan về làng.
Nguyễn Khuyến làm quan tất cả có 11 năm từ 1872 đến 1883, còn phần
lớn cuộc đời của ông gắn bó với quê nhà, một vùng đồng ruộng chiêm trũng.
Nguyễn Khuyến rất có ý thức về khí tiết của ông. Trong khoảng thời gian ông ra
làm quan cho nhà Nguyễn khi thì ở Huế, khi thì ở các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hoá,
Tuyên Quang, lúc nào ông cũng sống một cuộc đời cần kiệm, liêm chính, không
làm việc gì khả dĩ làm nhơ bẩn đến đạo đức cao thượng của ông. Ông đã tự ví
mình như cái lược quý bằng đồi mồi dùng để chải cho sạch hết cái bụi bẩn.
Trong thời gian từ quan về sống tại quê nhà, Nguyễn Khuyến sống gần gũi với
quần chúng, và do vậy hiểu được những tâm tình, lo toan của những người xung
quanh. Ông làm thơ tặng bạn bè, tặng anh vợ, tặng ông hàng thịt…làm câu đối
viếng người làng, viếng người thợ rèn, hay mừng đám cưới, mừng tân gia…
Nguyễn Khuyến viết nhiều về con người, về thiên nhiên, cảnh vật xung quanh
6