Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý Giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

Nguyễn Thị Thanh Huyền

KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT KHOA GIÁO DỤC
- HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

Nguyễn Thị Thanh Huyền

KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT KHOA GIÁO DỤC
- HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ THU HOA



HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới hướng
dẫn của Tiến sĩ Phạm Thị Thu Hoa. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là
trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Học viên

Nguyễn Thị Thanh Huyền


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng
dạy trong chương trình Cao học Tâm lý học khóa 2012 - 2014, Đại học Khoa học
xã hội nhân văn, những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích về
Tâm lý học làm cơ sở cho tôi thực hiện tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Phạm Thị Thu Hoa đã tận tình hướng
dẫn cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn. Mặc dù trong quá trình thực hiện
luận văn có giai đoạn không được thuận lợi nhưng những gì cô đã hướng dẫn, chỉ
bảo đã cho tôi nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô đang giảng dạy tại
Khoa Giáo dục - Học viện Quản lý Giáo dục đã tận tình giúp đỡ trong việc tham
gia phỏng vấn cũng như góp ý về những thiếu sót trong bảng khảo sát. Và cảm
ơn các bạn sinh viên năm thứ nhất của khoa Giáo dục đã giúp đỡ tôi trong quá
trình thực hiện luận văn.
Sau cùng tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình và bạn bè đã luôn tạo

điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng như thực hiện luận văn.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên
luận văn còn nhiều thiếu, rất mong nhận được ý kiến góp ý của thầy/cô và các
bạn học viên.

Hà Nội, tháng 10 năm 2014.
Học viên

Nguyễn Thị Thanh Huyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1: .................................................................................................. 4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG HỌC TẬP ...... 4
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................... 4
1.1.1. Ở nước ngoài ....................................................................... 4
1.1.2. Ở Việt Nam........................................................................... 6
1.2. Một số vấn đề lý luận của đề tài .......................................................... 10
1.2.1. Học tập của sinh viên Học viện Quản lý giáo dục ............. 10
1.2.2. Khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên Học viện Quản
lý giáo dục .................................................................................... 18
Chương 2: ................................................................................................ 28
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................ 28
2.1. Nghiên cứu lý luận ................................................................................ 28
2.1.1. Mục đích nghiên cứu lý luận ............................................. 28
2.1.2. Nội dung nghiên cứu lý luận ............................................. 28
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................. 28
2.2. Nghiên cứu thực tiễn ............................................................................. 28
2.2.1. Giai đoạn thiết kế bảng hỏi ................................................ 28

2.2.2. Giai đoạn điều tra chính thức ............................................ 29
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê. ................ 36
Chương 3: ................................................................................................ 40
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG KHÓ KHĂN TÂM LÝ
TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT KHOA
GIÁO DỤC - HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC ............................... 40
3.1. Khó khăn tâm lý biểu hiện ở mặt nhận thức trong học tập của sinh
viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục. ......... 40


3.2. Khó khăn tâm lý biểu hiện ở mặt thái độ trong học tập của sinh
viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục. ......... 44
3.3. Khó khăn tâm lý biểu hiện ở hành vi học tập của sinh viên năm
thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục .......................... 46
3.4. Hiệu quả học tập do ảnh hưởng của các khó khăn tâm lý ở sinh
viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục .......... 53
3.5. Nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên
năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục. ................... 55
3.6. Các biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong học tập của sinh
viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục ........... 61
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................ 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 68
PHỤ LỤC ................................................................................................ 71


DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

CĐSP

: Cao đẳng sư phạm


ĐH, CĐ

: Đại học, cao đẳng

GD ĐT

: Giáo dục đào tạo

GV

: Giáo viên

HVQLGD

: Học viện Quản lý giáo dục

KHXHNV

: Khoa học xã hội nhân văn

KKTL

: Khó khăn tâm lý

KTX

: Ký túc xá

SV


: Sinh viên


DANH MỤC BẢNG
Tên bảng

Nội dung

Trang

Bảng 3.1

Khó khăn tâm lý của sinh viên năm nhất biểu hiện qua

41

nhận thức
Bảng 3.2

Khó khăn tâm lý của sinh viên năm nhất biểu hiện qua

44

thái độ
Bảng 3.3

Khu vực thường trú của SV

45


Bảng 3.4

Khó khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trong đọc

46

sách
Bảng 3.5

Khó khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trong nghe

48

giảng và ghi chép
Bảng 3.6

Khó khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trong thuyết

49

trình, thảo luận
Bảng 3.7

Khó khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trong ôn tập

50

bài
Bảng 3.8


Khó khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trong nghiên

51

cứu khoa học
Bảng 3.9

Khó khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất trong tự

52

kiểm tra, đánh giá
Bảng 3.10 Hiệu quả hoạt động học tập do ảnh hưởng của các khó

53

khăn tâm lý ở sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục –
HVQLGD
Bảng 3.11 Nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý trong hoạt động học

56

tập của SV năm thứ nhất khoa Giáo dục – HVQLGD
Bảng 3.12 Các biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục HVQLGD.

61



DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
Tên bảng
Biểu đồ 3.1

Nội dung
Thời gian tự học trong 1 ngày sau những giờ lên lớp

Trang

62


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với mỗi người, học tập là một trong những hình thức hoạt động chính
không thể thiếu nhằm tiếp thu, lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội - lịch sử của
loài người đã được tích lũy qua nhiều thế hệ. Đối với sinh viên đại học, học tập là
một dạng hoạt động cơ bản mà thông qua nó người sinh viên có thể “nắm vững
kiến thức chuyên môn, kỹ năng thực hành về nghề, có khả năng phát hiện và giải
quyết các vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành đào tạo”, trở thành chuyên
gia trong lĩnh vực đào tạo, có khả năng lao động nghề, nuôi sống bản thân và
đóng góp, phục vụ cho xã hội trong tương lai. Do đó hoạt động học tập cần sự
quan tâm, nghiên cứu, tìm hiểu nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cũng như
giảm bớt những khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên.
Đối với sinh viên năm thứ nhất, để phát triển, xây dựng và hoàn thiện
nhân cách, hình thành bước đầu kinh nghiệm về tương lai, họ phải tiến hành hoạt
động học tập với sự làm quen, thích nghi với một môi trường học tập mới hoàn
toàn so với ở bậc phổ thông. Trong quá trình này sẽ nảy sinh ra nhiều khó khăn,
gây cản trở sự thích ứng với hoạt động học tập của họ, dẫn đến hiệu quả trong
học tập không cao. Như vậy, khó khăn tâm lý trong học tập chính là những nét

tâm lý cá nhân, nảy sinh, tồn tại trong hoạt động học tập của người sinh viên,
gây cản trở, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình và hiệu quả hoạt động học tập
của chính người sinh viên đó.
Học tập ở trường đại học là một dạng hoạt động cơ bản của sinh viên.
Thông qua hoạt động này, sinh viên tiếp thu được hệ thống tri thức khoa học và
kỹ năng thực hành, kỹ năng vận dụng những điều đã học và việc giải quyết các
vấn đề đặt ra trong thực tiễn. Nhưng không phải lúc nào việc học tập của sinh
viên cũng diễn ra một các suôn sẻ, có nhiều lúc bị trì hoãn, bị cản trở, làm ảnh
hưởng không tốt đến kết quả học tập của các em. Ngoài ra, việc thay đổi môi
trường học tập đã gây ra nhiều khó khăn cho sinh viên năm thứ nhất nói chung,
sinh viên năm thứ nhất Khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục nói riêng.
Học viện Quản lý giáo dục là một trong số các trường đào tạo theo hình
thức niên chế. Mỗi chương trình đào tạo của một ngành học được quy định đào
tạo trong một số năm nhất định. Sinh viên học hết thời gian quy định nếu không

1
-


bị lưu ban, dừng tiến độ học tập thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học, được ra
trường. Ngoài ra, chương trình đào tạo theo niên chế có khối kiến thức giáo dục
đại cương và khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp, các khối kiến thức này
được bố trí theo một tỷ lệ nhất định. Trong đào tạo theo niên chế áp dụng rất
nhiều phương pháp giảng dạy như thuyết trình, giảng dạy dựa trên vấn đề,
semina, thảo luận nhóm, thực hành, đi thực tập thực tế cộng đồng, thực tập tốt
nghiệp. Tuy đã có rất nhiều hội thảo về đổi mới công tác giảng dạy nhưng
phương pháp học tập của sinh viên ở trên lớp vẫn còn thụ động, chủ yếu là nghe
giảng, ghi chép, học thuộc lòng, ít tham gia vào bài giảng. Chính vì vậy, hình
thức học này cũng đã khiến sinh viên năm thứ nhất gặp những khó khăn tâm lý
nhất định trong việc học tập của mình.

Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Khó
khăn tâm lý trong học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học
viện Quản lý giáo dục”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ các khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa
Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục và các nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý
này. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị để tháo gỡ những khó khăn tâm lý
trong học tập của các em, đồng thời góp phần vào việc nâng cao hiệu quả học tập
ở sinh viên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và xây dựng cơ sở lý luận về khó khăn tâm lý, những biểu
hiện của khó khăn tâm lý, nguyên nhân khó khăn tâm lý trong học tập của sinh
viên.
- Làm rõ thực trạng khó khăn tâm lý và những nguyên nhân gây ra khó khăn
tâm lý trong học tập ở sinh viên.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm giảm bớt những khó khăn tâm lý trong học
tập của SV năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục.
4. Đối tượng nghiên cứu
Khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục Học viện Quản lý giáo dục và tác động của các yếu tố này đến việc học tập của
các em.

2
-


5. Khách thể nghiên cứu
160 sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục.
6. Giả thuyết khoa học của đề tài
Đa số sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục
đều gặp phải những khó khăn tâm lý trong học tập ở cả ba mặt: nhận thức, thái độ

và hành vi. Trong đó, khó khăn ở mặt hành vi là nhiều nhất. Sinh viên chưa có
phương pháp học tập hợp lý là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc sinh
viên gặp khó khăn tâm lý trong học tập.
7. Giới hạn nội dung, phạm vi nghiên cứu của đề tài
7.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số KKTL trong
học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục
biểu hiện ở ba mặt: nhận thức, thái độ, hành vi. Nguyên nhân gây ra khó khăn
tâm lý trong học tập, các biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý trong học tập.
Trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn tâm lý
trong học tập của SV năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý Giáo dục.
7.2 Giới hạn về phạm vi nghiên cứu
Chỉ nghiên cứu thực trạng khó khăn tâm lý trong học tập của 160 sinh viên
năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục.
8. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp thống kê toán học
9. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm: Danh mục bảng biểu; Phần Mở đầu; Nội dung (3 chương: chương
1: Cơ sở lý luận về khó khăn tâm lý trong học tập; Chương 2: Tổ chức và phương
pháp nghiên cứu; Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực trạng khó khăn tâm lý
trong học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý Giáo
dục); Kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo.

3
-



Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG HỌC TẬP
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong lịch sử nghiên cứu, vấn đề khó khăn tâm lý đã được nhiều nhà tâm lý
xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều loại khách thể với nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên, nghiên cứu phát hiện ra những khó khăn tâm lý trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất đã được đề cập nhưng chưa nhiều. Ở Việt Nam
các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu những khó khăn tâm lý trong giao tiếp,
ngoài ra còn một số tác giả xem xét nghiên cứu những khó khăn tâm lý trong hoạt
động học tập nhưng chưa đi sâu vào các mặt cụ thể.
1.1.1. Ở nước ngoài
Đối với con người, học tập là phương thức để tiếp thu tri thức, kỹ năng
nhằm mục đích nhận biết, tác động, cải tạo thế giới hiện thực, phục vụ cho lợi ích
của con người. Loài người đã chứng minh, chỉ thông qua con đường học tập,
những di sản văn hoá vật chất, tinh thần từ thế hệ trước mới được lưu truyền cho
thế hệ sau và cũng nhờ đó mà những giá trị này mới còn tồn tại. Tuy nhiên, học
tập không phải là một hoạt động đơn giản. Trong quá trình biến tri thức của nhân
loại thành vốn kinh nghiệm riêng của cá nhân mỗi con người đã gặp không ít khó
khăn, trong đó khó khăn về mặt tâm lý cũng nằm trong số đó.
Nghiên cứu KKTL trong học tập là công việc được nhiều nhà khoa học quan
tâm. Người ta đã đưa ra nhiều loại khó khăn tâm lý trong học tập.
Trước tiên, chúng tôi đề cập đến nghiên cứu của tác giả A.V. Petrovxki. Khi
bàn về KKTL của trẻ em đi học lớp 1, ông cho rằng có 3 loại khó khăn: [7]
Loại 1: Những khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập.
Loại 2: Khó khăn trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp mới với thầy cô và
bạn bè.
Loại 3: Khó khăn trong việc thích nghi với hoạt động mới, lúc đầu trẻ được
sự chuẩn bị của gia đình, nhà trường và xã hội nên trẻ có tâm lý vui, thích, sẵn
sàng đi học, về sau giảm dần khát vọng và chán học.

Bên cạnh đó, tác giả đề cập những nguyên nhân dẫn đến khó khăn và ảnh
hưởng của chúng đến đời sống của trẻ đồng thời đề xuất biện pháp giải quyết khó

4
-


khăn cho trẻ. Như vậy, tác giả đã đi sâu nghiên cứu khó khăn tâm lý đối với hoạt
động học tập nhưng nó mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu học sinh lớp 1.
Theo Binaka Zazzo cùng cộng sự của bà thuộc trung tâm nghiên cứu trẻ em
của đại học Paris, 10 công trình nghiên cứu về bước chuyển từ mẫu giáo lên lớp
12 của trẻ em. Tác giả đã chỉ ra KKTL lớn nhất mà trẻ gặp phải làm cản trở đến
sự thích ứng với hoạt động học tập của trẻ là: “Sự thay đổi môi trường hoạt động
một cách triệt để, gọi là chuyển dạng hoạt động chủ đạo, vừa chơi trở thành hoạt
động đa dạng, tính tùy tự do tùy hứng của cá nhân nặng hơn là tính chỉ đạo của
giáo viên. Bước sang lớp 1, học tập chủ đạo của học sinh phải nghiêm chỉnh theo
sự chỉ đạo của giáo viên, theo nguyên tắc lớp học”[17].
Trong công trình nghiên cứu của G.M.Andreva khi phân tích chức năng
thông tin về giao tiếp đã chỉ ra một vài nguyên nhân làm nảy sinh các khó khăn
tâm lý trong quá trình giao tiếp. Tác giả cho rằng những khó khăn này có thể nảy
sinh do sự khác biệt về tôn giáo, ngôn ngữ, nghề nghiệp, thiếu đồng nhất trong
nhận thức tình huống giao tiếp giữa các thành viên tham gia giao tiếp hoặc do đặc
điểm tâm lý cá nhân. [30]
Như vậy, ở các công trình nghiên cứu này các tác giả đã phát hiện ra 1 số
nguyên nhân làm nảy sinh các khó khăn tâm lý trong giao tiếp, nhưng để đưa ra
khái niệm khó khăn tâm lý trong giao tiếp là gì thì tác giả chưa đề cập tới.
Đến năm 1987, E.V.Sucanova đã đánh dấu một mốc quan trọng trong công
việc nghiên cứu vấn đề khó khăn tâm lý trong giao tiếp bằng việc đã ra cuốn sách
“Những khó khăn của giao tiếp liên nhân cách”. Trong công trình này tác giả có
đề cập đến những vấn đề sau:

- Bản chất tâm lý của những khó khăn trong giao tiếp liên nhân cách.
- Vị trí của hiện tượng giao tiếp, khó khăn trong cấu trúc của vấn đề tâm lý
xã hội.
- Những đặc điểm của việc nhận thức các nguyên nhân gây ra khó khăn
trong giao tiếp công việc.
- Nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của các yếu tố khó khăn đến quá
trình giao tiếp công việc.

5
-


Qua quá trình nghiên cứu này, tác giả đã phát hiện được một số khó khăn
tâm lý trong giao tiếp và nguyên nhân nảy sinh chúng. Nhưng ông chưa đưa ra
được các định nghĩa về khó khăn tâm lý trong giao tiếp và chưa phân loại chúng
một cách cụ thể. [37].
Một số tác giả như Maurice Debesse, Bianka Zazzo…đã nghiên cứu về
khó khăn tâm lý của trẻ khi đi học lớp 1. Các tác giả đã phát hiện được khó khăn
tâm lý và đã xác định được một số nguyên nhân làm cản trở trẻ thích ứng với hoạt
động mới, hoạt động học tập.
Tóm lại, các tác giả nước ngoài khi nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong
hoạt động học tập của học sinh ít nhiều chỉ ra được vấn đề lí luận trong bản chất
của khó khăn tâm lý, nguyên nhân dẫn đến khó khăn đó, đồng thời tác giả cũng
chỉ ra được ảnh hưởng của nó tới hoạt động học tập của học sinh… Tuy nhiên so
với các lĩnh vực khác, vấn đề khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập còn ít
được các nhà khoa học nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt, nghiên cứu
khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm nhất chưa được
nghiên cứu nhiều. Mặc dù đây là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả học tập của sinh viên. Vì vậy, nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động
học tập của sinh viên nói chung và sinh viên năm nhất nói riêng cần các nhà khoa

học nghiên cứu nhiều hơn và toàn diện hơn.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này chưa nhiều. Các
nhà khoa học như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Thị Nhất, Trần Trọng Thủy,
Phạm Thị Đức, Nguyễn Xuân Thức đều có chung nhận định: “trẻ em khi đi học
lớp 1 có gặp và gặp nhiều những khó khăn tâm lý cản trở hoạt động của trẻ ở nhà
trường tiểu học, những khó khăn tâm lý này nhìn một cách khái quát là sự không
phù hợp giữa đặc điểm tâm lý và hành vi ứng xử của nhân cách trẻ với nội dung,
đối tượng, hoàn cảnh hoạt động mới mẻ của trẻ được biểu hiện ở các dấu hiệu
nhận thức - xúc cảm - hành vi ứng xử của trẻ em khi đi học lớp 1. Khó khăn tâm
lý thể hiện ở các dạng hoạt động khác nhau của trẻ trong nhà trường tiểu học,
trong đó hoạt động học tập là chủ yếu.
Một số công trình nghiên cứu KKTL trong học tập. Chẳng hạn như:

6
-


Năm 1992, Nhà giáo dục Nguyễn Thị Nhất trong tác phẩm "6 tuổi vào lớp
1" đã phát hiện ra nhiều khó khăn tâm lý mà trẻ lớp một phải vượt qua. Tác giả
cho rằng "trong quá trình lớn lên của trẻ em có những bước ngoặt chuyển tư giai
đoạn này sang giai đoạn khác đòi hỏi trẻ em phải thay đổi phương thức sinh hoạt
một cách triệt để". Đồng thời tác giả cũng nêu ra một số khó khăn tâm lý cụ thể
mà trẻ lớp một phải vượt qua: Trẻ phải rời bỏ cuộc sống thoải mái, đa dạng, vui
nhộn, hoạt động tùy hứng ở mẫu giáo và khép mình vào kỷ luật nghiêm khắc của
lớp học phổ thông; Trẻ gặp khó khăn trong quan hệ với giáo viên; Trẻ bị "vỡ
mộng" khi vào học lớp một vì sự hân hoan hồi hộp chờ đón những điều hấp dẫn
được thay bằng những điều khác xa với tưởng tượng của trẻ. [18].
Năm 1995, tác giả Nguyễn Minh Hải trong bài “Những khó khăn tâm lý
trong quá trình giải toán của học sinh tiểu học” đã đề cập đến các nguyên nhân

khác nhau hạn chế năng lực giải toán của học sinh tiểu học. [10, tr.25].
Năm 1998, Tác giả Nguyễn Thanh Sơn, trong bài viết “Những khó khăn
của học sinh miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam” [21] đã phân
tích những khó khăn của của học sinh miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển
Việt Nam và chỉ ra những khó khăn mà học sinh gặp phải là:
- Hoàn cảnh giao tiếp thông tin của học sinh miền núi bị hạn chế.
- Vốn từ ngữ của học sinh miền núi còn thiếu và yếu.
- Năng lực cảm thụ một câu thơ, một đoạn thơ yếu…
Theo tác giả, nguyên nhân của những khó khăn của học sinh miền núi khi
học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam là do tầm văn hoá, vốn sống, vốn hiểu
biết của các em còn hạn chế. Vì vậy muốn nâng cao năng lực cảm thụ văn học
của các em phải mở rộng tầm hiểu biết cuộc sống, xã hội cho các em. Những hoạt
động ngoại khoá, du lịch, câu lạc bộ văn hoá.. là những hoạt động có tác dụng tốt
đối với học sinh.
Năm 2000, trong tác phẩm "Nỗi khổ của con em chúng ta", bác sĩ Nguyễn
Khắc Viện đã nêu ra những khó khăn tâm lý mà học sinh lớp một gặp phải đó là:
Trẻ phải giữ kỷ luật lớp học; trẻ phải học một chương trình nặng hơn so với tuổi
mẫu giáo; trẻ ít được bố mẹ vỗ về âu yếm hơn trước và trẻ luôn chịu sự kiểm tra,
đánh giá của bố mẹ. [26]

7
-


Năm 2001, tác giả Nguyễn Thị Nhân Ái với luận văn "Tìm hiểu những khó
khăn tâm lý trong quá trình giải bài tập hình học của học sinh lớp 11 trung học
phổ thông”. Đề tài này, tác giả đã nêu ra những khó khăn tâm lý mà học sinh gặp
phải là những yếu tố bên ngoài, như điều kiện, phương tiện hoạt động… có thể là
những yếu tố bên trong như: sự thiếu hiểu biết sâu sắc đối tượng, việc chủ thể
thực hiện các thao tác, hành động không thích hợp. Tác giả tập trung vào những

khó khăn trong việc giải bài tập, chứ không tập trung vào những khó khăn khác.
[1].
Ngoài ra, có một số công trình nghiên cứu về KKTL trong học tập của sinh
viên năm thứ nhất, chẳng hạn như:
Năm 2002, tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền với đề tài "Thực trạng khó khăn
tâm lý trong quá trình giải bài tập thực hành các thao tác kỹ thuật của sinh viên
trường CĐSP Kỹ Thuật Vinh". Luận văn của tác giả đề cập đến những khó khăn
mà sinh viên trong trường kỹ thuật gặp phải trong quá trình giải các bài tập thực
hành. Cũng giống với luận văn của Nguyễn Thị Nhân Ái là tập trung vào khó
khăn trong việc giải bài tập. [13]
Năm 2004, tác giả Nguyễn Văn Diệp với luận văn thạc sĩ tâm lý học
“Những khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên năm thứ nhất Trường cao
đẳng sư phạm Điện Biên” đã nêu ra nhóm các trở ngại tâm lý cản trở đến hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra nhóm
nguyên nhân gây ra các cản trở tâm lý trong hoạt động học tập.
Năm 2005, tác giả Đỗ Văn Bình với luận văn “Nghiên cứu khó khăn tâm
lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất Cao đẳng sư phạm Quảng
Trị”, tác giả đã đưa ra nhận định rằng, tất cả sinh viên năm thứ nhất của trường
đều gặp phải khó khăn tâm lý trong học tập. Các khó khăn này rất đa dạng và
phức tạp, diễn ra ở tất cả các khâu của hoạt động học tập. Sinh viên gặp khó khăn
nhiều nhất là mặt nhận thức, tiếp đến là khó khăn về mặt hành vi, sau cùng là khó
khăn về mặt xúc cảm.
Cũng trong năm 2005, luận văn thạc sĩ “Một số khó khăn tâm lí trong hoạt
động học tập của học sinh lớp 1 học kém ở thành phố Lạng Sơn” cũng nghiên cứu

8
-


tới vấn đề khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập nhưng là nghiên cứu trên

những học sinh lớp 1 học kém.
Năm 2006, tác giả Nguyễn Xuân Thức, trong bài viết "Các nguyên nhân
dẫn đến khó khăn tâm lý của học sinh đi học lớp một" đã nêu ra các nguyên nhân
cụ thể sau: Các nguyên nhân chủ quan: Trẻ chưa hiểu rõ nội quy; trẻ được chuẩn
bị quá kỹ trước khi tới trường; trẻ không được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đi học; do
tính cách của trẻ; do trẻ chưa đủ tuổi đến trường; do trẻ mắc một số bệnh bẩm
sinh. Các nguyên nhân khách quan: Nhóm nguyên nhân thuộc về gia đình; nhóm
nguyên nhân thuộc về nhà trường; nhóm nguyên nhân thuộc về xã hội. Tác giả
cho rằng, các nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân gây ra khó khăn tâm
lý nhiều hơn cho học sinh lớp một. Ngoài ra tác giả cũng đưa ra một số giải pháp
sư phạm để tháo gỡ những khó khăn tâm lý cho trẻ. Tác giả cho rằng, các nguyên
nhân chủ quan là những nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý nhiều hơn cho học
sinh lớp một. Ngoài ra tác giả cũng đưa ra một số giải pháp sư phạm để tháo gỡ
những khó khăn tâm lý cho trẻ [23, tr.12 - 15].
Năm 2007, luận văn thạc sĩ “Những khó khăn tâm lý trong hoạt động học
tập của SV các dân tộc thiểu số năm thứ nhất trường CĐSP Sơn La”. Mục đích
của luận văn này chính là phát hiện những khó khăn tâm lý trong học tập của SV
các dân tộc thiểu số năm thứ nhất, nguyên nhân của những khó khăn đó, từ đó
đưa ra các biện pháp, cách thức tác động nhằm hạn chế những khó khăn.
Năm 2007, luận văn thạc sĩ “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh viên năm nhất Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn này tìm
hiểu một số khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đề xuất một số biện
pháp nhằm giảm bớt những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh
viên. [15]
Năm 2008, tác giả Nguyễn Xuân Thức với luận văn “Khó khăn tâm lí
trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học sư phạm Hà
Nội”[22]. Mục đích của luận văn cũng là tìm ra những khó khăn tâm lý trong hoạt
động học tập của sinh viên năm nhất trường sư phạm.


9
-


Năm 2011, luận văn “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh
viên năm nhất trường Học viện Hậu cần” [20]. Luận văn này phân tích thực trạng
khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ nhất ở Học viện
Hậu cần. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp nhằm giảm bớt những khó khăn
trong học tập của sinh viên trong trường quân đội.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên phần nào đã nói
đến những khó khăn tâm lý trong học tập. Tuy nhiên, đối tượng ở đây tập trung
nhiều vào học sinh tiểu học, phổ thông. Những vấn đề về khó khăn tâm lý đối với
học tập của SV còn chưa được nghiên cứu nhiều và sâu.
Tóm lại, các nghiên cứu ở trong và ngoài nước mới chỉ đề cập được một số
khía cạnh về khó khăn tâm lý nói chung và khó khăn tâm lý trong học tập nói
riêng. Các tác giả mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu khó khăn tâm lý trong học tập
của học sinh mà chưa chú ý đến đối tượng sinh viên, đặc biệt là sinh viên Học
viện Quản lý giáo dục. Mặt khác, khi nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong học
tập, đòi hỏi chúng ta phải xem xét nó trên từng mặt của học tập. Vì vậy, việc tiếp
tục nghiên cứu vấn đề này từ phương diện tâm lý học thực sự cần thiết, có ý nghĩa
cả về mặt lý luận và thực tiễn.
1.2. Một số vấn đề lý luận của đề tài
1.2.1.Học tập của sinh viên Học viện Quản lý giáo dục
1.2.1.1. Khái niệm sinh viên
Sinh viên: Thuật ngữ sinh viên có nguồn gốc từ tiếng La Tinh “student”, là
người đang học tập hoặc đang tham gia tại một cơ sở giáo dục, có nghĩa là người
làm việc, học tập nhiệt tình, tìm kiếm, khai thác tri thức. [17, tr.44].
Sinh viên là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng hay trung cấp
chuyên nghiệp. Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề,
chuẩn bị cho công việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những

bằng cấp đạt được trong quá trình học. Quá trình học của họ theo hệ chính quy,
tức là họ đã phải trải qua các bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân: mầm non,
tiểu học, trung học, trung học phổ thông.
Quy chế công tác học sinh, sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1584/GD-ĐT ngày 27 tháng 7 năm 1993 của

10
-


Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) nêu rõ: “Người đang học trong hệ đại học và
cao đẳng gọi là sinh viên”.
Ngày nay, “Học, học nữa, học mãi”(Lê Nin) là khẩu hiệu của toàn xã hội
và học tập là công việc suốt đời. Các trường Cao đẳng và Đại học mở rộng cửa
cho tất cả những ai có nguyện vọng và điều kiện không phân biệt lứa tuổi, giới
tính, giàu nghèo... đều có thể học bằng nhiều con đường, hình thức khác nhau:
Chính quy, chuyên tu, tại chức, liên thông, văn bằng 2. Do đó, với khái niệm sinh
viên như trên thì ngoại diên của nó rất rộng.
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên cứu với đối
tượng là sinh viên hệ chính quy. Vì vậy, tôi sử dụng khái niệm sinh viên trong
quy chế công tác học sinh, sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng làm khái
niệm công cụ. Có thể thu hẹp nội hàm của khái niệm này như sau:
- Đó là những người đã tốt nghiệp trung học phổ thông.
- Họ đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh vào trường Đại học, Cao đẳng và đỗ
vào trường.
- Họ thuộc nhóm thanh niên, nam nữ từ 18 trở lên
- Họ chưa có nghề nghiệp, việc làm xác định, vì vậy lệ thuộc gia đình về
kinh tế.
- Họ là nhóm xã hội đặc biệt gồm những thanh niên từ các tầng lớp xã hội
khác nhau đang trong quá trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp chuyên môn để

bước vào một nhóm xã hội mới là tầng lớp tri thức trẻ.
1.2.1.2. Đặc điểm tâm lý của sinh viên Học viện Quản lý giáo dục
* Đặc điểm tâm lý tuổi sinh viên
Theo các nhà tâm lý học, sinh viên, những người thuộc lứa tuổi từ 18 đến
25, đã đạt đến mức độ trưởng thành cơ bản của con người cả về thể chất lẫn tinh
thần. Chính sự hoàn thiện này cho phép sinh viên có thể chọn lựa và thực hiện
những gì có ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của họ một cách độc lập như
chọn nghề sau khi kết thúc học tập ở trường phổ thông, xác định lý tưởng …
B.G.Ananhev đã nhận định, sinh viên có khả năng lập kế hoạch và thực hiện hoạt
động một cách độc lập, có sự biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã
hội có liên quan đến nghề nghiệp, xác định con đường sống tích cực, nắm vững

11
-


nghề nghiệp tương lai, bắt đầu thể nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của cuộc sống
[17, tr.61].
Đặc điểm tâm lý quan trọng nhất của lứa tuổi sinh viên là sự tự ý thức phát
triển mạnh mẽ. Tự ý thức bao gồm: khả năng tự đánh giá, tự kiểm tra, tự nhận
thức về bản thân. Sinh viên có khả năng đánh giá, nhìn nhận một cách tương đối
toàn diện về bản thân từ khả năng nhận thức, xác định tư tưởng, tình cảm, động
cơ, hành vi cũng như vị trí của bản thân trong nhóm, trong tập thể. Chính nhờ sự
tự ý thức đó sinh viên mới có thể tự điều chỉnh hành vi, cử chỉ, thái độ của mình.
Thành phần quan trọng nhất để tạo nên sự phát triển tự ý thức của SV là
năng lực tự đánh giá, thể hiện thái độ đối với bản thân. Tự đánh giá sẽ hình thành
nên lòng tự trọng của cá nhân, bảo đảm cho tính tích cực của nhân cách được thể
hiện trong đời sống cá nhân cũng như trong mối quan hệ liên nhân cách.
Bước vào tuổi sinh viên, khi mà việc xác định nghề nghiệp đã bắt đầu
được hình thành rõ ràng, người thanh niên - sinh viên bắt đầu với các hình thức

hoạt động mới. Trong giai đoạn này, người sinh viên phải đối mặt với những khó
khăn nhất định cả về vật chất lẫn tinh thần. Sự thay đổi của môi trường, sự thay
đổi của phương thức hoạt động… đòi hỏi người sinh viên phải giải quyết để có
thể học tập tốt nhằm hình thành cơ sở vững chắc cho nghề nghiệp tương lai. Việc
giải quyết hiệu quả những khó khăn giúp cho người sinh viên có niềm tin đúng
đắn cho việc chọn nghề, là cơ sở củng cố nghề nghiệp tương lai cũng như tạo điều
kiện cho sự phát triển nhân cách được thuận lợi.
Tuổi sinh viên là thời gian quan trọng nhất cho sự phát triển nhân cách,
nhân cách nghề nghiệp. Đây là lứa tuổi mà các chức năng tâm lý, đặc biệt là sự
phát triển các năng lực trí tuệ diễn ra hiệu quả nhất. Tuy nhiên, để phát triển nhân
cách toàn diện, điều quan trọng là người sinh viên phải hiểu được tính không lặp
lại trong tính cách của mình. Với lứa tuổi sinh viên B.G.Ananhiev đã viết: “Lứa
tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về tình cảm đạo đức và thẩm mỹ,
là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách. Đặc biệt là vai trò xã hội của người
lớn” [17, tr.61]. Sự phát triển nhân cách của sinh viên diễn ra trong suốt quá trình
học tập ở đại học - cao đẳng diễn ra với mục đích trở thành một người chuyên gia
có trình độ năng lực và đạo đức nghề nghiệp trong tương lai. Vốn hiểu biết, kinh

12
-


nhiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp… được hoàn thiện và dần dần nghề nghiệp
hoá. Phần lớn sinh viên năm nhất - khoa Giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục
đều nằm trong lứa tuổi sinh viên, vì vậy họ cũng có những đặc điểm tâm lý chung
của lứa tuổi sinh viên.
* Đặc điểm sinh viên năm thứ nhất
SV năm thứ nhất, họ là những người vừa rời khỏi ghế nhà trường PT bước
vào ngưỡng cửa ĐH, CĐ. Thông thường họ có độ tuổi 17, 18 với đầy sức trẻ,
hoài bão và có ý chí vươn lên. Nhân cách của họ đã và đang phát triển mạnh, họ

đã có ý thức về những hành vi của mình.
SV năm thứ nhất chưa có được phẩm chất nghề nghiệp chuyên biệt thuộc
một ngành nhất định. Họ là con em thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau, ở nông
thôn và thành thị. Do đó, các yếu tố bẩm sinh di truyền đã được biến đổi dưới ảnh
hưởng của giáo dục gia đình, trường phổ thông, các phong tục tập quán địa
phương và những điều kiện sống, sinh hoạt nói chung. Vào trường ĐH, CĐ họ đã
có một số phẩm chất tương đối ổn định, đại diện cho lối sống của tầng lớp, giai
cấp và của địa phương mình. Do vậy, trong tập thể SV năm thứ nhất thường có va
chạm mạnh do tính độc đáo của nhân cách con người trẻ. Trong quá trình làm
quen với cuộc sống tập thể đầu tiên ở trường ĐH, CĐ SV thường có hành vi bắt
chước lẫn nhau thể hiện bước đầu đồng nhất xã hội. Ở đây, SV chưa có quan
điểm phân hóa đối với các vai trò của mình. Việc nắm được đặc điểm nhân cách
SV năm thứ nhất có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nội dung, hình thức
và phương pháp tác động đến họ theo hướng hình thành nhân cách người chuyên
gia tương lai trong trường ĐH, CĐ. Hình thành nhân cách người chuyên gia
không thể nằm ngoài quy luật chung là: nhân cách được bộc lộ, hình thành và
phát triển trong hoạt động. Trong đó, hoạt động học tập đóng vai trò là hoạt động
chủ đạo, có ảnh hưởng quyết định đến nhận thức nghề nghiệp và hoàn thiện nhân
cách của SV.
1.2.1.3. Học tập
Đối với con người thì học tập là một trong những hình thức hoạt động
chính, không thể thiếu nhằm tiếp thu, lĩnh hội những thành tựu, tri thức, kinh
nghiệm xã hội - lịch sử của xã hội loài người đã được tích lũy qua nhiều thế hệ.

13
-


Trong thực tiễn, con người có nhiều cách học khác nhau để tiếp thu kinh nghiệm
xã hội, nhưng thông thường học tập được thường có hai dạng cơ bản: học ngẫu

nhiên và học có mục đích.
+ Học ngẫu nhiên: Đây là dạng học được thực hiện một cách không chủ định. Kết
quả của hoạt động này chỉ thu được những tri thức rời rạc, không hệ thống, ngẫu
nhiên, tiền khoa học. Mục đích của cách học này là nhằm ứng phó với những tình
huống, những vấn đề cụ thể trong cuộc sống. Tuy nhiên để tồn tại và phát triển
cũng như tác động, cải tạo thế giới hiện thực con người không chỉ dừng lại ở
những tri thức kinh nghiệm mà đòi hỏi cần có một hệ thống tri thức khoa học, có
tính khái quát cao để áp dụng vào mọi tình huống trong thực tiễn. Để đạt được
mục đích này con người cần tiến hành hoạt động học có hiệu quả hơn đó là học
có mục đích.
+ Học có mục đích: là một dạng hoạt động đặc thù của con người. Hoạt động học
chỉ có thể thực hiện được khi con người phát triển ở một trình độ nhất định, có
khả năng điều chỉnh những hành động của mình theo mục đích đã được ý thức.
Khả năng này thường bắt đầu hình thành vào lúc 5-6 tuổi.Và khi hoạt động học
được tiến hành đúng nghĩa của nó thì mới có thể hình thành hệ thống tri thức
khoa học, kỹ năng, cấu trúc tương ứng của hoạt động tâm lý giúp phát triển toàn
diện nhân cách cho con người.[24, tr.93].
Khi bàn về vấn đề học tập có rất nhiều quan điểm khác nhau tùy vào cách
tiếp cận của các nhà nghiên cứu.
I.B.Intenxon cho rằng, học tập là một loại hoạt động đặc biệt của con
người nhằm mục đích nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và các hình thức
nhất định của hành vi. Nó bao gồm cả ý nghĩa nhận thức và thực tiễn.
A.N.Leonchiev, P.IA Galperin lại coi học tập xuất phát từ mục đích trực
tiếp và từ nhiệm vụ giảng dạy được biểu hiện ở hình thức tâm lý bên ngoài và bên
trong của hoạt động.
V.V.Davudov quan niệm học tập dựa trên cơ sở nâng cao trình độ tư duy
lý luận.

14
-



A.V.Petrovxki lại có một quan niệm khác khi cho rằng hoạt động học tập
là vấn đề phẩm chất tư duy và kết hợp các loại hoạt động trong việc thực hiện
mục đích và nhiệm vụ giảng dạy.
N.V.Cudomina lại coi hoạt động học tập là loại học tập nhận thức cơ bản
của sinh viên được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Trong quá
trình này việc nắm vững nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể
tiến hành được hoạt động nghề nghiệp tương lai. [17, tr.89]
Các quan niệm trên về học tập mặc dù chưa có sự thống nhất giữa các tác
giả song các tác giả khác nhau ít nhiều đều xem xét học tập có liên quan đến nhận
thức hoặc tư duy và sâu hơn nữa là liên quan đến yếu tố nghề nghiệp. Họ vẫn gặp
nhau ở một điểm chung đó là xem hoạt động học tập là hoạt động có mục đích tự
giác, có ý thức về động cơ và trong đó diễn ra quá trình nhận thức, đặc biệt là quá
trình tư duy.
Về phía các tác giả Việt Nam, như tác giả Lê Văn Hồng và Lê Ngọc Lan,
khi nghiên cứu về học tập đã có quan niệm như sau: hoạt động học tập là hoạt
động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác và lĩnh hội
những tri thức, kỹ xảo mới, những phương thức hành vi và nhưng dạng hoạt động
nhất định. [12, tr.106].
- Đặc điểm của học tập
Đối tượng của học tập là hệ thống kiến thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo
mới tương ứng. Trong quá trình ấy, người học đã vận dụng linh hoạt những tri
thức đã có để tái tạo lại những tri thức mới. Và việc tái tạo tri thức này được diễn
ra dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người dạy. Việc học tập sẽ không có kết quả
nếu người học chỉ thụ động tiếp nhận các tác động sư phạm. Do đó để việc học
tập hiệu quả, người học phải là chủ thể tích cực, tự giác và có năng lực trí tuệ để
lĩnh hội những tri thức mà giáo viên truyền thụ.
Thông thường các hoạt động khác hướng vào làm thay đổi khách thể để
cải tạo và biến đổi nó phục vụ cho con người. Còn với việc học tập, nó làm thay

đổi chính bản thân chủ thể. Đây chính là điểm độc đáo, khác biệt giữa việc học
tập với các loại khác. Có thể việc học tập cũng làm thay đổi khách thể ở một mức
độ nhất định nhưng mục đích mà học tập hướng vào là làm thay đổi nhận thức

15
-


của người học và hướng vào tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân hoạt
động, có nghĩa là hướng vào học cách tiến hành hoạt động học tập, học phương
pháp học tập. Học tập chỉ có thể thực hiện được khi con người phát triển ở một
trình độ nhất định, có khả năng điều chỉnh những hành động của mình theo mục
đích đã được ý thức.
1.2.1.4. Hoạt động học tập của sinh viên
* Khái niệm
“Hoạt động học tập của sinh viên là một loại hoạt động nhận thức cơ bản
của sinh viên, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy, nhằm lĩnh
hội, nắm vững hệ thống kiến thức, kỹ năng về một loại nghề nào đó, làm cơ sở
cho hoạt động nghề nghiệp trong tương lai” [17, tr.89]
* Đặc điểm hoạt động học tập của sinh viên
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục, đào tạo ở bậc Cao đẳng - Đại học là đào
tạo nguồn nhân lực có chuyên môn cao về nghề để đáp ứng yêu cầu xã hội. Do đó
việc học tập của sinh viên ngoài việc mang những đặc điểm của hoạt động học
tập nói chung còn có những đặc điểm riêng sau đây [14, tr127-175]
- Tính chuyên nghiệp: thể hiện trong mục đích của hoạt động học tập ở
sinh viên là nhằm hướng vào việc hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách
người chuyên gia trong các lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng. Vì vậy học tập ở đại
học có sự khác biệt rất lớn so với học ở phổ thông. Học tập của sinh viên mang
tính đặc trưng của hoạt động nghề nghiệp tương lai.
- Tính độc lập cao trong học tập: Do yêu cầu cao của việc học để trở thành

chuyên gia trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định nên trong hoạt động học tập
yêu cầu người sinh viên phải có sự độc lập cao, sự tự ý thức đầy đủ về học tập
của bản thân. Sinh viên phải nhận thức được mình là chủ thể của hoạt động học
tập, là người định hướng, tổ chức và kiểm tra đánh giá hoạt động học tập của bản
thân dưới sự hướng dẫn, trợ giúp của giảng viên. Tính độc lập trong học tập của
sinh viên thể hiện trong suốt quá trình học tập, từ việc tích cực giải quyết các
nhiệm vụ học tập đến việc tìm kiếm tài liệu phục vụ cho việc học, lập kế hoạch
học tập phù hợp và nỗ lực ý chí thực hiện nó. Bên cạnh đó, việc học tập của sinh

16
-


×