Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TÌNH HÌNH FDI TẠI TRUNG QUỐC THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.67 KB, 30 trang )

TÌNH HÌNH FDI TẠI TRUNG QUỐC THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ TRUNG QUỐC.
3.1. Các yếu tố tác động đến việc thu hút FDI ở Trung Quốc.
Theo báo cáo của bộ thương mại Trung Quốc, đến năm 2009 FDI chiếm 30% sản
lượng công nghiệp cả nước, 50% thương mại và tạo ra 11% việc làm đô thị cho
Trung Quốc. Sau đây chúng ta sẽ xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư FDI và tác động của nó đối với nhà đầu tư nước ngoài MNCs.
3.1.1. Vốn.
Đầu những năm 2000, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành nước nhận đầu tư nước
ngoài lớn nhất thế giới. Tình hình môi trường đầu tư và thị trường vốn ảnh hưởng
rất lớn đến quyết định của các MNCs về việc đầu tư vào Trung Quốc. Một nền
kinh tế hưng thịnh, có thị trường vốn rộng mở và môi trường đầu tư tốt đã thu hút
một lượng lớn vốn nước ngoài đầu tư.
3.1.2. Môi trường cạnh tranh.
Trung Quốc trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn nhất trên toàn cầu nhờ vào các yếu
tố sau: phát triển cơ cấu hạ tầng, tài nguyên thiên nhiên nhân lực dồi dào, sự phát
triển các chuỗi ngành kinh tế. Việc một nền kinh tế có sự phát triển ở những yếu tố
này giúp cho việc vận chuyển bán hàng hóa trở nên dễ dàng hơn, giúp cho các nhà
đầu tư nước ngoài gặp nhiều thuận lợi đạt được khoản lợi nhuận cao. Ở đây việc
chú trọng vào đường xá cao tốc, cầu đường rất quan trọng vì nó sẽ góp phần thúc
đẩy giảm chi phí vận chuyển xuống thấp hơn.
Yếu tố tiếp theo góp phần vào yếu tố cạnh tranh là chi phí nhân công giá rẻ, có
trình độ cao ở các nước sở tại.
3.1.3. Môi trường quản lý-chính sách.
Mọi quyết định ban hành của chính phủ tác động rất lớn đến mọi quyết định đầu tư
của các nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ nếu như chi phí thành lập doanh nghiệp ở
một nước quá cao, gây tốn thời gian cho các nhà đầu tư thì điều này sẽ ảnh hưởng
tác động đến lựa chọn đầu tư ở một nơi khác.
Một hình thức quy định khác đó là đối với những doanh nghiệp liên doanh bắt
buộc phải có sự kết hợp với doanh nghiệp nhà nước, góp phần tạo nên sự công
bằng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp nội địa. Điều


này sẽ tác động xấu đến lựa chọn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài đối với
nước sở tại.
Ngoài ra chính phủ còn có thể đưa ra các quy định về những lĩnh vực sau: quy định
về ưu đãi thuế, những khoản hỗ trợ của chính phủ…
Tóm gọn chính sách ban hành của chính phủ có vai trò rất quan trọng trong việc
thu hút đầu tư của quốc gia.
3.1.4. Sự ổn định.
Tính ổn định ở đây được thể hiện qua thể chế chính trị, và nền kinh tế. Tính ổn
định cao của một quốc gia sẽ góp phần nâng cao niềm tin của các nhà đầu tư nước
ngoài vào những khoản lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai, giảm thiểu được những
rủi ro gặp phải khi đầu tư ở nước ngoài.
Quy mô thị trường nội địa và môi trường kinh doanh.
Xét ở khía cạnh thị trường, Trung Quốc được biết đến là điểm đến tối ưu nhất cho
đầu tư nước ngoài khi có lượng dân số đông nhất thế giới, tiềm năng mở rộng thị
trường, và đặc biệt tốc độ phát triển nền kinh tế hàng năm của Trung Quốc luôn
giữ vững ở tốc độ cao trên thế giới. Ngày nay chính phủ đã chú trọng phát triển ở
nhiều lĩnh vực hơn, xét ở chiều ngang lẫn chiều sâu: các ngành công nghệ cao, các
mặt hàng xa xỉ, phát triển ngành công nghệ robot hỗ trợ cho ngành công nghiệp
nặng. Tăng trưởng GDP cao hàng năm kết hợp với tỷ lệ FDI gia tăng sẽ tạo ra hiệu
ứng domino thành công cùng với nhau. Khi nhiều ngành được mở ra, tỷ lệ tăng
trưởng càng gia tăng, tiềm năng càng được mở rộng, thì dĩ nhiên sẽ có rất nhiều
nhà đầu tư sẵn long đầu tư vào Trung Quốc.
3.1.5. Chính sách mở cửa, giao thương quốc tế.
Chính sách mở cửa nền kinh tế đóng vai trò then chốt trong việc thu hút vốn FDI.
Nếu một doanh nghiệp đặt trụ sở ở Trung Quốc bị giới hạn hoặc cầm không giao
thương với những nền kinh tế lớn trên thế giới, thì sẽ tạo những tác động xấu cho
cả các doanh nghiệp ở Trung Quốc. Các nhà đầu tư cũng đặc biệt chú ý đến những
rào cản giao thương như thuế quan, những ký kết thương mại ưu đãi quan trọng
giữa Trung Quốc và các nền kinh tế lớn trên thế giới.
Chính sách định hướng xuất khẩu cũng tác động lớn đến quyết định đầu tư FDI ở

TRung Quốc, đặc biệt là các MNCs có thị phần thị trường lớn ở các nền kinh tế
bên ngoài.
Tóm lại để tạo nên một môi trường đầu tư hoàn thiện, chính phủ cần đạt được
những thỏa thuận thương mại tự do giữa các khu vực ngành và đặc biệt là trên thế
giới nhằm thu hút nhiều hơn đầu tư nước ngoài.
3.2. Những số liệu cụ thể về FDI ở Trung Quốc.
Số liệu cùng kỳ so với năm 2009.
3.3. Những hướng dẫn mới của Trung Quốc về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Vào năm 2001 trong khi kinh tế thế giới chứng kiến sự chậm lại trong tốc độ phát
triển trong gần một thập niên thì Riêng Trung Quốc vẫn duy trì một sự tăng trưởng
ổn định trong đầu tư nước ngoài. Chính điều đó đã tạo nên một sự hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư nước ngoài. Từ năm 1993, Trung Quốc đã được xếp hạng hàng đầu
trong số các nước đang phát triển trong thu hút đầu tư nước ngoài, nhờ môi trường
đầu tư của Trung Quốc ngày càng hoàn thiện.
Bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 năm 2002, Hướng dẫn mới của Trung Quốc về đầu tư
trực tiếp nước ngoài có hiệu lực, thay thế tạm thời cho qui định Đầu tư nước ngoài
ban hành ngày 31 Tháng 12 1997. Tương tự với qui định trước, trong hướng dẫn
mới này, đầu tư trực tiếp nước ngoài phân loại thành 4 mục: khuyến khích, được
phép, hạn chế và cấm. Điều đó nhấn mạnh những nỗ lực liên tục của Trung Quốc
để cải thiển tình hình, thể hiện cho một bước đột phá trong chính sách đầu tư nước
ngoài của Trung Quốc nhằm khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài đầu tư nhiều
hơn tại Trung Quốc. Trong qui định mới này, mục “khuyến khích” tăng từ 186
điều lên 262 điều, trong khi mục “giới hạn” giảm từ 112 điều xuống 75 điều.
Qui định này được ban hành do Ủy ban Kế hoạch phát triển Nhà nước(SDPC),
kinh tế Nhà nước và Ủy ban Thương mại (SETC) và Bộ Ngoại thương và hoạt
động kinh tế hợp tác (MOFTEC). Nó được dựa trên Quy định mới về Hướng dẫn
đầu tư nước ngoài gần đây đã phê duyệt của Hội đồng Nhà nước Trung Quốc, mà
còn có hiệu lực ngày 01 tháng tư năm 2002.
Bằng cách ban hành những quy định mới và hướng dẫn, chính phủ Trung Quốc đã
công bố những ưu tiên đầu tư của họ, và xác định các lĩnh vực mở cửa cho nhà đầu

tư nước ngoài với các khu vực vẫn còn hạn chế và cấm các nhà đầu tư nước ngoài.
Đặc biệt điều đó cho thấy rằng Trung Quốc thiết lập một số những qui định để mở
cửa cho các nhà đầu tư ở nước ngoài vào một số lĩnh vực mà sử dụng để được
"vùng cấm" cho người nước ngoài.
Trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc thu hút FDI đã phát triển ngành công nghiệp
chủ yếu là sản xuất. Trung Quốc sẽ tiếp tục khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào các ngành công nghiệp cơ bản, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi
trường. Đặc biệt, Trung Quốc có những lời kêu gọi để thu hút vốn trong ngành
công nghệ nông nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng và vật liệu ngành công
nghiệp mới.
Các qui định mới về đầu tư nước ngoài mới thay thế là trong tiến trình Trung Quốc
cam kết trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Theo lời
kam kết của Trung Quốc khi gia nhập WTO, thì nước này sẽ mở ra các lĩnh vực
thương mại, ngân hàng và tài chính, bảo hiểm, viễn thông, và du lịch rộng lớn hơn
cho nhà đầu tư nước ngoài và cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư của mình. Các
nhà đầu tư nước ngoài sẽ được phép nắm giữ cổ phần tăng dần trong các ngành
dịch vụ theo quy định và theo một lịch trình cụ thể. Kết quả là, ngành công nghiệp
dịch vụ sẽ dần dần trở thành một điểm nóng cho đầu tư nước ngoài.
Các ngành thu hút FDI nhiều nhất trong thời gian sắp tới đó là: công nghệ thông
tin, kỹ thuật sinh học, vật liệu mới, hàng không vũ trụ, hóa dầu, ngành công nghiệp
hóa chất và vật liệu xây dựng , xây dựng cảng, bến cảng và xây dựng đường bộ.
Theo hướng dẫn mới, Trung Quốc chủ yếu sẽ khuyến khích các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư trong các lĩnh vực sau đây:
A. Để chuyển đổi nông nghiệp truyền thống, phát triển nông nghiệp hiện đại và
thúc đẩy công nghiệp hóa nông nghiệp.
B. Để đầu tư vào truyền thông, năng lượng, nguyên liệu, cơ sở hạ tầng và các
ngành công nghiệp cơ bản khác.
C. Đầu tư thông tin điện tử, kỹ thuật sinh học, vật liệu mới, hàng không và
Astronautics và các ngành công nghiệp công nghệ cao khác.
D. Để sử dụng công nghệ tiên tiến trong việc giúp Trung Quốc chuyển đổi và nâng

cấp ngành công nghiệp máy móc , công nghiệp nhẹ và công nghiệp dệt.
E. Đầu tư vào các dự án có lợi ích chung, cộng đồng, tái chế tài nguyên, bảo vệ
môi trường và xây dựng cơ sở hạ tầng.
F. Đầu tư của Trung Quốc vào khu vực rộng lớn ở phía Tây.
G. Để tham gia và đẩy mạnh xuất khẩu .
Ngoài việc thiết lập ra các chính sách hướng dẫn các quy định mới và hướng dẫn,
thì những nỗ lực đã được Trung Quốc thực hiện để cải thiện hơn nữa môi trường
đầu tư của Trung Quốc:
• Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Trung Quốc. Trung Quốc đang
xem xét lại pháp luật hiện hành và các quy định của nó phù hợp với các cam kết
khi gia nhập WTO. Chính phủ đang xem xét báo cáo từng bước nâng mức giới hạn
trên vốn chủ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong một số ngành và lĩnh
vực. Pháp luật mới đã được xem xét để áp dụng vào các vị trí tuyển dụng và các
quy định hướng dẫn kinh doanh và kinh doanh xuyên quốc gia, trong đó dự kiến để
trở thành một hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài cùng với vốn chủ sở hữu hoặc
hợp đồng liên doanh.
• Ưu đãi về thuế. Các nhà đầu tư nước ngoài đã bắt đầu kinh doanh ở khu vực phía
Tây và đầu tư vào các ngành công nghiệp – ngành hứa hẹn sẽ nhận được một
huyến khích về ưu đãi thuế là 10 năm, tức là thuế thu nhập áp dụng tỷ lệ 15 phần
trăm.
• Trung Quốc luôn khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào nước mình.
Các tập đoàn đa quốc gia đã được khuyến khích để thiết lập trụ sở khu vực tại Bắc
Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu, và thiết lập các trung tâm nghiên cứu và phát
triển của đất nước.
• Cho phép cổ phần hóa trong các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Chính phủ
khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tham gia chuyển dịch cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ được phép nắm giữ cổ phần, thậm chí cổ
phần kiểm soát, trong doanh nghiệp nhà nước ở một mức độ lớn, ngoại trừ những
người có tầm quan trọng chủ chốt đối với an ninh quốc gia hoặc kinh tế.
• Mở cửa của ngành công nghiệp dịch vụ và tài chính của Trung Quốc. Gần đây,

Trung Quốc đã thông qua ngân hàng đầu tư nước ngoài đầu tiên, BNP Paribas, để
thiết lập một ngân hàng đầu tư liên doanh với tổ chức tài chính của Trung Quốc,
với Haier, công ty điện tử khổng lồ của Trung Quốc, và là cổ đông chính của ngân
hàng liên doanh. Trung Quốc cũng thông qua một ngân hàng liên doanh quản lý tài
sản Trung Quốc và nước ngoài liên doanh để xử lý các tài sản ngân hàng không
thực hiện. Ngoài ra, một số ngân hàng cổ phần thuộc sở hữu nhà nước hoặc doanh
thương mại của Trung Quốc đang tìm kiếm các đối tác nước ngoài của chính họ.
Với quy định mới đầu tư nước ngoài và hướng dẫn mới của mình, Trung Quốc sẽ
tiếp tục phát triển, môi trường đầu tư của TQ sẽ tiếp tục cải thiện và kết quả là nhà
đầu tư nước ngoài sẽ tới TQ ngày càng nhiều.
Bổ sung những hướng dẫn đầu tư mới hiệu lực 1/1/2008.
• Những hướng dẫn mới này tập trung vào chính sách cải cách và mở cửa. Thực hiện
cam kết với WTO, Trung Quốc đã mở rộng các lĩnh vực dịch vụ cho các nhà đầu
tư nước ngoài, giảm bớt đi các hạn chế đối với các nhà đầu tư.
• Khuyến khích các nhà đầu tư vào ngành công nghiệp sạch, chủ trương bảo vệ môi
trường, sử dụng năng lượng tái chế.
• Hướng dẫn cụ thể chính sách xuất khẩu, chứ không đơn thuần là ban hành chính
sách như trước kia.
• Khác với hướng dẫn ban hành trước kia, vốn những ưu đãi ban hành vào khu vực
phía Tây không được khuyến khích, thì bây giờ mở rộng khu vực đầu tư trên cả
nước.
• Chú trọng vào chất lượng đầu tư hơn là số lượng. “Trung Quốc sẽ chi phối FDI
chứ không phải để FDI chi phối”
3.4. Một cái nhìn khái quát về chính sách ưu đãi thuế của Trung Quốc.
Từ sau chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường năm 1978, Trung Quốc đã áp dụng
nhiều chính sách ưu đãi nhằm thu hút các dự án đầu tư nước ngoài, trong đó nổi
bật là luật thuế ưu đãi khác biệt dành cho các công ty vốn đầu tư nước ngoài FIEs
(Foreign Invested Enterprises) và công ty nội địa. Các FIEs được nhận nhiều ưu
đãi hơn về thuế nhiều hơn so với các công ty nội địa: thuế suất doanh nghiệp, giảm
thuế và trì hoãn thuế, đặc biệt là miễn thuế (tax holidays). Vì thế, không ngạc nhiên

khi Trung Quốc đã thu hút được một lượng vốn đầu tư khổng lồ từ nước ngoài
cũng như tiếp cận được những KHKT hiện đại, tuy nhiên điều này cũng tạo ra
những thiếu soát, cạnh tranh không lành mạnh cho nền kinh tế và môi trường đầu
tư. Bài viết này sẽ phân tích những thay đổi về chính sách ưu đãi thuế của Trung
Quốc và ảnh hưởng của nó lên các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIEs).
Tuy nhiên, việc Trung Quốc ban hành bộ luật mới về thuế thu nhập doanh nghiệp
(Enterprise Income Tax Law) 26/3/2007 sau khi gia nhập vào WTO và có hiệu lực
1/1/2008 đã đánh dấu một sự thay đổi lớn trong chính sách ưu đãi thuế của Trung
Quốc. Bộ luật này quy định các công ty FIEs và các công ty nước ngoài đều có
chung một mức thuế so với các doanh nghiệp nội địa.
Sau đây chúng ta tóm tắt lại từng thời kỳ chính sách thuế của Trung Quốc.
• Giai đoạn 1: 1980-1990
Vào những năm đầu 1980, chính sách thực hiện cải cách nền kinh tế theo hướng thị
trường được áp dụng rộng rãi trên toàn lãnh thổ. Tuy nhiên Trung Quốc gặp rất
nhiều khó khăn về vốn cũng như sự lạc hậu về khoa học kỹ thuật trong việc thúc
đẩy sự phát triển kinh tế. Vì thế, Trung Quốc đã mạnh dạn thực hiện chính sách
quốc tế hóa, mở cửa thị trường trong nước quan hệ với thế giới.
Nhận thấy được các điểm yếu của mình: môi trường đầu tư nghèo nàn, cơ sở hạ
tầng vật chất thiếu thốn, nền công nghiệp yếu kém, mức độ tín nhiệm nền kinh tế
thấp…nên để có thể thu hút lượng lớn các nhà đầu tư trên thế giới, Trung Quốc đã
thực hiện chính sách “nhượng bộ” ưu đãi lớn cho sự phát triển nền kinh tế mở. Ở
đây, chính sách thuế ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài được xem là sự hỗ trợ
cho những yếu kém của môi trường đầu tư.
Tháng 4/1980 sau khi một nhà đầu tư đầu tiên người Hồng Kong được chính phủ
cấp giấy phép thành lập công ty liên doanh Beijing Air Catering, nhận thấy chưa
có sự rõ ràng từ những ưu đãi: thuế suất, trì hoãn miễn thuế, Trung Quốc cho ra
đời luật thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp nước ngoài năm 1980 (Income
Tax Law of the People’s Republic of China on Foreign Enterprises) và bộ luật
năm 1981 hướng đến các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động độc lập hoặc hợp
tác với các doanh nghiệp nội địa. Trung Quốc đặc biệt chú ý đến những ưu đãi về

thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài ở các khu kinh tế trọng điểm (SEZs), cũng
như các dự án trọng điểm quốc gia thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng…Những ưu
đãi này được kéo dài cho đến khi luật thay thế mới cuối năm 2007.
Trong những năm 1979-1990, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp vào việc
thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Trung Quốc, thu hút được 40,615 tỷ đôla Mỹ
các dự án và thực hiện 20,692 tỷ đôla Mỹ. Đến năm 1990, đầu tư trực tiếp nước
ngoài chiếm hơn 0,9% GDP của Trung Quốc.
• Giai đoạn 2: Đẩy mạnh đầu tư và phát triển.
Sau khi thực hiện cải cách theo chiều sâu, đồng thời có nhiều ngành mới được
thu hút đầu tư, vì thế những điều khoản trong luật đầu tư năm 1981 không thể đạt
hiệu quả cao nhất, và đã điều chỉnh luật thuế thu nhập cho các doanh nghiệp nước
ngoài năm 1991.
Sau đây là những ưu đãi thuế những năm 1990.
• Mức thuế thấp.
a) FIEs chỉ còn chịu mức thuế 15% khi rơi vào các trường hợp sau:
i. Hoạt động tham gia đầu tư trong khu vực SEZs hoặc khu vực hướng
phát triển kinh tế KHKT cao.
ii. Đầu tư vào những vùng xâu vùng xa thuộc các khu vực đặc cách trên,
hoặc tham gia vào các ngành công nghệ cao, hoặc có vốn trên 30 triệu
USD, hoặc có kế hoạch hoạt động thu hồi vốn lâu:năng lượng, cơ sở hạ
tầng đường xá…
iii. Các ngân hàng nước ngoài hoặc lien doanh nước ngoài có hỗ trợ vốn
cho các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực kể trên.
b) FIEs chịu mức thuế 24%
i. Các FIEs có tham gia liên kết hoạt động với các doanh nghiệp thuộc các
địa phận, lĩnh vực có đề cập ở trên.
ii. Các FIEs hoạt động ở các khu vực gần bến cảng, các vùng biên giới
quốc gia hoặc giữa các tỉnh, các khu vực kinh tế mở.
iii. Các FIES nằm trên các địa phận nhằm phát triển thu hút du lịch theo
quy định của chính phủ.

1. Miễn thuế và giảm thuế.
a) Quá trình mới tham gia hoạt động. Dành cho các doanh nghiệp FIEs
tính từ năm hoạt động có lãi đầu tiên.
i. Miễn thuế 5 năm, và giảm còn 50% thuế trong 5 năm tiếp theo.
• FIEs hoạt động xây dựng bến cảng, thời gian trên 15 năm.
• FIEs hoạt động vùng Hainan SEZ trên 15 năm, đầu tư vào
cơ sở hạ tầng, hoặc chú trọng vào nông nghiệp.
ii. Miễn thuế 2 năm, và giảm còn 50% thuế trong 3 năm tiếp theo.
• FIEs hoạt động trên 10 năm
• FIEs hoạt động trong các khoản mục hướng dẫn đầu tư của
chính phủ với số vốn ít nhất 60 triệu đôla Mỹ.
• FIEs mới thành lập hoạt động trên 10 năm vào các ngành
năng lượng, truyền hình, vận tải, bảo tồn nguồn nước…
iii. Miễn thuế 2 năm
iv. Miễn thuế cho năm đầu tiên có lợi nhuận, và 2 năm tiếp theo
giảm còn 50% thuế
• FIEs hoạt động ngành dịch vụ ở SEZs vốn trên 5 triệu đôla
Mỹ và hoạt động trện 10 năm.
b) Ưu đãi về hoạt động công nghiệp.
i. Hướng đến xuất khẩu: FIEs sau khi hết hạn được hưởng miễn
giảm thuế theo quy định, nếu xuất khẩu hơn 70%, thì được hưởng
ưu đãi thuế giảm 50% tiếp sau đó.
ii. Các khu công nghệ cao hiện đại: sau khi được hưởng các chính
sách miễn giảm thuế, còn được nhận ưu đãi thêm 3 năm giảm
thuế 50% nếu như các công nghệ này vẫn ở mức hiện đại.
iii. Ngành đầu tư vào nông nghiệp, lâm nghiệp, giống nuôi hoặc
vùng sâu vùng xa: sau khi được hưởng miễn giảm thuế theo quy
định, còn được hưởng mức thuế giảm trong vòng 10 năm.
2. Hoàn thuế cho tái đầu tư.
a) Hoàn thuế 40%. Áp dụng cho các đối tượng dùng lợi nhuận gia tăng

vốn điều lệ, hoặc mở thêm FIEs nhưng thời gian hoạt động ít hơn 5
năm.
b) Hoàn thuế 100%. Tái đầu tư thành lập những doanh nghiệp mới hướng
đến xuất khẩu hoặc công nghệ cao, hoặc các khu vực SEZs.
3. Other tax incentives.
• Giai đoạn 3.Thực thi chính sách thuế công bằng.
Do Trung Quốc thực hiện chính sách thuế ưu đãi khác biệt giữa FIEs và các
doanh nghiệp nội địa, nên việc nảy sinh các tình hình cạnh tranh không công
bằng là điều khó tránh khỏi. Ví dụ, xét trường hợp doanh nghiệp mới thành lập sẽ
được miễn thuế 2 năm và giảm 50% thuế 3 năm tiếp theo, nhưng các doanh
nghiệp nội địa tính từ năm đầu hoạt động, còn các doanh nghiệp FIEs thì tính từ
năm đầu tiên hoạt động có lãi. Chính vì thế, sau khi gia nhập WTO đòi hỏi cần có
1 sự cạnh tranh công bằng, Trung Quốc đã sửa đổi luật thuế thu nhập doanh
nghiệp công bằng giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FIEs.
Việc Trung Quốc áp dụng chính sách thuế công bằng này không những giúp phát
triển cấu trúc đầu tư của Trung Quốc và còn góp phần hoàn thiện môi trường
cạnh tranh lành mạnh.
Ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp nhỏ-lợi nhuận thấp, doanh nghiệp có công
nghệ cao, mới.
Mức thuế chung là 25%. Tuy nhiên doanh nghiệp nào nhỏ và lợi nhuận thấp thì
hưởng mức thuế 20%, còn các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao thì được
hưởng thuế 15% không giới hạn vùng đầu tư.
a) Mức thuế 20% cho các doanh nghiệp nhỏ, lợi nhuận thấp.
Đối với các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp, sẽ được hưởng mức thuế
20% nếu có mức thu nhập chịu thuế nhỏ hơn 300,000 CNY, số lượng công nhân
từ 100 người trở xuống, hoặc có tài sản cố định từ 30 triệu CNY trở xuống.
Đối với các doanh nghiệp thuộc ngành khác, sẽ được hưởng mức thuế 20% nếu
có mức thu nhập chịu thuế từ 300,000 CNY, 80 công nhân và giá trị tài sản cố
định 10 triệu CNY.
b) Mức thuế 15% cho các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao.

Các doanh nghiệp có sở hữu bằng phát minh sáng chế độc lập.
Các doanh nghiệp có sản phẩm, dịch vụ thuộc các lĩnh vực được chính phủ
khuyến khích cần có công nghệ cao.

×