Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI EXIM BANK HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.48 KB, 31 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI
EXIM BANK HÀ NỘI.
* VàI nét về ngân hàng xuất nhập khẩu việt nam
Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam ra đời và hoạt
động trong bối cảnh chung của nền kinh tế đang chuyển mình đổi mới. Cuối năm
1989, những tiến bộ đạt được trong nền kinh tế cho phép Việt Nam chuyển thời kỳ
đưa ra thực thi các chính sách và mô hình Ngân hàng thích hợp với cơ chế thị
trường trong nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần. Nhà nước chủ trương cải
cách hệ thống Ngân hàng thành hai cấp : Cấp quản lý Nhà nước do NHNN đảm
nhận, cấp kinh doanh do các NHTM đảm nhận, hoạt động Ngân hàng đã có sự
chuyển biến, cơ bản mở rộng mạng lưới hoạt động và phục vụ cho mọi thành phần
kinh tế. Đồng thời trong thời kỳ này Nhà nước có chủ trương thành lập một số
NHTM cổ phần nhằm thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Theo đề nghị của ông Đào Duy Thành, Chủ tịch Phòng thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, ngày 24/05/1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định
140/CT cho phép thành lập Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam dưới hình thức
là Ngân hàng cổ phần chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng
nhằm phục vụ sản xuất và chế biến hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh xuất nhập
khẩu.
Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam - tên giao dịch Việt Nam Eximbank- là
pháp nhân, hoạch toán kinh tế độc lập, được quyền tự chủ về tài chính và chủ động
về kinh doanh, có hội sở chính tại số 07 Lê Thị Hồng Gấm - Quận I - Thành phố
Hồ Chí Minh, có con dấu riêng, có bản tổng kết tài sản và trực tiếp làm nghĩa vụ
với Ngân sách Nhà nước.
Cho tới nay, ngoài việc luôn luôn đổi mới, phát triển tổ chức và cán bộ công
nhân viên, từ năm 1992 đến nay Việt Nam Eximbank đã thành lập được 3 chi
nhánh và một văn phòng giao dịch đóng trên địa bàn các tỉnh thành phố:
+ Chi nhánh Hà Nội.
+ Chi nhánh Đà Nẵng.
+ Chi nhánh Cần Thơ.
+ Phòng giao dịch Chợ Lớn.


Cùng với hệ thống NHTM Việt Nam, Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam
một trong những NHTM cổ phần đầu tiên ở nước ta, với bề dầy kinh nghiệm chưa
được 10 năm nhưng cũng đạt được ở mức phát triển, tốc độ tăng trưởng cao trên
nhiều mặt hoạt động, vốn cổ phần từ lúc thành lập là 53,31 tỷ đồng nay đã tăng lên
250 tỷ, đồng thời góp phần mở rộng khả năng huy động vốn. Doanh số cho vay
tăng nhanh, các hoạt động khai thác kiều hối, mua bán ngoại tệ, thanh toán thẻ tín
dụng cũng tăng trưởng tốt.
Về đối ngoại, Eximbank liên tục mở quan hệ đại lý với Ngân hàng nước
ngoài. Đến nay, Ngân hàng đã thiết lập quan hệ đại lý với 530 Ngân hàng tại 56
quốc gia trên thế giới. Nói chung, Eximbank Việt Nam luôn kinh doanh có lãi và
tạo được uy tín với bạn hàng trong và ngoài nước. Đạt được những thành quả nói
trên, trước hết là nhờ đường lối kinh tế đổi mới và các chính sách đúng đắn về tiền
tệ tín dụng của Nhà nước. Tiếp theo là sự tín nhiệm của khách hàng trong và ngoài
nước, sự giúp đỡ của các Ngân hàng bạn bè và của các cơ quan hữu quan, và rất
quan trọng là sự nỗ lực của tập thể nhân viên Vietnam Eximbank, của Hội đồng
Quản trị và Ban Giám đốc Ngân hàng.
1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NHTMCP EXIMBANK HÀ
NỘI :
1.1. Những nét chung:
giám đốc và các phó giám đốc
phòng tổ chức hành chính
phòng quan hệ quốc tế
phòng thanh toán quốc tế
phòng tín dụng đầu tư
phòng kế toán tổ pháp chế
phòng ngân quỹ
Chi nhánh Eximbank Hà Nội là chi nhánh đầu tiên được thành lập theo giấy
chấp thuận số 0002 ngày 22/09/1992 của NHNN và theo giấy phép đặt văn phòng
chi nhánh số 00503/GP - UB của UBND thành phố Hà Nội. Tháng 11/1992
Eximbank Hà Nội bắt đầu đi vào hoạt động, có trụ sở chính đặt tại 19 phố Trần

Hưng Đạo.
Sơ đồ tổng thể chi nhánh Eximbank Hà nội
Eximbank Hà Nội có một giám đốc điều hành trực tiếp và một đội ngũ cán bộ
đủ mạnh, vừa thông thạo nghiệp vụ vừa có kinh nghiệm trong chỉ đạo điều hành,
trình độ chuyên môn cao, biết ngoại ngữ, bước đầu thích nghi với cơ chế thị
trường, hoà nhập với nền kinh tế của khu vực và thế giới.
Ngân hàng có bẩy phòng chức năng : Phòng tổ chức hành chính, phòng quan
hệ quốc tế, phòng thanh toán quốc tế, phòng tín dụng đầu tư, phòng kế toán, phòng
ngân quỹ, tổ pháp chế
Cơ cấu tổ chức và hoạt động của chi nhánh trong những năm qua đã chứng
minh Ngân hàng là một chi nhánh trong toàn hệ thống liên tục thực hiện tốt các
chức năng kinh doanh, giữ vững cân đối chung về nguồn vốn và sử dụng vốn, cùng
với các Ngân hàng khác trên địa bàn, chi nhánh đã góp phần vào sự phát triển kinh
tế thủ đô và nâng cao hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống.
Ra đời trong điều kiện nền kinh tế mở với sự điều tiết của cơ chế thị trường
tạo môi trường kinh tế phù hợp để chi nhánh hoạt động kinh tế và phát triển. Trong
tám năm hoạt động và trưởng thành (11/1992-11/2000) dưới sự chỉ đạo sáng suốt
của Hội đồng Quản trị, sự lãnh đạo sát sao và hỗ trợ to lớn về các mặt của Hội sở
Trung ương, cũng như sự tín nhiệm của các cổ đông và các đơn vị khách hàng, tập
thể lãnh đạo và cán bộ nhân viên của chi nhánh Eximbank Hà Nội đã tích cực công
tác đưa chi nhánh ngày càng lớn mạnh và trở thành một trong những Ngân hàng
kinh doanh có hiệu quả nhất trong địa bàn Hà Nội.
1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh tại Eximbank chi nhánh Hà Nội :
* Về huy động vốn :
Công tác huy động vốn là một nhiệm vụ tiên quyết trong hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng. Muốn mở rộng hoạt động tín dụng của mình thì Ngân hàng
cần phải mở rộng hoạt động huy động vốn, vì thế bất kỳ Ngân hàng nào cũng rất
chú trọng đến hoạt động này. Trên thực tế đối với Eximbank Hà Nội cũng vậy.
Ngân hàng được sự chỉ đạo kịp thời của Hội đồng Quản trị, ban Tổng Giám đốc và
sự cố gắng nỗ lực phấn đấu của toàn thể công nhân viên đã đạt được nhiều thành

tích đáng kể trong những năm gần đây.
Với nguồn vốn khiêm tốn ban đầu do Hội sở Trung ương cung cấp để tiến
hành khai trương hoạt động là 532.000 USD và 7,485 tỷ VND đến năm 1996 được
bổ sung 13.818 triệu VND (vốn cố định xây dựng trụ sở mới), chi nhánh Eximbank
Hà Nội đã tiến hành mở rộng việc huy động vốn từ nhiều đối tượng khác nhau để
đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động của chi nhánh.
Có thể nói, quán triệt tư tưởng huy động vốn của Đảng và Nhà nước để phục
vụ sự nghiệp phát triển kinh tế cuả thủ đô và cả nước, Ngân hàng đã huy động vốn
bằng nhiều hình thức khác nhau như: tiền gửi của dân cư, tiền gửi của các tổ chức
kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, tư nhân tập thể. Ngoài ra Ngân hàng còn
đa dạng các thời hạn và khung lãi suất với mục đích thu hút được nhiều nguồn tiền
nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Với tinh thần, thái độ tận tuỵ phục vụ
khách hàng, đảm bảo vui lòng khách đến vừa lòng khách đi, giải quyết thủ tục
thuận lợi nhanh chóng, khách hàng gửi tiền vào và rút tiền ra dễ dàng, hạn chế tối
đa những sai sót nhầm lẫn về mặt nghiệp vụ để đảm bảo ngày càng có tín nhiệm
với khách hàng từ đó Ngân hàng đã tạo thế chủ động đi vay và cho vay. Vì vậy
trong những năm qua, công tác huy động vốn đã đạt được những kết quả khả quan:
Bảng 1 : cơ cấu vốn huy động tại eximbank hà nội
Đơn vị : Triệu đồng.
CHỈ TIÊU
31/12/1997 31/12/1998 31/12/1999
Số tiền Tỉ trọng
( % )
Số tiền Tỉ trọng
( % )
Số tiền Tỉ trọng
( % )
Tổng nguồn 420.27
9
100 326.220 100 492.845 100

Theo đối tượng:
Tiền gửi TCKT 319.41
2
76 123.964 38 149.484 30
Tiền gửi tiết kiệm 100.86
7
24 202.256 62 343.361 70
Theo cơ cấu:
TG không kỳ hạn 306.80
4
73 114.177 35 111.225 22,6
TG có kỳ hạn 113.47
5
27 212.043 65 381.620 77,4
Nguồn : Báo cáo công tác tín dụng năm 97, 98, 99 tại Eximbank Hanoi.
Trong đối tượng huy động giữa các thành phần kinh tế của Ngân hàng có sự
khác nhau rõ rệt qua các thời kỳ.
Năm 1999, tiền gửi của các thành phần kinh tế là 149.484 triệu chiếm 30%
trong tổng nguồn, giảm đi 46% so với năm 1997 và 8 % so với năm 1998. Cơ cấu
tiền gửi tiết kiệm cũng thay đổi, đạt 343.361 triệu chiếm 70% trong tổng nguồn,
tăng 242.494 triệu so với năm 1997 và tăng 141.105 triệu so với năm 1998. Trước
1998 Ngân hàng thường huy động vốn từ các tổ chức tín dụng nước ngoài, do vậy
năm 1997 tiền gửi tiết kiệm chỉ chiếm 24% trên tổng nguồn. Đến năm 1998, do
chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế cuối năm 1997 nên các Ngân hàng
nước ngoài đã quyết định cắt hạn mức tín dụng với các Ngân hàng của ta. Trước
tình hình này, NHTMCP Eximbank đã đưa ra một quyết định đúng đắn kịp thời là
điều chỉnh mức lãi suất hợp lí, khuyến khích việc gửi tiền tiết kiệm thực hiện việc
huy động vốn trong nước, việc làm này đã đem lại những kết quả khả quan (mức
tiền gửi tiết kiệm trên tổng vốn huy động là 62% -1998, 70% -1999).
Trong kết cấu nguồn vốn cũng có sự khác biệt. Năm 1998 và năm 1999, tổng

nguồn vốn huy động của Ngân hàng chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn. Cuối năm 1998,
tiền gửi có kỳ hạn là 212.043 triệu đồng tức là bằng 185,7% so với tiền gửi không
kỳ hạn, chiếm 65% trong tổng nguồn. Trong năm 1999, tiền gửi không kỳ hạn là
111.225 triệu đồng chiếm 22,6% trong tổng nguồn trong khi đó tiền gửi có kỳ hạn
là 381.620 triệu đồng bằng 343,1 % so với tiền gửi không kỳ hạn chiếm 77,4%
trong tổng nguồn huy động. Trong khi đó, năm 1997 số dư nguồn vốn huy động có
kỳ hạn là 113.475 triệu đồng bằng 37% so với tiền gửi không kỳ hạn chỉ chiếm
27% trong tổng nguồn. Năm 1997, số lượng các đơn vị, cá nhân mở tài khoản
thanh toán qua Ngân hàng là rất lớn, đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm tăng
mức tiền gửi không kì hạn lên tới 73%, bên cạnh đó do chưa có chính sách lãi suất
hấp dẫn nên lượng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn chỉ chiếm 27% trên tổng nguồn.
Trong quá trình vận động thích ứng với tình hình kinh tế mới Ngân hàng đã ngày
càng mở rộng hoạt động kinh doanh thu hút thêm số lượng khách hàng. Eximbank
Hà Nội còn mở rộng khai thác nguồn vốn ngắn hạn từ các tổ chức tín dụng trong
và ngoài nước thông qua hạn mức tín dụng của Hội sở Trung ương phân bổ hoặc
chi nhánh từ giao dịch liên hệ. Tuy nhiên tình hình kinh tế và thực trạng hoạt động
của NHTM nói chung có nhiều biến động do vậy cũng ảnh hưởng đến nguồn vốn
này.
Tóm lại, mặc dù có những khó khăn khách quan và chủ quan, nhưng
Eximbank Hà Nội đã luôn cố gắng vượt qua và kinh doanh có hiệu quả tốt. Trong
năm 1999, cho dù Eximbank Hà Nội có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn
nhưng nguồn vốn huy động chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Đây chính là
điểm yếu của Ngân hàng Eximbank Hà Nội vì bình quân lãi suất huy động đầu vào
cao, đồng thời Ngân hàng luôn phải chịu sức ép về dự trữ thanh khoản do VND bị
mất giá so với USD. Tuy nhiên đây là bước đi tất yếu trên con đường hội nhập mà
Ngân hàng Eximbank đang tìm cách tháo gỡ để vươn lên.
* Về sử dụng vốn :
Hiện nay, nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các
NHTMViệt Nam nói chung và của chi nhánh Eximbank Hà Nội nói riêng.
Là một NHTMCP, vốn hoạt động là do các cổ đông đóng góp, huy động tiền

gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế nên hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ
vô cùng khó khăn nếu chỉ lơ là một chút thôi thì hậu quả rủi ro tín dụng sẽ khôn
lường. Nhận thức được điều này, Eximbank Hà Nội rất chú trọng đến khâu tín
dụng, coi đó là hoạt động trọng tâm của Ngân hàng. Ngân hàng luôn thực hiện cho
vay với 3 mục tiêu cơ bản : Hiệu quả, an toàn vốn đầu tư và phát triển.
Nhờ làm tốt công tác huy động vốn, Eximbank Hà Nội đã tích cực nhanh
chóng đa dạng hóa các mặt nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ Ngân hàng trong đó
trọng tâm là công tác tín dụng.
Tình hình tín dụng của Eximbank Hà Nội được thống kê cụ thể qua bảng:
Bảng 2 : Kết cấu dư nợ theo thời hạn cho vay của eximbank hà nội
Đơn vị : Triệu đồng.
31/12/1997 31/12/1998 31/12/1999
chỉ tiêu
Số tiền Tỉ
trọng
( % )
Số tiền Tỉ
trọng
( % )
Số tiền Tỉ trọng
( % )
Dư nợ ngắn
hạn:
236.236 93,68 156.095 87 170.24
8
84
$ VND 95.764 37,98 41.113 22,90 61.087 30
$ USD 140.472 55,70 114.982 64,10 109.16
1
54

Dư nợ dài hạn : 15.932 6,32 23.326 13 32.311 16
$ VND 12.188 4,83 17.404 9,70 24.039 11,9
$ USD 3.744 1,49 5.922 3,30 8.272 4,1
Tổng dư nợ : 252.168 100. 179.421 100 202.55
9
100
Nguồn : Báo cáo tín dụng năm 97, 98, 99 của Eximbank Hanoi.
Dư nợ tín dụng tính đến cuối năm 1997 là 252.168 triệu đồng, đến 31/12/1998
là 179.421 triệu đồng giảm 28,8% so với cuối năm 1997. Cuối năm 1999, dư nợ tín
dụng là 202.559 triệu đồng tăng so với năm 1998 là 12,9%. Năm 1999, dư nợ tín
dụng ngắn hạn là 170.248 triệu đồng chiếm 84% trong tổng dư nợ, giảm 65.988
triệu đồng so với năm 1997 và tăng 14.153 triệu đồng so với năm 1998, trong khi
đó dư nợ cho vay trung và dài hạn là 32.311 triệu đồng chỉ chiếm 16% trong tổng
dư nợ tín dụng bằng 202,8% so với năm 1997 và tăng 8.985 triệu so với năm 1998
(bằng 138,5%)
Là một NHTM, Chi nhánh đã xác định đúng đắn mức vốn cho vay ngắn hạn
trong cơ cấu vốn đầu tư. Trong các năm 1997,1998, 1999, tỷ trọng cho vay ngắn
hạn luôn ổn định ở mức cao, trên 80%. Mục tiêu lợi nhuận luôn đặt lên hàng đầu
nên Ngân hàng nhận thấy rõ ràng cho vay ngắn hạn có ưu thế hơn cho vay trung và
dài hạn sau khi nghiên cứu kỹ các dự án có tính khả thi, đem lại hiệu quả, góp phần
tăng trưởng kinh tế.
Xét theo cơ cấu loại tiền thì năm 1999 dư nợ tín dụng USD là 117.433 triệu
đồng chiếm 81,4%, giảm 26.783 triệu đồng so với năm 1997 và giảm 3.471 triệu
đồng so với năm 1998. Dư nợ tín dụng VND là 85.126 triệu đồng chiếm 42% trong
tổng dư nợ giảm đi 22.826 triệu đồng so với năm 1997 và tăng 26.609 triệu đồng
so với cùng kỳ năm 1998. Đặc trưng của Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam là
kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng nhằm phục vụ sản xuất và chế biến hàng
xuất nhập khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu. Chính vì vậy các khách hàng truyền
thống của Ngân hàng thường đến vay để nhập khẩu hàng hoá do đó dư nợ của tiền
USD luôn lớn hơn dư nợ của tiền Đồng.

Tại Eximbank Hà Nội, đầu tư tín dụng đã bám sát yêu cầu thực tại, mở rộng
đầu tư với mọi thành phần kinh tế, sử dụng tối đa nguồn vốn vào tái đầu tư nhằm
thu lợi nhuận. Các khách hàng của Chi nhánh Eximbank Hà Nội bao gồm các
DNNN, công ty cổ phần, các hộ sản xuất có giấy chứng nhận kinh doanh.
bảng 3 : kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Triệu đồng
chỉ tiêu
1997 1998 1999
Số tiền Tỉ trọng
( % )
Số tiền Tỉ trọng
( % )
Số tiền Tỉ trọng
( % )
Dư nợ NH: 236.23
6
93,68 156.095 87 170.248 84
DNNN 109.88
8
43,57 66.717 37,18 68.105 33,6
Cty CP+TNHH 110.26
6
43,72 79.049 44,1 95.913 47,3
Đối tượng khác 16.082 6,39 10.329 5,72 6.203 3,1
Dư nợ T & DH 15.932 6,32 23.326 13 32.311 16
DNNN 0 0 0 0 1.968 0,97
Cty CP+TNHH 15.932 6,32 23.326 13 29.783 14,74
Đối tượng khác 0 0 0 0 560 0,29
Tổng DN 252.16
8

100 179.421 100 202.559 100
Qua số liệu trên bảng ta thấy
* Đối với thành phần kinh tế quốc doanh:
Năm 1999 dư nợ với khối quốc doanh là 70.073 triệu đồng tăng 3.356 triệu
đồng so với năm 1998 và giảm 39.815 triệu so với năm 1997
Nhìn chung các DNQD được Ngân hàng đầu tư đa phần là các doanh nghiệp
làm ăn tốt, có hiệu quả thực sự vì khi đến vay vốn của Eximbank Hà Nội họ không
hề được ưu tiên gì hơn so với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác như
khi đến vay các Ngân hàng quốc doanh. Do không được ưu tiên nên họ phải tính
toán kỹ lưỡng hiệu quả của đồng vốn vay thì họ mới có nhu cầu vay.Tuy nhiên,
điều này không những làm giảm đi khối lượng khách hàng là những doanh nghiệp
quốc doanh mà trái lại năm 1999 các doanh nghiệp có uy tín của nhà nước đã đến
vay các khoản vay trung và dài hạn tại ngân hàng.
* Đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh :
Năm 1997 dư nợ với số tiền là 126.198 triệu đồng chiếm tỷ trọng 50,04% trên
tổng dư nợ. Năm 1998 dư nợ giảm xuống với số tiền 102.375 triệu đồng với tỷ lệ
57,1% trên tổng dư nợ. Năm 1999 với số tiền dư nợ là 125.696 triệu đồng với tỷ lệ
62,04% trên tổng dư nợ. Như vậy, dư nợ ngắn hạn đối với các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh qua các năm có thay đổi tuy nhiên tỷ lệ phần trăm vẫn luôn ổn
định (lớn hơn 50%).
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Chi nhánh thẩm định rất kỹ càng từ
tính chất pháp lý của hồ sơ, đến phương án kinh doanh, tư cách thiện trí trả nợ của
khách hàng. Chính vì vậy, một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ tư nhân
mới cho vay đều thể hiện có năng lực kinh doanh và thực hiện đúng kế hoạch trả
nợ.
Chi nhánh Ngân hàng Eximbank Hà Nội rất quan tâm đến việc củng cố và
nâng cao chất lượng tín dụng, bằng việc đề ra các qui trình, qui chế hoạt động.
Thực hiện lựa chọn dự án đầu tư, lựa chọn khách hàng, tăng cường công tác kiểm
tra, kiểm soát chấp hành chế độ nghiệp vụ, kịp thời phát hiện những sai sót để có
biện pháp xử lý phù hợp nhằm đảm bảo an toàn vốn và tài sản.

* Đối với các đối tượng khác:
Cho vay các DNTN, cá thể, HTX, các Ngân hàng khác giảm dần qua các năm.
Năm 1997 cho vay 16.082 triệu đồng chiếm 6,39% so với tổng dư nợ, đến năm
1998 giảm xuống còn 10.329 triệu đồng chiếm 5,72% so với tổng dư nợ và năm
1999 còn 6.790 triệu đồng chiếm 3,39% trong tổng dư nợ.
1.3. Kết quả kinh doanh tại chi nhánh Eximbank Hà nội :
Sau 08 năm hoạt động mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng tập thể cán bộ nhân
viên Chi nhánh Eximbank Hà Nội dưới sự quan tâm lãnh đạo của Hội đồng quản
trị và ban giám đốc, Chi nhánh đã nỗ lực kinh doanh và đạt được kết quả nhất định
góp phần vào kết quả chung của toàn hệ thống Eximbank như sau:
bảng 4 : kết quả kinh doanh và một số chỉ tiêu chủ yếu
Đơn vị : Triệu đồng.
Chỉ tiêu 31/12/1997 31/12/1998 31/12/1999
Tổng nguồn vốn 420.279 326.220 492.845
DS cho vay 634.323 366.734 441.031
Dư nợ TD 252.168 179.421 202.559
Nợ quá hạn 17.632 12.503 8.028
Hiệu suất sử dụng vốn 60 55 41
Lợi nhuận 9.960 5.400 7.500
Nguồn: Báo cáo tài chính năm 97, 98, 99 của Eximbank Hanoi.
Tóm lại: Hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Eximbank Hà Nội
trong năm 1998 tuy giảm do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế nhưng
kết quả kinh doanh năm 1999 thể hiện sự cố gắng của cán bộ nhân viên trong Ngân

×