Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Tuyên truyền nghị quyết của Đảng trên sóng truyền hình Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NÔNG THỊ HẢO

TUYÊN TRUYỀN NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG
TRÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NÔNG THỊ HẢO

TUYÊN TRUYỀN NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG
TRÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH LẠNG SƠN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. Trần Bảo Khánh

Chủ tịch hội đồng



PGS.TS Đặng Thị Thu Hƣơng

Hà Nội – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tuyên truyền nghị quyết của Đảng trên
sóng Truyền hình Lạng Sơn” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới
sự hướng dẫn của TS. Trần Bảo Khánh. Các số liệu và trích dẫn trong luận
văn rõ ràng, trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu khoa học nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính xác thực của nội
dung luận văn này.

Tác giả luận văn

Nông Thị Hảo


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập và triển khai thực hiện đề tài “Tuyên
truyền nghị quyết của Đảng trên sóng Truyền hình Lạng Sơn” tác giả luận văn
đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo và các giảng viên
trong Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đặc biệt tác giả luận văn luôn nhận được sự quan tâm định hướng, chỉ
bảo tận tình của T.S Trần Bảo Khánh. Cảm ơn sự quan tâm, động viên của
thầy đã cho tác giả nguồn động lực để cố gắng hoàn thành luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới lãnh đạo, đội ngũ phóng viên, biên

tập viên, Biên dịch viên đài PT-TH Lạng Sơn đã luôn tạo điều kiện thuận lợi
cung cấp tài liệu giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn của mình.
Tác giả cũng xin trân trọng cảm ơn các bạn học viên lớp cao học báo
chí khóa 21, những người bạn đã luôn giúp đỡ và đồng hành trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu, tìm nguồn tài liệu, liên hệ với nhân vật…
Trong điều kiện hạn chế về thời gian cũng như năng lực của bản thân,
luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong được sự đóng
góp ý kiến của hội đồng chấm luận văn, của các thầy, cô và đồng nghiệp để
luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 10
4. Đối tƣợng nghiên cứu................................................................................ 11
5. Phạm vi nghiên cứu:................................................................................. 11
6. Phƣơng pháp nghiên cứu.......................................................................... 11
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .................................................. 11
8. Kết cấu Luận văn: ..................................................................................... 12
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TUYÊN
TRUYỀN NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG TRÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH
ĐỊA PHƢƠNG ............................................................................................... 13
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài ...................................................... 13
1.1.1. Truyền hình .......................................................................................... 13
1.1.2. Công chúng báo chí và công chúng truyền hình............................... 21
1.1.3. Tuyên truyền và tuyên truyền trên sóng truyền hình ......................... 24

1.2. Nghị quyết của Đảng và yêu cầu tuyên truyền Nghị quyết của Đảng
đối với công chúng địa phƣơng .................................................................... 23
1.3. Giới thiệu về Đài Phát thanh – Truyền hình Lạng Sơn và nhiệm của
Đài trong tuyên truyền Nghị quyết của Đảng ............................................ 25
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TUYÊN TRUYỀN NGHỊ QUYẾT CỦA
ĐẢNG TRÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH LẠNG SƠN ................................. 32
2.1. Nội dung tuyên truyền Nghị quyết của Đảng trên sóng truyền hình
Lạng Sơn ........................................................................................................ 32
2.2. Hình thức chuyển tải thông tin tuyên truyền Nghị quyết của Đảng
của đài Phát thanh – Truyền hình Lạng Sơn ............................................. 32
1


2.2.1. Các thể loại chính được sử dụng......................................................... 38
2.2.2. Ngôn ngữ lời bình thể hiện trên sóng truyền hình ............................ 38
2.2.3. Hình ảnh trong các chương trình truyền hình .................................. 39
2.2.4. Tiếng động, âm nhạc trong các chương trình truyền hình ............... 40
2.3. Thành tựu và hạn chế ........................................................................... 40
2.3.1. Thành tựu ............................................................................................. 40
2.3.2. Hạn chế ................................................................................................. 43
2.4. Nguyên nhân thành tựu và hạn chế...................................................... 45
2.4.1. Nguyên nhân thành tựu....................................................................... 45
2.4.2. Nguyên nhân hạn chế .......................................................................... 47
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TUYÊN TRUYỀN
NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG CHÖNG TRÊN SÓNG
PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH LẠNG SƠN .......................................... 51
3.1. Nhóm giải pháp về tổ chức, quản lý và phát triển nhân lực của Đài
Phát thanh – Truyền hình Lạng Sơn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tuyên
truyền trong điều kiện mới ........................................................................... 51
3.2. Nhóm giải pháp về đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ

biến nghị quyết trên sóng truyền hình của Đài Phát thanh – Truyền hình
Lạng Sơn ........................................................................................................ 58
3.3. Nhóm giải pháp về thu hút khán, thính giả ......................................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 69
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 72

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuyên truyền, phổ biến đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đến với đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân là một trong những nhiệm vụ cơ bản của Đài Phát thanh – Truyền
hình địa phương cấp tỉnh. Đối với tỉnh Lạng Sơn, là một tỉnh biên giới có đông
đồng bào các dân tộc cư trú, sinh sống, làm ăn, buôn bán, giao thương với nước
bạn nên thực sự đây là địa bàn rất quan trọng không chỉ đối với khu vực Đông
Bắc mà còn đối với cả nước.
Trong nhiều năm qua, Đài Phát thanh – Truyền hình Lạng Sơn rất chú
thời lượng, nội dung, phương pháp, hình thức, nhân lực, cơ sở vật chất, phương
tiện, sức hấp dẫn và chất lượng, hiệu quả truyên truyền. Do đó, để không
ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền nghị quyết của
Đảng trên sóng truyền hình để đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương cần
thiết phải có nghiên cứu, khảo sát, đánh giá, phân tích một cách khách quan,
nghiêm túc về vấn đề này từ nhiều phương diện, nhất là chủ thể, đối tượng
tuyên truyền, nội dung, hình thức, thời lượng tuyên truyền… Nhằm góp phần
giải quyết vấn đề quan trọng nhưng phức tạp đó, tác giả chọn vấn đề: “Tuyên
truyền nghị quyết của Đảng trên sóng truyền hình Lạng Sơn” làm đề tài Luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về báo chí, đặc biệt là truyền
hình và vai trò tác động, hiệu quả của báo chí
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò, chức năng,
nguyên tắc hoạt động và hiệu quả của báo chí, ví dụ như “Cơ sở lý luận báo chí
truyền thông” (của các tác giả Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường và Trần
Quang, đã tái bản nhiều lần), “Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội”
3


(2008), “Báo chí truyền thông và kinh tế văn hóa xã hội” (2005), “Tác động
của những phương tiện truyền thông mới đối với đời sống văn hóa của cư dân
đô thị ở Việt Nam” (2006), bộ sách 9 tập „Báo chí – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” do khoa Báo chí và Truyền thông (ĐH KHXH và NV) xuất bản, …
Các sách có đề cập đến chương trình truyền hình phải kể đến cuốn sách
“Nghề báo nói” của tác giả Nguyễn Đình Lương, do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin in và phát hành năm 1993; Giáo trình “Báo chí phát thanh” do các
tác giả của Khoa Báo chí, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền cùng Đài
TNVN biên soạn (Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2002); Chuyên luận “Lý
luận báo Phát thanh” của tác giả Đức Dũng, do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin in và phát hành năm 2003; Tài liệu “Phát thanh-Truyền thanh nông
thôn” do Ban Địa phương, Đài TNVN dịch và lưu hành nội bộ, tái bản năm
2005; Giáo trình “Phát thanh trực tiếp” do GS. TS Vũ Văn Hiền và PGS.TS
Đức Dũng chủ biên, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị in và phát hành năm
2007; giáo trình “Báo chí Truyền hình” do PGS.TS Dương Xuân Sơn chủ
biên, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội in và phát hành năm 2011, cuốn
“Sản xuất chương trình truyền hình” của tác giả Trần Bảo Khánh, “Giáo trình
Báo chí truyền hình” và “Các loại hình báo chí truyền thông” của tác giả
Dương Xuân Sơn. Trong các tác phẩm được dịch sang tiếng Việt có các tác
phẩm:“Hướng dẫn sản xuất chương trình phát thanh” của tác giả Lois Baird,
Trường Phát thanh Truyền hình và Điện ảnh Austrailia (Tài liệu tham khảo
nội bộ Đài Tiếng nói Việt Nam); “Phát thanh truyền thống và phát thanh trực

tiếp” của tác giả Carl Defoy đăng trên Nội san Nghiệp vụ phát thanh, Đài
Tiếng nói Việt Nam, số 2; Chuyên luận “Các thể loại báo chí Phát thanh”
của tác giả người Nga V.V. Xmirnôp được Nhà xuất bản Thông tấn dịch và
phát hành năm 2004; “Nhà báo hiện đại” của The Missouri Group, NXB Trẻ,
TP Hồ Chí Minh, năm 2007…
4


Các tác giả đã hệ thống các khái niệm chương trình, chương trình truyền
hình, phương thức sản xuất chương trình truyền hình với sự phân loại cụ thể
và chi tiết. Cuốn sách “Tổ chức hoạt động Cơ quan báo chí - thực tiễn và xu
hướng phát triển” của tác giả Nguyễn Quang Hòa hay giáo trình “Công nghệ
sản xuất chương trình truyền hình” của thạc sỹ Phạm Thị Sao Băng - Trường
Cao đẳng Truyền hình (Đài Truyền hình Việt Nam), tác giả đã giới thiệu hệ
thống về chương trình truyền hình, quy trình sản xuất một chương trình
truyền hình, công nghệ sản xuất và phân phối các chương trình truyền hình
cùng nhiều nội dung liên quan khác...
Tác giả Mai Quỳnh Nam trong Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả truyền
thông đại chúng” khái quát sự ra đời, phát triển của truyền thông, truyền
thông đại chúng, sự cấp thiết và tính phức tạp trong nghiên cứu truyền thông
đại chúng. Tác giả Mai Quỳnh Nam đưa ra những hệ thống chỉ tiêu, lấy đó
làm cơ sở để phân tích tính hiệu quả của các phương tiện truyền thông đại
chúng, đó là: Hiệu quả vị lợi; Hiệu quả uy tín; Hiệu quả tăng cường quan
điểm; Hiệu quả thỏa mãn lợi ích nhận thức; Hiệu quả thẩm mỹ; Hiệu quả
thuận tiện. Đồng thời, tác giả đưa ra quan điểm: “Một trong những chỉ báo
quan trọng cho thấy hiệu quả truyền thông đại chúng là việc công chúng nhớ
được nội dung thông điệp”.
2.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của báo chí đối với công tác
tuyên truyền, phổ biến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
- Lưu Trần Toàn: Báo chí với công tác tuyên truyền, phổ biến đường

lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới, tại trang:
Tác giả cho rằng, Ở Việt Nam, báo chí là cơ quan ngôn luận
của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước các tổ chức xã hội; là diễn đàn
5


của nhân dân. Chức năng quan trọng nhất của báo chí là thông tin, tuyên
truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến các tầng
lóp nhân dân để nhân dân cả nước nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin,
thống nhất thực hiện những chủ trương, chính sách đó, nhằm phát triển kinh
tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Thông qua việc tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách,
báo chí đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, tạo diễn đàn phản ánh kịp
thời những ý kiến sôi động từ thực tiễn cuộc sống để Đảng, Nhà nước có thêm
thông tin nhằm tiếp tục ban hành các quyết sách đúng đắn. Bài bào trình bày,
phân tích thực trạng báo chí tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước trong thòi kỳ đổi mới và những giải pháp chủ yếu để
báo chí nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền, phổ biến chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
- Thiên Thanh: Tuyên truyền hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng
trên Báo Hà Giang, tại trang: />Bài viết cho rằng, cùng với tuyên truyền Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII,
những nội dung được cụ thể hóa trong Bộ công cụ do Ban thường vụ Tỉnh ủy
Hà Giang xây dựng, ban hành đã được Báo Hà Giang tuyên truyền thông qua
các bài viết, phản ánh cách làm ở cơ sở và đã tạo được sự đồng thuận của cán
bộ, đảng viên. Từ đó, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên, hiệu quả lãnh chỉ đạo của tổ chức cơ sở Đảng và người đứng đầu
cấp ủy, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội. Nhờ thực hiện đồng bộ, hiệu
quả nội dung các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, sự vào cuộc tích cực trong
chuyển tải thông tin của Báo Hà Giang đã góp phần cùng Đảng bộ tỉnh hoàn
thành xuất sắc các chỉ tiêu, kế hoạch đề ra, từng bước xây dựng hình ảnh Hà

Giang anh dũng, quật cường và đang nỗ lực đổi mới, vươn lên thoát nghèo.
6


- Lê Thị Thơm: VOV1 với công tác tuyên truyền“Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới” (Khảo sát từ tháng 1/2014 đến tháng
3/2014), Luận văn Thạc sĩ Báo chí. Luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng,
những ưu, khuyết điểm trong quá trình tuyên truyền “Chương trình mục tiêu
quốc gia nông thôn mới” trên Hệ VOV1 của Đài Tiếng nói Việt Nam. Trên cơ
sở đó đưa ra những giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền
Chương trình Mục tiêu quốc gia Nông thôn mới trên Hệ VOV1 trong thời
gian tới. Để có thể đạt được mục tiêu ấy, tác giả đã nêu bật vai trò của báo chí
trong công tác tuyên truyền với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới. Đồng thời, nghiên cứu về công tác tuyên truyền Chương trình
Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới qua các chương trình phát sóng
trên Hệ VOV1. Trên cơ sở đó, đề xuất các phương hướng cơ bản, một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền chương trình nông thôn
mới trên Hệ VOV1 nói riêng và các chương trình phát thanh nói chung.
- Trần Thị Thanh Giang: Nâng cao hiệu quả tuyên truyền việc“Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trên báo chí tỉnh Hưng Yên,
Luận văn Thạc sĩ Báo chí. Luận văn đã khái quát hoạt động tuyên truyền việc
“Học tập và làm theo tấm gương của đạo đức Hồ Chí Minh” trên báo chí tỉnh
Hưng Yên (từ tháng 2/2007 đến tháng 6/2013); chỉ ra những kết quả đã đạt
được cũng như những hạn chế, bất cập, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền việc “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trên báo chí tỉnh Hưng Yên. Luận văn
cung cấp một số thông tin, tư liệu và một số vấn đề có tính lý luận về hiệu quả
tuyên truyền của báo chí nói chung, báo chí tỉnh Hưng Yên nói riêng về chủ
đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Từ đó, nhấn
mạnh sự cần thiết phải tuyên truyền hiệu quả việc “Học tập và làm theo tấm


7


gương đạo đức Hồ Chí Minh” trên báo chí tỉnh Hưng Yên góp phần thực hiện
tốt các mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh.
- Thủy Châu: Tuyên truyền nghị quyết của Đảng bằng bản lĩnh và trái
tim, tại trang: Tác giả
khẳng định, sứ mệnh của những người làm báo Đảng là góp phần đưa nghị
quyết của Đảng vào cuộc sống, truyền tải kịp thời, chính xác, đầy đủ thông tin
đối với xã hội. Bằng bản lĩnh dấn thân, sự hiểu biết và trái tim tâm huyết với
nghề, từ thực tiễn tác nghiệp ở cơ sở, những người làm báo Tuyên Quang còn
phát hiện những cách làm hay, sáng tạo, đưa tiếng nói của người dân đến gần
với Đảng, chính quyền.
- Nguyễn Công Dũng: Để nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, tại
trang:

/>
vao-cuoc-song-487927.html. Từ phân tích vai trò, thực trạng, tác giả cho
rằng, để tiếp tục nâng cao chất lượng tuyên truyền nghị quyết của Đảng trong
tình hình mới, trước mắt, cần đổi mới, nâng cao nâng cao tính định hướng
chính trị tư tưởng không những cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên của bản
báo, mà còn đối với đội ngũ cộng tác viên. Các tờ báo cần huy động nhiều
hơn nữa các nhà hoạt động chính trị thực tiễn, nhà nghiên cứu lý luận để có
nhiều bài viết giải thích sâu sắc, có sức thuyết phục những nội dung chủ yếu
trong từng chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
- Nguyễn Tiến Vụ: Bước chuyển mới của Đài Phát thanh và Truyền hình
Bắc Ninh, tại trang: Tác giả khẳng định: Đổi mới,
nâng cao chất lượng chương trình phát thanh, truyền hình, trang thông tin điện
tử và đặc san là mục tiêu xuyên suốt và quan trọng của Đài Phát thanh và

Truyền hình Bắc Ninh. Đặc biệt, trước sự phát triển của khoa học, công nghệ
8


mà trọng tâm là sự “bùng nổ” của truyền thông đa phương tiện, Đài Phát thanh
và Truyền hình Bắc Ninh đã chủ động tiếp cận và từng bước thực hiện một
cách đồng bộ, hiệu quả mục tiêu này. Từ cơ quan báo chí với hai loại hình gồm
báo nói, báo hình, đến nay, Đài Phát thanh và Truyền hình Bắc Ninh đã triển
khai đủ cả bốn loại hình báo chí, trong đó hai loại hình báo chí mới là trang
thông tin điện tử (báo điện tử) và đặc san (báo in) cũng đã có bước chuyển
mạnh mẽ. Tác giả nhấn mạnh những giải pháp đột phá là: cơ cấu lại nội dung,
thời lượng, chất lượng nội dung chương trình; Chủ động tiếp cận, ứng dụng
công nghệ kỹ thuật tiên tiến, hiện đại; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên
chức; Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, viên chức.
- Trần Thị Phương Nhung: Nâng cao vai trò của Đài Phát thanh –
Truyền hình Thừa Thiên – Huế trong công tác bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa phi vật thể của Huế, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Huế, Tập
3, số 2, 2015, tr 129-139. Bài viết phân tích thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp để nâng cao vai trò của Đài Phát thanh – Truyền hình Thừa Thiên – Huế
trong công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể của Huế.
- Nguyễn Thế Kỷ: Báo chí, phát thanh, truyền hình trong kỷ nguyên số
đa nền tảng, tại trang: Tác giả cho rằng, xu hướng số
hoá là không thể đảo ngược trong tiến trình phát triển hiện nay của thế giới.
Và báo chí, truyền thông - với tư cách là một ngành nghề luôn tiếp xúc sớm
nhất, phản ứng nhanh nhạy nhất với mọi biến động xã hội, đương nhiên,
không thể thoát ra ngoài quỹ đạo của sự phát triển này. Trong kỷ nguyên số
bùng nổ hiện nay, báo chí, phát thanh, truyền hình bắt buộc phải thay đổi nếu
muốn tiếp tục tồn tại và phát triển. Sự thay đổi này bao gồm cả việc thay đổi
cách thức quản lý (ở tầm quốc gia cũng như các bộ, ngành, địa phương); áp
dụng công nghệ vào quản lý toà soạn; đầu tư cho các nền tảng công nghệ mới

9


ở cơ quan báo đài; ở chính từ cấp cuối cùng là các phóng viên. Các phóng
viên cũng phải trang bị cho mình kiến thức, kỹ năng công nghệ để có thể tác
nghiệp một cách hiệu quả nhất, tin, bài, hình ảnh phải phục vụ tối đa cho mọi
nền tảng công nghệ của toà soạn, từ báo giấy, báo điện tử, video cho truyền
hình và audio cho phát thanh. Nhưng, để trở nên khác biệt, để tiếp tục đứng
vững và phát triển trước sự cạnh tranh từ truyền thông xã hội, truyền thông
công dân, báo chí, phát thanh, truyền hình chính thống vẫn phải sử dụng
nhiều hơn thế mạnh của mình là chất lượng thông tin, đặc biệt trong thời đại
mà tin giả “fake news” đang bùng nổ và hoành hành tai quái như hiện nay.
Tác động của công nghệ, mạng xã hội đối với các cơ quan báo chí và công
chúng ngày càng lớn, đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội không nhỏ đối với
báo chí và cả xã hội. Nhanh nhưng phải đảm bảo tính chính xác, tính khoa
học, tính nhân văn, có trách nhiệm cao với xã hội, thể hiện được bản lĩnh
chính trị, năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp vẫn là yêu cầu hàng
đầu đối với phóng viên, nhà báo trong bất kỳ thời đại nào.
Qua việc tổng quan các công trình, bài viết có liên quan cho thấy, đến
nay chưa có công trình, bài viết nào trực tiếp bàn về vấn đề “Tuyên truyền
nghị quyết của Đảng trên sóng Truyền hình Lạng Sơn”. Tuy nhiên, từ
nhiều góc độ, mục đích nghiên cứu các vấn đề, phạm vi vấn đề khác nhau, đã
có nhiều bài viết, công trình bàn về lý luận, thực tiễn báo chí, phát thanh,
truyền hình, về vai trò của báo chí, phát thanh, truyền hình trong kỷ nguyên
số, kể cả vai trò của báo chí trong tuyên truyền đường lối, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Những công trình nghiên cứu nói
trên là tài liệu tham khảo bổ ích đối với tác giả trong việc triển khai đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu: Từ việc hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên
quan đến đề tài, luận văn khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tuyên truyền


10


Nghị quyết của Đảng trên sóng truyền hình Lạng Sơn, từ đó đề xuất giải pháp,
khuyến nghị để đài PT – TH Lạng Sơn thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình.
4. Đối tƣợng nghiên cứu: Tuyên truyền nghị quyết của Đảng trên sóng
truyền hình Lạng Sơn.
5. Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu hoạt động tuyên truyền nghị quyết
của Đảng đối với công chúng địa phương của Đài PT - TH Lạng Sơn trong
năm 2018.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Được sử dụng trong việc nghiên
cứu các sách, báo, tài liệu có liên quan đến cơ sở lý luận báo chí và lý luận
báo phát thanh- truyền hình nhằm hệ thống hóa những vấn đề về lý luận
làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích thông điệp truyền thông: luận văn khảo sát,
đánh giá các chương trình truyền hình có nội dung tuyên truyền về Nghị
quyết của Đảng đối với công chúng địa phương của đài PT- TH Lạng Sơn
trong năm 2018.
- Phương pháp điều tra xã hội học và phỏng vấn sâu: tác giả xây dựng
bảng hỏi với 11 câu hỏi và điều tra 300 phiếu đối với đối tượng cán bộ cơ sở
xã phường, thị trấn ở Lạng Sơn; đồng thời kết hợp phỏng vấn sâu đối với một
số cán bộ xã phường, thị trấn để làm rõ thêm các đánh giá, nhận định, đề xuất.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là tài liệu tham khảo về mặt lý luận báo chí truyền thông, là
tài liệu nghiên cứu, tham khảo về những vấn đề có liên quan đến truyền hình


11


và vai trò của đài PT – TH địa phương trong việc tuyên truyền Nghị quyết của
Đảng.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn cung cấp những cơ sở dữ liệu xác thực, cụ thể về hoạt động,
vai trò của Đài PT- TH Lạng Sơn trong tuyên truyền Nghị quyết của Đảng đối
với công chúng địa phương, từ đó có giải pháp, khuyến nghị nhằm giúp cho các
đài PT - TH địa phương nói chung, đài PT - TH Lạng Sơn nói riêng thực hiện tốt
hơn nhiệm vụ của mình.
- Quá trình thực hiện đề tài cũng là dịp để tác giả bổ sung kiến thức
và hiểu biết sâu hơn, tiếp tục đóng góp công sức, tâm huyết của mình trong
xây dựng, phát triển sự nghiệp phát thanh- truyền hình và không ngừng đổi
mới, nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của đơn vị tôi đang công tác (Đài
PT- TH Lạng Sơn)
8. Kết cấu Luận văn: Ngoài mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 3 chương, 10 tiết.

12


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VỀ TUYÊN TRUYỀN NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG
TRÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH ĐỊA PHƢƠNG
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Truyền hình
Truyền hình là một loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải thông
tin bằng hình ảnh và âm thanh về một vật thể hoặc một cảnh đi xa bằng sóng

vô tuyến điện. Truyền hình được đưa ra thị trường năm 1920 với hình thức
thô sơ nhất. Và sau chiến tranh thế giới thứ 2 dòng sản phẩm này đã được cải
tiến rất nhiều từ hình thức, các chương trình cũng như là về mặt thiết kế. Cho
đến năm 1950 dòng sản phẩm này đã được gọi tên là tivi và đã trở thành dòng
sản phẩm phổ biến trong các gia đình tại Mỹ dùng để xem các chương trình
về tin tức, quảng cáo, giải trí…
Truyền hình mới xuất hiện trên thế giới từ khoảng giữa thế kỷ XX
nhưng phát triển rất nhanh chóng, mạnh mẽ và được phổ biến hết sức rộng rãi
trong vài thập niên trở lại đây. Với tư cách là một loại hình báo chí, truyền
hình có những đặc điểm đáng chú ý sau đây:
Thứ nhất, về nội dung kỹ thuật, trong các loại hình truyền thông đại
chúng, truyền hình là phương tiện ra đời muộn, tuy nhiên nó là sản phẩm của
nền văn minh khoa học công nghệ phát triển. Truyền hình đã thừa hưởng kinh
nghiệm và phương pháp tạo hình, tiếng của điện ảnh và phát thanh. Ở truyền
hình có sự khái quát triết lý của báo in, tính chuẩn sác cụ thể bằng hình ảnh,
âm thanh của điện ảnh, phát thanh, tính hình tượng của hội họa, cảm xúc tư
duy của âm nhạc. Sự phát triển của các phương tiện kỹ thuật công nghệ giúp
truyền hình tạo ra phương pháp mới trong truyền đạt thông tin. Truyền hình là

13


loại hình tryền thông có các yếu tố kỹ thuật hiện đại kết hợp giữa: kỹ thuật,
mỹ thật, nghệ thuật, kinh tế, báo chí.
Thứ hai, về tư duy và sáng tạo tác phẩm. Mỗi loại hình truyền thông đại
chúng đều có những đặc thù riêng. Xét trên phương diện quá trình làm ra một
tác phẩm, ở báo in mỗi tác phẩm, mỗi bài báo có thể là sản phẩm riêng, là sự
sáng tạo riêng của mỗi cá nhân, mỗi nhà báo. Nhưng để sáng tạo một tác
phẩm truyền hình còn công phu hơn nhiều, đó là một đứa con tinh thần của cả
một tập thể, đạo diễn, biên kịch và những người làm kỹ thuật, sản phẩm đó

thể hiện ý kiến thống nhất của từng thành viên của nhóm, giữa người biên tập
và người quay phim.
Thứ ba, so với các loại hình báo chí khác, truyền hình có những đặc
trưng riêng có. Đó là:
- Tính thời sự: Tính thời sự là đặc điểm chung của báo chí. Nhưng
truyền hình với tư cách là một pương tiện truyền thông đại chúng hiện đại có
khả năng thông tin nhanh chóng, kịp thời hơn so với các loại phương tiện
khác. Với truyền hình, sự kiện được phản ánh ngay lập tức khi nó vừa mới
diễn ra, thậm chí nó đang diễn ra, người xem có thể quan sát một cách chi tiết,
tường tận qua truyền hình trực tiếp và cầu truyền hình. Truyền hình có khả
năng phát sóng liên tục 24/24 giờ trong ngày, luôn mang đến cho người xem
những thông tin nóng hổi nhất về các sự kiện diễn ra, cập nhật những tin tức
mới nhất. Đây là ưu thế đặc biệt của truyền hình so với các loại hình báo chí
khác. Nhờ các thiết bị kỹ thuật hiện đại, truyền hình có đặc trưng cơ bản là
truyền trực tiếp cả hình ảnh va âm thanh trong cùng một thời gian về cung
một sự kiện, sự việc.
- Ngôn ngữ truyền hình là những hình ảnh và âm thanh: Một ưu thế của
truyền hình là truyền tải cả hình ảnh và âm thanh cùng một lúc. Khác với báo
in, người đọc chỉ tiếp cận bằng con đường thị giác, phát thanh bằng con
14


đường thính giác, người xem truyền hình tiếp cận sự kiện bằng cả thị giác và
thính giác. Qua các cuộc ngiên cứu người ta thấy 70% lượng thông tin con
người thu được là do thị giác và 20% qua thính giác. Do vậy, truyền hình trở
thành một phương tiện cung cấp thông tin lớn có độ tin cậy cao, có khả năng
làm thay đổi nhận thức của con người trước sự kiện.
- Tính phổ cập và quảng bá: Do những ưu thế về hình ảnh và âm thanh,
truyền hình có khả năng thu hút hàng tỷ người xem cùng một lúc, cùng với sự
phát triển của khoa học công nghệ, truyền hình ngày càng mở rộng phạm vi

phủ sóng phục vụ được nhiều đối tượng người xem ở vùng sâu vùng xa. Tính
quảng bá của truyền hình còn thể hiện ở chỗ một sự kiện xảy ra ở bất kỳ đâu
được đưa lên vệ tinh sẽ truyền đi khắp thế giới, được hàng tỷ người biết đến.
- Khả năng thuyết phục công chúng: Truyền hình đem đến cho khán giả
cùng lúc hai tín hiệu cơ bản là hình ảnh và âm thanh, đem lại độ tin cậy, thông
tin cao cho công chúng, coa khả năng tác động mạnh mẽ vào nhận thức của con
người. Tuyền hình có khả năng truyền tải một cách chân thực hình ảnh của sự
kiện đi xa nên đáp ứng yêu cầu chứng kiến tận mắt của công chúng “trăm nghe
không bằng một thấy” đây là lợi thế của truyền hình so với loại hình báo in và
phát thanh. Khả năng tác động dư luận xã hội mạnh mẽ và trở thành diễn đàn
của nhân dân. Các chương trình truyền hình mang tính thời sự, cập nhật, nóng
hổi, hấp dẫn người xem bằng cả hình ảnh, âm thanh và lời bình, vừa cho người
xem thấy được thực tế của vấn đề vừa tác động vào nhận thức của công chúng.
Vì vậy, truyền hình có khả năng tác động vào dư luận mạnh mẽ.
Năm 1970, chương trình truyền hình thử nghiệm đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa được phát sóng do Đài tiếng nói Việt Nam thực hiện. Năm
1977, thành lập Đài truyền hình trung ương (Đài truyền hình Việt Nam). Từ đầu
những năm 1990, nhiều địa phương như Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ
An…lần lượt dùng ngân sách địa phương mua máy phát truyền hình. Đặc biệt là
15


khi Đài truyền hình Việt Nam sử dụng vệ tinh phủ sóng toàn quốc thì đài truyền
hình các tỉnh, thành phố đã có một bước tăng trưởng về số lượng.
Có thể thấy rằng, cũng giống như nhiều nước trên thế giới, sự phát triển
của báo chí ở Việt Nam, nhất là báo phát thanh và truyền hình đều có quá
trình phân ly, chuyên môn hóa vừa có quá trình tích hợp theo hướng báo chí
đa nền tảng, đa phương tiện. Đến nay cả nước có 67 đơn vị phát thanh, truyền
hình, gồm 03 đài Trung ương, 64 đài phát thanh – truyền hình địa phương.
Những dịch chuyển gần đây theo hướng hợp nhất các cơ quan báo chí ở địa

phương (hợp nhất Đài Phát thanh – truyền hình với Báo của tỉnh như Quảng
Ninh, Bình Phước) theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng không
chỉ có ý nghĩa về mặt tổ chức, quản lý, giảm đầu mối, giảm biên chế, giảm
gánh nặng cho ngân sách mà quan trọng hơn, có thể mở ra triển vọng tốt đẹp
cho sự phát triển về chuyên môn, kỹ thuật, công nghệ của báo chí địa phương
để nó dần tự chủ về kinh phí chi thường xuyên và làm tốt vai trò, sứ mệnh
chính trị của nó đối với Đảng, Nhà nước và xã hội.
Đài Phát thanh và truyền hình là cơ quan báo chí truyền thông được
thành lập ở các tỉnh, thành phố, thực hiện nhiệm vụ truyền thông ở hai lĩnh
vực, phát thanh và truyền hình. Các đài phát thanh và truyền hình ở nước ta là
cơ quan sự nghiệp nhà nước, trực thuộc ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố,
có nhiệm vụ sản xuất và phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình,
nội dung thông tin trên trang thông tin điện tử bằng tiếng việt, bằng tiếng các
dân tộc và tiếng nước ngoài theo quy định của pháp luật. Trực tiếp vận hành,
quản lý, khai thác hệ thống kỹ thuật chuyên ngành để sản xuất chương trình,
truyền dẫn tín hiệu và phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình của
địa phương và quốc gia theo quy định của pháp luật; phối hợp với các cơ
quan, tổ chức khác để đảm bảo sự an toàn của hệ thống kỹ thuật này. Phối
hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất các
16


chương trình phát thanh, truyền hình phát sóng trên sóng Đài quốc gia và tiếp
sóng các chương trình phát sóng tại địa phương.
1.1.2. Công chúng báo chí và công chúng truyền hình
Dưới góc nhìn của báo chí học, công chúng (audience) là một bộ phận
quan trọng của quá trình truyền thông; là đối tượng tiếp nhận thông điệp của
sản phẩm truyền thông. Công chúng báo chí là những người đọc, người nghe,
người xem các sản phẩm của báo in, phát thanh, truyền hình và internet. Công
chúng là một tập hợp xã hội rộng lớn, được cấu thành bởi nhiều giới, nhiều

tầng lớp xã hội khác nhau và đang sống trong những mối quan hệ xã hội nhất
định. Khi nghiên cứu công chúng của một phương tiện truyền thông nào đó
thì phải tìm hiểu họ gắn liền với bối cảnh điều kiện sống và các mối quan hệ
xã hội của họ.
Herbert Blumer1 đã phân biệt bốn đặc điểm sau đây để nhận dạng khái
niệm công chúng: (i) Công chúng bao gồm những người thuộc mọi thành
phần xã hội, bất kể nghề nghiệp, trình độ học vấn hay tầng lớp xã hội nào
(nghĩa là có những đặc trưng rất dị biệt nhau); (ii) Nói đến công chúng là nói
đến những cá nhân nặc danh, nghĩa là: vì nhắm đến một công chúng đông
đảo, nên nhà truyền thông không thể biết ai là ai, và khi truyền thông thì họ
cũng ý thức rằng thông tin của họ có thể đến với bất cứ ai, chứ không chỉ
riêng một ai hay một nhóm người nào; (iii) Các thành viên trong công chúng
thường là độc lập với nhau, không ai biết ai, không có những sự tương tác hay
những mối quan hệ gì gắn bó với nhau (khác với những khái niệm như “cộng
đồng” hay “hiệp hội”); (iv) Công chúng là hầu như không có hình thức tổ
chức gì, hoặc nếu có thì cũng rất lỏng lẻo, do đó nó khó mà có thể tiến hành
được một hoạt động xã hội chung nào. Có thể nói, công chúng của các
phương tiện truyền thông đại chúng không bao giờ là một khối người thuần
1

Alphons Silbermann, Communication de masse, Paris, Nxb Hachette, 1981, tr. 15.

17


nhất, đồng dạng với nhau. Đây là một thực thể rất phức tạp, bao gồm nhiều
nhóm, nhiều giới, nhiều tầng lớp và giai cấp xã hội khác nhau, với những đặc
trưng đa dạng và những quyền lợi dị biệt và nhiều khi mâu thuẫn nhau.
Đặc điểm của công chúng truyền hình là những nét riêng biệt của công
chúng truyền hình so với công chúng báo chí nói chung và công chúng của

các loại hình nghệ thuật khác trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại
chúng. Công chúng báo chí là hầu hết toàn bộ công chúng của xã hội, trong
thời đại sống bằng thông tin hiện nay thì công chúng của báo chí quả thật là
rất lớn. Đối với truyền hình nói riêng thì công chúng còn rộng lớn hơn nhiều
vì không cần đến khả năng biết chữ, mắt có thể nhìn, tai có thể nghe, thậm chí
truyền hình còn phục vụ cả cho người khiếm thị nữa, đều có thể tiếp nhận
thông tin qua truyền hình.
Đối với báo in, công chúng có thể tiếp cận các ấn phẩm qua hệ thống
phát hành báo chí trong cả nước, đối với phát thanh chỉ cần một chiếc radio
nhỏ, một đôi pin là có thể "bắt sóng" và có thể mang đi mọi địa hình mọi thời
điểm để tiếp nhận thông tin nhưng với truyền hình việc tiếp nhận thông tin có
phần "đòi hỏi" hơn về phần phương tiện thu hình, hệ thống đường truyền tải
điện lưới. Công chúng truyền hình cũng như công chúng báo chí của chúng ta
hiện nay không còn thụ động trong việc tiếp nhận thông tin. Nếu như trước
đây, khi truyền hình mới ra đời, lớp công chúng truyền hình mới hình thành
rất ấn tượng và bị hấp dẫn bởi loại hình báo chí mới mẻ này. Công chúng
thường theo dõi hết những giờ phát sóng ít ỏi của chương trình truyền hình ở
thời kỳ đầu, họ tiếp nhận thông tin mà truyền hình mang đến một cách bị
động, tuy nhiên thì công chúng vẫn hài lòng vì có truyền hình để xem đã là cả
một sự tiến bộ.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, trình độ dân trí được cải thiện và
nâng cao, công chúng có thể tự nhận thức và đánh giá được thông tin. Bên
18


cạnh đó là tốc độ của truyền hình, các chương trình ngày càng phong phú và
đa dạng, với nhiều chương trình hấp dẫn được phát 24/24h, trong khi đó công
chúng lại ngày bận rộn với công việc của cuộc sống hàng ngày, thời gian dành
cho xem truyền hình do đó mà ít đi nên công chúng ngày càng có xu hướng
chủ động chọn lọc tiếp nhận những chương trình, thông tin mà mình quan

tâm, yêu thích. Công chúng, đối tượng truyền thông chủ động linh hoạt,
không chỉ muốn nghe mà muốn nói, muốn tham gia vào các chương trình
truyền hình. Đây được xem là xu thế của truyền thông hiện đại. Công chúng
truyền hình ở đây vừa đóng vai trò là đối tượng phản ánh vừa là người tiếp
nhận các chương trình truyền hình. Công chúng cũng là nguồn đề tài để các
nhà làm truyền hình khai thác, sản xuất các chương trình truyền hình, đi sâu
vào mọi mặt của đời sống xã hội, tạo sự gần gũi với công chúng.
Trong xã hội thông tin hiện nay, con người của xã hội hiện đại đã và
đang chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều loại thông tin được mang tới từ các loại
phương tiện thông tin khác nhau. Chính vì thế, đã tạo ra những lớp công
chúng của từng loại hình báo chí riêng biệt, có thể một cá nhân tiếp nhận
thông tin từ nhiều loại phương tiện thông tin đại chúng nhưng sự tiếp nhận
của từng loại rõ ràng là có sự khác biệt, và họ trở thành công chúng riêng biệt
đối với từng loại hình báo chí. Thực tế trên các kênh truyền hình ở Việt Nam
hiện nay, trong các chương trình có sự tham gia của công chúng rất nhiều.
Người dân được tham gia các chương trình phỏng vấn, tọa đàm, đối thoại,
được nêu ý kiến, thắc mắc hay gọi điện trực tiếp tới chương trình. Đặc biệt là
sự tham gia của công chúng vào các chương trình trò chơi truyền hình, một
loại chương trình đang phát triển rất mạnh vì tính chất thú vị, bổ ích và hấp
dẫn đối với họ. Vì thế, số lượng cũng như phạm vi công chúng không ngừng
phát triển và mở rộng, tạo thành một lớp công chúng truyền hình khác trước
rất nhiều, có thể gọi đó là công chúng truyền hình hiện đại.
19


1.1.3. Tuyên truyền và tuyên truyền trên sóng truyền hình
Tuyên truyền là hoạt động giải thích rộng rãi để thuyết phục mọi người
tán thành, ủng hộ, làm theo2. Công tác tuyên truyền ở nước ta là một bộ phận
của công tác tư tưởng có nhiệm vụ truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước nhằm làm cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức
được quy luật tồn tại, phát triển của xã hội loài người, thấm nhuần đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trên cơ sở đó hình
thành, củng cố niềm tin, ý chí, hành động tự giác, sáng tạo, hiệu quả để bảo
đảm lợi ích của mình và góp phần phát triển xã hội.
Các nhiệm vụ của công tác tuyên truyền được thực hiện thông qua hoạt
động tư tưởng, tâm lý của con người bằng lực lượng (cán bộ tuyên truyền),
bằng tổ chức, bộ máy, bằng các công cụ, phương pháp, hình thức đa dạng,
phong phú. Trong đó, chủ yếu là sử dụng các phương tiện thông tin báo chí
truyền thông như báo in, báo phát thanh, truyền hình... Nghị quyết số 16 –
NQ/TW ngày 1-8-2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về
công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới nhấn mạnh: Báo chí
(trong đó có báo truyền hình) phải nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp
thời, có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp dương
các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh, góp phần ngăn chặn
và từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn
xã hội; phản bác có hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động,
thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng; tiếp tục phát huy tiềm
lực và ưu điểm, khắc phục các yếu kém, khuyết điểm, nâng cao chất lượng tư

2

Hoàng Phê (chủ biên): Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Đà nẵng – Hà Nội, 1997,
tr 1031.

20


tưởng, tính hấp dẫn, mở rộng đối tượng độc giả, vươn lên hiện đại về mô hình
tổ chức hoạt động, về cơ sở vật chất, kĩ thuật và công nghệ.

Báo chí, truyền thông là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng và Nhà
nước, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là phương tiện quan
trọng tuyên truyền phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị, là diễn đàn để nhân dân tham gia quản lý xã hội, giám sát quyền lực,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Toàn
bộ hệ thống báo chí, truyền thông ở Việt Nam đều là cơ quan của các tổ chức
đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo báo chí, truyền thông bằng việc định hướng quy hoạch
phát triển và quản lý hệ thống báo chí, truyền thông; định hướng tư tưởng,
chính trị trong nội dung thông tin; quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ; giám sát,
kiểm tra hoạt động của các cơ quan báo chí và nhà báo; lãnh đạo việc tăng
cường quản lý nhà nước về báo chí, truyền thông, coi trọng thể chế hóa đường
lối, quan điểm của Đảng bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là
xây dựng, bổ sung, từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp đối với các các
lĩnh vực báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền
thông khác.
Điều 4, Luật Báo chí năm 2016 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí (trong đó
có báo truyền hình) như sau:
(1). Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương
tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ
quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn
của Nhân dân.
21


×